ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN XUÂN BÉ
THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học
Hà Nội – 2013
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
NGUYỄN XUÂN BÉ
THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Liêu
Hà Nội – 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn "Thực thi quyền lực của nhân dân trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam"
là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực hiện từ
năm 2012 và hoàn thành vào tháng 12 năm 2013. Các số liệu
và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên
cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Xuân Bé
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
NNPQXHCN : Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
NNPQ
: Nhà nƣớc pháp quyền
iv
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................. 3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 10
3.1. Mục đích nghiên cứu............................................................................................... 10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ....................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận văn .......................................... 11
6. Đóng góp của Luận văn ............................................................................................. 11
7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................................. 11
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN Ở
VIỆT NAM ................................................................................................................... 12
1.1. Nhà nƣớc pháp quyền ............................................................................................ 12
1.1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc pháp quyền .............................................. 12
1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nƣớc PQXHCN .................... 16
1.1.3. Những đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam ............... 24
1.2. Quyền lực, quyền lực chính trị, quyền lực của nhân dân và thực thi quyền lực..... 29
1.2.1. Quyền lực và quyền lực chính trị ........................................................................ 29
1.2.2. Quyền lực của nhân dân ...................................................................................... 34
1.2.3. Nội dung và hình thức của quyền lực nhân dân ở Việt Nam ............................... 37
1.2.4. Cơ chế thực thi quyền lực của nhân dân ở Việt Nam ......................................... 45
CHƢƠNG 2.THỰC THI QUYỀN LỰC NHÂN DÂN TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NNPQXHCN Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .......... 53
2.1. Đánh giá tình hình thực thi quyền lực nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam ...................................................................... 53
2.1.1 Luật hóa quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nƣớc
PQXHCN Việt Nam....................................................................................................... 53
2.1.2 Đánh giá việc thực thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nƣớc PQXHCN Việt Nam .....................................................................................64
1
2.2. Một số giải pháp đảm bảo thực thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây
dựng nhà nƣớc PQXHCN Việt Nam hiện nay ...............................................................80
2.2.1. Xác dịnh nội dung quyền lực của nhân dân và thể chế hóa quyền lực
đó thành luật ...................................................................................................................80
2.2.2. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, củng cố và tăng cƣờng .............................................84
2.2.3. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc ..........................................................87
2.2.4. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân .......................92
2.2.5 Xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định để Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia tích cực vào quá trình góp
ý, giám sát và phản biện xã hội ......................................................................................96
KẾT LUẬN ....................................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................102
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân và vì dân là một trong những vấn đề đƣợc các văn kiện Đại hội XI đề
cập một cách toàn diện, sâu sắc. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định:
Một là, Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một trong tám đặc trƣng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà nƣớc pháp quyền
là một giá trị tƣ tƣởng đƣợc tích lũy lâu dài trong lịch sử nhân loại. Sự hình
thành của tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền luôn gắn liền với tƣ tƣởng phát
triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật...
Ở nƣớc ta, tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền cũng đã xuất hiện từ lâu, thể
hiện đậm nét trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Mặc dù, trong quá trình nghiên
cứu, Chủ tịch Hồ Chí Minh chƣa dùng khái niệm “Nhà nƣớc pháp quyền”,
nhƣng tƣ tƣởng của Ngƣời về nhà nƣớc pháp quyền đã rất rõ. Trong “Việt
Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền” [21, tr.438]. Khái niệm “Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên đƣợc Đảng ta sử dụng tại Hội nghị Đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994). Từ đó khái niệm này đƣợc sử
dụng chính thức trong các văn kiện Đảng và Nhà nƣớc. Những nội dung
mang tính đặc trƣng của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ngày càng định hình và thực hiện trong thực tế. Cƣơng lĩnh xây dựng đất
nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục cụ thể hóa về nội hàm của khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nhƣ sau: "Tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nƣớc là thống
3
nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp"[49,tr.85].
Hai là, một trong tám phƣơng hƣớng cơ bản để đạt đƣợc mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nƣớc ta cần nắm vững là “xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
[49,tr.72]. So với Cƣơng lĩnh năm 1991 thì đây là sự tiến bộ vƣợt bậc về tƣ
duy lý luận của Đảng ta trong quá trình xây dựng và từng bƣớc hoàn thiện
Nhà nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cƣơng lĩnh năm 1991 mới xác định
xây dựng Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa, trong đó chỉ mới đề cập đến nội dung
nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cƣơng xã hội, chuyên chế với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, qua tổng kết
20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm thực hiện Cƣơng lĩnh năm 1991 xác
định: Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta là công việc mới mẻ, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Do đó, để xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN thành công ở Việt
Nam chúng ta còn phải thực hiện nhiều giải pháp, tìm tòi những căn cứ lý
luận khoa học cùng với đó là từng bƣớc tổng kết thực tiễn ngay trong quá
trình xây dựng. Bản chất của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN xét đến cùng là
mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất
của quyền lực nhà nƣớc. Nhân dân không những là chủ thể mà còn là cội
nguồn phát sinh quyền lực, đồng thời với đó là ngƣời giám sát quá trình tổ
chức thực thi quyền lực nhà nƣớc. Nhƣ vậy, muốn xây dựng thành công Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta ngoài việc xây dựng thể chế chính tri,
hoàn thiện khung pháp lý thì việc tìm ra cách thức để thực thi có hiệu quả
quyền lực của ngƣời dân là hết sức quan trọng.
4
Trong thời gian vừa qua, bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đạt
đƣợc nhƣ đã ban hành nhiều văn bản, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi
cho nhân dân tham gia vào công việc của chính quyền, khối đại đoàn kết đƣợc
tăng cƣờng, dân chủ đƣợc tôn trọng và từng bƣớc đi vào nền nếp, thì việc phát
huy quyền lực của nhân dân trong việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục nhƣ: Quyền lực nhân dân
có lúc có nơi chƣa thật sự chú trọng, thậm chí còn vi phạm dân chủ trầm
trọng. Nhân dân chƣa tham gia sâu vào công việc của chính quyền nhà nƣớc
các cấp, cơ chế, giải pháp ở nhiều địa phƣơng chƣa thống nhất, đồng bộ. Một
bộ phận cán bộ chính quyền các cấp chƣa thật sự lắng nghe tiếng nói từ dân,
chƣa gắn chặt hoạt động của chính quyền với lợi ích thiết thực của nhân dân,
gây bức xúc và bất bình trong nhân dân. Hai phƣơng thức cơ bản trong thực
thi quyền làm chủ của nhân dân là "dân chủ trực tiếp" và "dân chủ đại diện"
có lúc, có nơi còn rơi vào hình thức, giã hiệu thậm chí còn lúng túng trong
triển khai hƣớng dẫn thực hiện, dẫn đến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng gặp nhiều bất cập, vƣớng mắc, chƣa đáp ứng đƣợc
nhu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Chính
thực tế đó đã đặt ra cho chúng ta cả trƣớc mắt và lâu dài là phải tìm tòi, xây
dựng những giải pháp tối ƣu, có tính khả thi để khơi dậy và thực thi có hiệu
quả quyền lực của nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN.
Xuất phát từ nhu cầu đó, tôi chọn vấn đề "Thực thi quyền lực của nhân
dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam"
làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, vấn đề quyền lực nói chung, quyền lực chính trị nói riêng đã thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng nhƣ các nhà khoa học
thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài nƣớc. Trong
những năm gần đây, vấn đề thực thi quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đƣợc xác định nhƣ một trong những nhiệm vụ
5
trung tâm của công cuộc đổi mới, cải cách ở một số nƣớc XHCN. Khuynh
hƣớng bảo vệ và mở rộng quyền lực chính trị của nhân dân lao động trên cơ
sở cải cách thể chế kinh tế, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lƣợng sản xuất, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN..
đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong quá trình xây dựng và phát triển ở
các nƣớc này. Để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị thực tiễn đó, việc nghiên
cứu nội dung, phƣơng thức nâng cao quyền lực của nhân dân nói chung,
quyền lực chính trị của nhân dân nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà lý luận.
Ở nƣớc ta, liên quan đến vấn đề thực thi quyền lực của nhân dân trong
quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam đã có rất nhiều
công trình khoa học, các bài báo, các đề tài đƣợc tiếp cận trên nhiều góc độ
khác nhau. Đặc biệt là sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994), các nhà khoa học đã quan tâm sâu sắc hơn về vấn đề này và đã có
những công trình đƣợc công bố. Qua khảo sát bƣớc đầu, chúng tôi nhận thấy
đã có một số công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề nói trên, chẳng hạn nhƣ:
- Hoàng Chí Bảo, Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội - 2007. Công trình nêu bật tầm quan trọng của
dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn ở nƣớc ta
hiện nay; những hạn chế yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở
trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm góp
phần thực hiện ngày càng có hiệu quả hơn việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội, tạo động lực và mục tiêu cho sự nghiệp xây dựng một nƣớc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh".
- Nguyễn Thị Hiền Oanh, Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội -2005. Công trình đi sâu làm rõ nội dung Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là một phƣơng thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong
6
đó tập trung chỉ ra những kết quả đạt đƣợc trong hoạt động của Mặt trận trong
vai trò là phƣơng thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời,
công trình đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân dẫn đến hạn chế
yếu kém đó. Đặc biệt, đã bƣớc đầu đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm cụ thể
hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
- Hoàng Mai Hƣơng - Nguyễn Hồng Hải, Tư tưởng của V.I.Lênin về
quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội - 2010.
Các tác giả đã đề cập và nhấn mạnh tƣ tƣởng của Lênin về quyền con ngƣời,
dân chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham gia, đồng thời
nêu bật ý nghĩa của các quyền này đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
- Trần Hậu Thành, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội - 2005. Đây là công trình công phu, đề cập một cách khá
đầy đủ về Nhà nƣớc pháp quyền và vấn đề xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác giả đã luận giải nội hàm của nhà nƣớc pháp
quyền, so sánh đối chiếu qua các quan điểm khác nhau. Quan trọng hơn, đề
tài đã làm rõ quan điểm và nội dung cơ bản về xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó đề xuất nhiều giải pháp, chỉ ra
phƣơng hƣớng, các bƣớc đi cụ thể cho tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở: Vấn đề quyền lực chính trị và thực thi quyền
lực chính trị (2008), do Viện Chính trị học - Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì và PGS.TSKH. Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm,
đã khái quát một số cách tiếp cận khác đối với quyền lực và quyền lực nhà
nƣớc. Đây chủ yếu là những phƣơng pháp và góc độ tiếp cận quyền lực,
quyền lực nhà nƣớc của chính trị học phƣơng Tây, nhất là Mỹ,...nhƣ là bƣớc
đi tiếp theo của việc nghiên cứu quyền lực và quyền lực nhà nƣớc theo hƣớng
chuyên sâu.
7
- Lê Minh Quân - Bùi Việt Hƣơng: Về quyền lực trong quản lý nhà nước
hiện nay, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội - 2012. Cuốn sách trình bày có hệ
thống và đa dạng cách tiếp cận mới về quyền lực nhà nƣớc hiện nay. Mặt
khác, cuốn sách đã đề cập đến những thay đổi cần thiết về phƣơng thức quản
lý nhà nƣớc, chức năng và nhiệm vụ của quản lý nhà nƣớc dƣới góc độ quyền
lực.
- Hồ Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tƣờng Vân: Phản biện xã hội và phát
huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội -2010. Cuốn sách
nhấn mạnh đến những nội dung của phản biện xã hội, nhất là những cơ chế để
phản biện xã hội phát huy hiệu quả cao nhất. Đồng thời, đem cơ chế phản
biện xã hội đặt trong bối cảnh của nền dân chủ pháp quyền để thấy đƣợc vai
trò của nó trong việc xây dựng và phát triển nội dung dân chủ hóa xã hội.
- Trần Ngọc Liêu: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2013. Cuốn sách đi sâu luận giải các quan điểm
khác nhau về bản chất nhà nƣớc pháp quyền và chỉ ra những thành tựu, nhận
thức của Đảng ta trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã vạch rõ cách thức để tiếp tục thực thi tốt
hơn quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Ngoài các công trình chuyên khảo nói trên, ở nƣớc ta trong thời gian
qua, còn có nhiều công trình khác có liên quan đã công bố nhƣ:
- Phạm Văn Bính (2006), Cơ cấu, phương thức thực hiện quyền lực
trong hệ thống hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Ngô Huy Cƣơng (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tƣ pháp,
Hà Nội.
- Dƣơng Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội.
8
- Nguyễn Sinh Hùng: Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 844 (Tháng 2
năm 2013)
- Lê Hữu Nghĩa: Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 1/2013.
- Vũ Lân: Để quần chúng nhân dân tham gia tốt hơn vào công tác xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Tạp chí Cộng sản, số 845 (tháng 3 năm
2013).
- Nguyễn Linh Khiếu: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, Tạp chí Cộng sản, Số 839 (tháng 9
năm 2012)
- Trần Ngọc Liêu (2004), Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân của Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Số 10, 5/2004.
- Trần Ngọc Liêu: Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Số 834 (Tháng 4
năm 2012)
v.v...
Nhìn chung các công trình trên đã bƣớc đầu đi sâu vào những khía cạnh,
góc độ khác nhau về quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta. Các công trình đó đã đạt đƣợc những giá
trị to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Qua đây chúng ta có một cách nhìn nhận
đa chiều và khách quan hơn về vấn đề quyền lực nhân dân và nhà nƣớc pháp
quyền. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ nhấn mạnh đến vấn đề xây
dựng Nhà nƣớc Pháp quyền XHCN ở Việt Nam, hoặc là chỉ bàn riêng về vấn
đề dân chủ xã hội. Chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và luận giải
những căn cú khoa học để phát huy tối đa quyền lực của nhân dân góp phần
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta. Đề tài này mong muốn
9
đóng góp thêm một phần nhỏ đó là cung cấp thêm một số giải pháp nhằm
phát huy hơn nữa quyền lực của nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc
PQXHCN ở nƣớc ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích:
Thông qua việc làm rõ nội dung, hình thức và cơ chế thực thi quyền lực,
Luận văn hƣớng tới mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi quyền lực
nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích đặt ra ở trên luận văn có nhiệm vụ:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền lực, quyền lực chính trị, quyền
lực của nhân dân.
+ Luận giải nội dung và cơ chế đảm bảo việc thực thi quyền lực của
nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực
của nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Quyền lực nhân dân đƣợc thực thi trên hai phƣơng diện là quyền lực
chính trị đƣợc luật hóa thành các văn bản và đảm bảo thực thi bằng bộ máy
nhà nƣớc.
+ Quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực thi quyền lực của
nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc XHCN.
Luận văn kế thừa những thành quả nghiên cứu của những công trình có
liên quan đến đề tài đã đƣợc công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng các phƣơng pháp
liên ngành và chuyên ngành chính trị học cụ thể nhƣ: phân tích, tổng hợp, hệ
thống cấu trúc, nghiên cứu tài liệu, đối chiếu so sánh, v.v...
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thực
thi quyền lực của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam.
- Góp phần đánh giá những thành tựu và hạn chế của việc thực thi quyền
lực nhân dân trong xây dựng NNPQXHCN ở Việt Nam từ 1994 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả đối với việc
thực thi quyền lực của nhân dân trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN
ở Việt Nam.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy và
nghiên cứu các vấn đề nhƣ: dân chủ, NNPQ, quyền lực nhân dân, phản biện
xã hội... phục vụ cho cán bộ hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến
đề tài của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chƣơng, 4 tiết.
11
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ VIỆC THỰC THI QUYỀN LỰC CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.1 Nhà nước pháp quyền
1.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Trong di sản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nƣớc và pháp luật giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng,
cũng cố một nhà nƣớc kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Những tƣ tƣởng của
Hồ Chí Minh về nhà nƣớc là rất to lớn và sâu sắc, không chỉ đƣợc thể hiện
trong các bài viết, các bài phát biểu, trong các văn kiện quan trọng do Ngƣời
trực tiếp chỉ đạo xây dựng và ban hành mà cả trong hành động thực tiễn của
Ngƣời trên cƣơng vị là ngƣời lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nƣớc.
Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc pháp quyền có thể khái
quát trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh "Chế độ ta là chế độ dân chủ, địa vị cao
nhất là dân vì dân là chủ" [19, tr.515]. "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là
nhân dân là chủ"[20, tr.499]. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và
duy nhất của quyền lực nhà nƣớc. Toàn bộ quyền lực nhà nƣớc đều bắt nguồn
từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nƣớc thực hiện, nhằm
phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nƣớc đƣợc thiết lập là bộ máy
thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nƣớc không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân.
"Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các
làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ
không phải là để đè đầu dân nhƣ trong thời kỳ dƣới quyền thống trị của Pháp,
Nhật" [18, tr.56].
12
Là nƣớc của dân, do chính nhân dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân
chủ. Bầu cử dân chủ là phƣơng thức thành lập bộ máy nhà nƣớc đã đƣợc xác
lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi
tiếp nhận sự ủy quyền quyền lực từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự là nhà
nƣớc của dân, ngay từ những ngày đầu giành đƣợc nền độc lập, Hồ Chí Minh
đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp
bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nƣớc.
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, 3/9/1945 Hồ Chủ
Tịch đã họp và đề ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nƣớc, trong đó Ngƣời
đề nghị "Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu"[18, tr.133].
Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, một nhà nƣớc của dân, không chỉ do
nhân dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ mà còn là nhà nƣớc chịu sự kiểm
tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Ngƣời khẳng định: "Chế độ ta là chế độ
dân chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc phê
bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân
dân". "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của
nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại
biểu của mình" [20, tr.368].
Đối với Hồ Chí Minh, một nhà nƣớc của dân thật sự phải là một nhà nƣớc
do dân và vì dân. Ngƣời viết: "Kinh nghiệm trong nƣớc và các nƣớc chứng tỏ cho
chúng ta biết: có lực lƣợng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
đƣợc. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những ngƣời tài giỏi,
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"; "Không có lực lƣợng nhân dân, thì
việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong..."[19, tr.292]. Một nhà nƣớc của
dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà nƣớc nếu biết lắng nghe và học
hỏi nhân dân, biết tôn trọng, bồi dƣỡng và nâng cao sức dân không chỉ nói lên
13
những mong muốn của mình mà còn chỉ ra đƣợc nhà nƣớc cần phải hành động
nhƣ thế nào để để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh. Chính vì lẽ đó, Nhà
nƣớc đƣợc thành lập không vì mục đích làm thay cho dân, mà thực hiện vai trò
ngƣời cầm lái, ngƣời tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải
quyết các vấn đề của chính mình. Ngƣời viết:"Nếu không có nhân dân thì Chính
phủ không đủ lực lƣợng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn
đƣờng. Vậy chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối"[18, tr.56]. Nhà
nƣớc của dân, do dân không có mục đích tự thân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh
của Nhà nƣớc là phụng sự hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân. Chính vì lẽ đó,
Ngƣời cho rằng "....Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Nhƣng nếu nƣớc nhà độc lập mà dân không hƣởng hạnh phúc, tự do, thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì...Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm
cho ai nấy đều có phần hạnh phúc...."[18, tr.56]. Ngƣời nhắc nhở: "Việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh..."[18, tr.57].
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về một nhà nƣớc vì dân, tất cả vì hạnh phúc của
nhân dân là tƣ tƣởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Ngƣời. Cả cuộc đời của
Ngƣời là một tấm gƣơng trong sáng thể hiện sinh động tƣ tƣởng, đạo đức của một
con ngƣời suốt đời vì dân, vì nƣớc. Khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch nƣớc, Ngƣời
đã trả lời các nhà báo "Tôi tột nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào. Bây giờ phải gánh chức chủ tịch nƣớc là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng
làm, cũng nhƣ một ngƣời lính vâng lệnh quốc dân ra trƣớc mặt trận" [16, tr.381].
Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật:
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
đề cao vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc - xây đã có bốn điểm liên quan
đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con ngƣời.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam đƣợc Hồ Chí Minh chuyển thành
"Việt Nam yêu cầu ca", trong đó có yêu cầu thứ bảy là: "Bảy xin hiến pháp ban
14
hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền". Đây là tƣ tƣởng rất đặc sắc của
Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nƣớc dân chủ mới - Nhà nƣớc
quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong
hoạt động quản lý nhà nƣớc của Ngƣời.
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã đề ra một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải
có một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp gồm 7
thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trƣởng ban. Bản dự thảo Hiến pháp
hoàn thành khẩn trƣơng và nghiêm túc dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa I vào tháng 10/1946, Quốc hội đã
thảo luận dân chủ và thông qua Bản dự thảo Hiến pháp này. Đó là bản hiến pháp
đầu tiên của nƣớc Việt Nam: Hiến pháp 1946.
Sau 1954, khi miền Bắc bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đất nƣớc đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiếp pháp
1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trƣơng sửa đổi và ban hành
Hiến pháp mới - Hiến pháp 1959. Trong tƣ duy Hồ Chí Minh, một khi điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp,
cũng phải thay đổi để đảm bảo khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội
đã phát sinh và định hình.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải
nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nƣớc sử dụng pháp luật để quản lý
xã hội. Song, pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai
cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì
nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội
nghị chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong năm nhiệm vụ để hoàn thành sự
nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên là "Tăng cƣờng không
ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân,
15
chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà
nƣớc"[17, tr.235].
Nét đặc sắc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nƣớc là các cơ
quan nhà nƣớc hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật
nhƣng trong điều kiện của một nƣớc thuộc địa nữa phong kiến ở phƣơng Đông,
Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ chức hoạt động của
Nhà nƣớc và quản lý nhà nƣớc. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải để trừng
trị con ngƣời mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con ngƣời. Tƣ tƣởng
pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc thông qua đội ngũ
cán bộ, công chức của Ngƣời thấm đƣợm một tấm lòng thƣơng yêu nhân dân,
chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đƣợm lòng nhân ái, nghĩa
đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết
hợp giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức nhà nƣớc của Hồ Chí Minh có một nội
hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và nhân văn sâu sắc.
Quá trình xây dựng và phát triển nhà nƣớc ở nƣớc ta trong mỗi giai đoạn
sau này đã có không ít những thay đổi về mô hình bộ máy dƣới tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nhƣng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là
tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân. Ngày nay, trong bối cảnh phát triển mới của đất nƣớc dƣới tác động mạnh mẽ
của thời đại và thế giới, trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều điểm đã thay đổi, nhƣng
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân vẫn còn
nguyên giá trị, tiếp tục định hƣớng cho các nổ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp
đổi mới mô hình bộ máy nhà nƣớc trong các điều kiện phát triển mới.
1.1.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
nền tảng dân chủ. Dƣới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng về nhà nƣớc, tổ chức bộ máy nhà nƣớc đã đƣợc thể chế hóa trong bản Hiến
16
pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Với Hiến pháp 1946, Đảng ta chủ trƣơng thực
hiện "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" nhằm đoàn kết toàn dân,
không phân biệt giống nòi, gái trái, giai cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do
dân chủ. Hiến pháp 1959 đã thể chế hóa quan điểm Đảng ta về "sử dụng chính
quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản"[46,
tr.179]. Đảng ta khẳng định rằng "khi nào cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì chuyên chính dân chủ nhân dân sẽ
trở thành chuyên chính vô sản ....Hình thức Nhà nƣớc cộng hòa dân chủ nhân dân
vẫn có thể tồn tại khi nội dung của nó đã chuyển đổi thành chuyên chính vô sản.
Nhƣng nếu nhiệm vụ và yêu cầu là cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì về thực chất chế độ dân chủ nhân dân sẽ trở thành chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa" [39, tr.193].
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: "Nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa là nhà nƣớc chuyên chính vô sản, một tổ chức thể hiện quyền làm chủ tập
thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội.."[50, tr.162].
Quan điểm của Đảng về Nhà nƣớc chuyên chính vô sản đã đƣợc thể chế
hóa trong Hiến pháp 1980 "Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nƣớc chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nƣớc đó là thực hiện quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành
đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học kỹ thuật, cách mạng tƣ tƣởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ
thuật là then chốt, xóa bỏ chế độ ngƣời bóc lột ngƣời, đập tan mọi sự chống đối
của bọn phản cách mạng trong nƣớc, mọi hành động xâm lƣợc và phá hoại của kẻ
thù bên ngoài, xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa, tiến tới chủ nghĩa cộng sản;
góp phần củng cố hòa bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế
giới" (Điều 2- Hiến pháp 1980).
Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định "quyền làm chủ tập
17
thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông, thực hiện bằng
nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân, đó là
chuyên chính vô sản. Nhà nƣớc ta, vì vậy, là nhà nƣớc chuyên chính vô sản" [50,
tr.162].
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đƣờng lối đổi mới đã
đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tƣ duy, quan điểm về xây dựng
nhà nƣớc trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Đảng ta khẳng định "Nhà
nƣớc ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, do giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời
kỳ quá độ, đó là Nhà nƣớc chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa..."[47, tr.124]. Mặc dù vẫn dùng khái niệm "Nhà nƣớc chuyên chính vô
sản", nhƣng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc trong quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam tại Đại hội VI đã có đổi mới: "Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, chức
năng của Nhà nƣớc là thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của
nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà nƣớc ta phải bảo
đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị
những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.."[47, tr.125].
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của
Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nƣớc và cho rằng: "Cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề,
nhiều tầng, nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn
cán bộ chƣa đƣợc xác định rõ ràng"[47, tr.125]. Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
cải cách bộ máy nhà nƣớc sẽ thúc đẩy việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp là cơ sở đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nƣớc. Đồng thời, cải
cách bộ máy nhà nƣớc sẽ thúc đẩy việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu
bao cấp, tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của cải cách
kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trƣơng "...Để thiết lập cơ chế
quản lý mới, cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ
quan nhà nƣớc theo phƣơng hƣớng: xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý
18
nhà nƣớc thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp.
Tăng cƣờng bộ máy nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa phƣơng thành một hệ thống
thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng
cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân định rõ chức năng quản lý hành chính
- kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý
theo địa phƣơng và vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã
hội..."[47, tr.125].
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định, thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nhƣ vậy, việc đổi mới và kiện
toàn hệ thống chính trị đƣợc Đảng ta đặt ra nhƣ một tất yếu để thực hiện và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị, Đảng chủ
trƣơng tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nƣớc theo hƣớng: Nhà nƣớc thực
sự của dân, do dân. Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, dƣới sự lãnh đạo của
Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống
nhất quyền lực nhƣng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ
và hoạt động có chất lƣợng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ
thuật quản lý..."[48, tr.297].
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà
nƣớc đƣợc xác định tại Đại hội VI, VII và đƣợc Đảng ta tiếp tục phát triển trong
"Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1991)
là: "Tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân
dân. Nhà nƣớc ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra pháp luật và quản
lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nƣớc, cải
cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả
chức năng quản lý nhà nƣớc.
Nhà nƣớc có mối liên hệ thƣờng xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng
và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền,
19
vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nƣớc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có
sự phân công, phân cấp đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của trung ƣơng.
Nhà nƣớc Việt Nam thống nhất ba quyền, lập pháp, hành pháp và tƣ pháp,
với sự phân công rành mạch của ba quyền đó" [48, tr.297].
Quan điểm của Đảng về Nhà nƣớc trong Cƣơng lĩnh 1991 đã nhấn mạnh
đến những vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nƣớc trong một chế độ dân chủ - pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ khả năng
định ra pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thống nhất quyền lực (thống nhất
ba quyền, lập pháp, hành pháp và tƣ pháp) với sự phân công rành mạch ba quyền
đó. Tuy chƣa đề cập trực tiếp đến phạm trù nhà nƣớc pháp quyền, nhƣng sự thể
hiện các vấn đề cơ bản có tính pháp quyền trong tổ chức nhà nƣớc ở tầm cƣơng
lĩnh chính trị cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt
động của Nhà nƣớc theo các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nƣớc pháp quyền XHCN
trong bối cảnh cụ thể nƣớc ta.
Đến Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu
tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ "nhà nƣớc pháp quyền" và nêu khá cụ
thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam "..tiếp tục xây dựng và từng
bƣớc hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nƣớc của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đƣa đất
nƣớc phát triển theo định hƣớng XHCN. Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam đƣợc
xay dựng trên cơ sở tăng cƣờng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên
minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
ta lãnh đạo" [48, tr.510].
Với cách thể hiện trong văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII, những quan điểm cơ bản về các nội dung chủ yếu của phạm trù Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã đƣợc xác lập, đặt cơ sở lý
20
luận cho việc triển khai các chủ trƣơng, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nƣớc trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng lần thứ Tám (khóa VII) đã đánh dấu
một bƣớc quan trọng trong việc cụ thể hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nƣớc ta. Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa (VII) là hội nghị chuyên bàn về nhà
nƣớc với tinh thần là: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bƣớc nền hành chính. Sau khi đánh
giá những thành tựu và khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức, hoạt động của nhà
nƣớc ta và những yêu cầu trƣớc tình hình mới, văn kiện Hội nghị đã nêu 5 quan
điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình kiện toàn bộ máy nhà nƣớc cụ thể là:
- Xây dựng nhà nƣớc XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cƣơng xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích tổ quốc và của
nhân dân;
- Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tƣ
pháp;
- Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Nhà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam;
- Tăng cƣờng pháp chế XHCN; xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam,
quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức
XHCN;
- Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nƣớc.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VII tại Đại
hội lần thứ VIII tiếp tục khẳng định 5 quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền đã đƣợc Hội nghị Trung ƣơng 8 khóa VII xác định, đồng thời đặt ra
các nhiệm vụ: "Đổi mới, nâng cao chất lƣợng công tác lập pháp và giám sát tối
21