Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích tình hình nợ xấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.94 KB, 27 trang )

Mở đầu
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, phản ánh hoạt động
đặc trưng của Ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại thu
nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho Ngân hàng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTM đã coi chính sách
mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần.
Nhưng không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng,
tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy
trình tín dụng để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh tổn thất cho Ngân hàng. Những khoản
cho vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày
càng gia tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có lúc đe dọa tới
tính thanh khoản của hệ thống Ngân hàng. Do vậy, quản trị nợ xấu, hạn chế nợ xấu
có nguy cơ phát sinh và xử lý nợ xấu đã phát sinh là một yêu cầu cấp thiết, có vai
trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý của Ngân hàng.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề nợ xấu NHTMVN em quyết định
chọn đề tài này để có thể tìm hiểu về thực trạng nợ xấu của hệ NHTM của Việt
Nam và nêu ra những giải pháp mà nhà nước đã đề ra, bên cạnh đó em cũng xin đề
xuất những giải pháp của em sau khi tìm hiểu vấn đề này.
Mong cô đọc và cho em ý kiến về bài tiểu luận của em.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


Chương I
Tổng quan về nợ xấu trong hệ thống NHTMVN
1.1.Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM


Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính tiền gởi và cho vay tiền.





Ngân hàng thương mại là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký
thác, cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính.



Theo tinh thần Luật các Tổ chức tín dụng (công bố ngày 26/12/1997) và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng (có hiệu lực
thi hành ngày 01/10/2004): Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gởi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh
toán, và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.



Tại Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gởi cho phép khách
hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho
vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng.



==> Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về Ngân hàng
thương mại: Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với
hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung
cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. NHTM là tổ chức
tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất.

1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM

1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
2


-

Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức

-

tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn

-

của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức nước

-

ngoài.
Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước.
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân Hàng Nhà Nước. Trong các hoạt động cấp
tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức

sau:

-

Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và

-

đời sống.
Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng
uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo
lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được
vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấu tờ có giá
ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
3


Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính thực hiện theo nghị định của Chính phủ về tổ chức và
hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
1.1.2.3.Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng, NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Khi thực
hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước,

NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đặt trụ sở
chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi
nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân
quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động sau:
-

Cung cấp các phương tiện thanh toán
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà

-

nước
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống liên ngân hàng trong

-

nước
Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.

1.1.2.4 Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung
cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện
4



một số hoạt động khác bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần – Ngân hàng thương mại được dung vốn điều lệ và quỹ
dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn
được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập
ngân hàng lien doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ - Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường
tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán
các công cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được pháp kinh doanh hoặc
thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong
nước và thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác – Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác
làm đại lý trong các lính vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản
lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy
thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm – Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo
hiểm, đươch thanh lập công ty trực thuộc hoặc lien doanh để kinh doanh bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính – Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài
chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công
ty tư vấn trực thuộc ngân hàng.
Bảo quản vật quý giá – Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo
quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên
quan theo quy định của pháp luật.

1.2 Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong NHTM
5



1.2.1 Rủi ro tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro đồng hành với quá trình phát triển. Có
nhiều định nghĩa và khái niệm khác nhau về rủi ro. Nhưng nhìn chung, rủi ro là
những yếu tố tiềm ẩn, mà khi phát sinh sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của
hoạt động kinh tế hoặc là khả năng làm thất thoát, thiệt hại về vật chất cũng như
tinh thần trong cuộc sống.
Đối với tín dụng Ngân hàng thì rủi ro được khái niệm một cách cụ thể hơn.
Đó là khả năng không thu hồi được vốn cho vay và lãi phát sinh, là những tình
huống phát sinh trong quá trình sử dụng vốn vay làm cho người vay hoặc những
tình huống người vay không thực hiện thanh toán nợ gốc và lãi đúng hạn. Ở đây có
hai yếu tố quan trọng của hai phía người cho vay và người vay. Có thể khẳng định
rằng rủi ro trong hoạt động tín dụng không phải là bản chất vốn có của tín dụng mà
là những hoạt động liên quan dẫn đến một kết quả không như mong muốn trong
hoạt động tín dụng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có qui mô lớn nhất
của NHTM – đó chính là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ
cụ thể, Ngân hàng cố gắng phân tích, đánh giá người vay sao cho độ an toàn cao
nhất. Và nhìn chung Ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín
dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh Ngân hàng tài ba nào
có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của
khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ Ngân
hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan
điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, rủi ro tín dụng là khó có thể tránh khỏi, là khách
quan. Nhiều quan điểm nhất trí cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh
doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ khó có thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến
luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của Ngân hàng. Điều
6



này cũng có nghĩa, rủi ro tín dụng luôn là khách quan, là nguyên nhân chính gây ra
những khoản nợ xấu trong Ngân hàng và các khoản nợ xấu trong Ngân hàng và các
khoản nợ xấu này tồn tại một cách khách quan, song hành với tiến trình hoạt động
của Ngân hàng. Cũng từ điều đó mà ta chỉ có thể hạn chế nợ xấu mà không thể loại
bỏ hoàn toàn nợ xấu.
1.2.2. Khái niệm nợ xấu
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị
nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường
xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các
khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả
năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Theo Tiến sỹ Lê Xuân Nghĩa – Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển ngân
hàng (Ngân hàng Nhà nước), định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định
493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như
sau:
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm
4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên
90 ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng
thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay
vào các nhóm thích hợp Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố:
1. Đã quá hạn trên 90 ngày
2. Khả năng trả nợ đáng lo ngại. Đây được coi là định nghĩa của VAS.

Còn theo định nghĩa nợ xấu của phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “Về cơ
bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày;
hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc
7



chậm trả theo thỏa thuận;hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày
nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ”.
Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên hai yếu tố:
-

Quá hạn trên 90 ngày.

-

Khả năng trả nợ nghi ngờ.

Đây được coi là định nghĩa của IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành tên thế
giới. Và khi khách hàng bị nợ xấu từ nhóm 3 trở lên sẽ rất khó được ngân hàng
duyệt vay lại ít nhất là 5 năm.

1.2.3 Phân loại nợ xấu

Ta có bảng sau:

Nhóm nợ

Phương pháp định
lượng

Phương pháp định
tính

1- Nợ đủ tiêu chuẩn


Nợ trong hạn, hoặc
Có đủ khả năng thu
quá hạn dưới 10 ngày.
hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi
đúng hạn
2- Nợ cần chú ý
Quá hạn từ 10 – 90
Có khả năng thu hồi
(Special mentioned) ngày; Nợ điều chỉnh hạn trả đầy đủ cả nợ gốc và lãi,
nợ lần đầu.
nhưng có dấu hiệu suy giảm
khả năng trả nợ.
3- Nợ dưới tiêu chuẩn
Quá hạn từ 91 – 180
Không có khả năng
ngày; Nợ gia hạn nợ lần thu hồi nợ gốc và lãi khi
đầu; Miễn hoặc giảm lãi.
đến hạn. Có khả năng tổn
thất.
4- Nợ nghi ngờ
Quá hạn từ 181 –
Có khả năng tổn thất
360 ngày; Nợ cơ cấu lại thời cao.
(Current)

8


hạn trả nợ lần đầu, nhưng
lại tiếp tục quá hạn dưới 90

ngày; Nợ cơ cấu lại thời hạn
trả nợ lần thứ hai…
5- Nợ có khả năng mất

vốn

Không có khả năng
Nợ quá hạn trên
360 ngày; Nợ cơ cấu lại thu hồi, mất vốn.
thời hạn trả nợ lần đầu,
nhưng lại tiếp tục quá hạn
từ 90 ngày trở lên;

Nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần thứ hai
nhưng lại quá hạn;
Nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ lần thứ ba trở
lên…

1.2.3 Bản chất của nợ xấu
Bản chất của nợ xấu gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng – đây là
mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có quan hệ với
nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời
gian nhất định quay về với người cho vay với giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Do đó, tín dụng được tạo nên từ 3 yếu tố chính là: lòng tin, thời hạn của quan hệ tín
dụng và sự hứa hẹn hoàn trả. Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng việc
sửdụng giá trị đó sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn, có tính hiệu quả hơn sau một
thời gian nhất định.

Như vậy, có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, trước hết vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời
9


hạn, sau nữa nó vi phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự
đổ vỡ lòng tin của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.
1.2.4 Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn
bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó,
nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu.
Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả
năng thu hồi của ngân hàng
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh
mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi Ngân
hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng xác định khó có khả
năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này
càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì Ngân hàng
bị coi là có chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có
chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử
dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh
hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản
ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây
là những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của Ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro
có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các
khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù
đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của Ngân hàng

càng cao và ngược lại.
10


Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi Ngân hàng hoặc quốc gia trong
từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ
xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.

Chương II:
Tình trạng nợ xấu của Việt Nam
2.1 Tình trạng nợ xấu 2008-2012
Trong giai đọng 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân
26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư
nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012 dư nợ
tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài
chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh. Và theo báo cáo của NHNN, năm
2008 tỷ lệ nợ xấu là 2,17%; năm 2009 là 2,2%; 2010 là 2,14% và 2011 là 3,3%
trên tổng dư nợ. Trong khi đó, nợ xấu của nhiều ngân hàng vẫn tiếp tục tăng lên
trong quý 3 (Bảng 1)

Bảng 1: Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành (Nguồn: SBV.VCBS Tổng hợp)
Chú giải: Theo số liệu báo cáo của các TCTD
11


Theo số lệu báo cáo của thanh tra NHNN

Theo số liệu của 8 ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo tài chính
riêng lẻ quý 4/2011 ta có biểu đồ sau:


12


Nguồn: Báo cáo tài chính riêng lẻ quý 4/2011 của các ngân hàng và tín

Số liệu của tám NHTM đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý 4/2011 thì
chỉ có VCB có tỷ lệ nợ xấu giảm nhẹ, còn lại các NHTM khác đều có tỷ lệ nợ xấu
tăng cao. Riêng Habubank, tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2,39% năm 2010 lên 4,69%
năm 2011. Nợ nhóm 2 của các ngân hàng đều có sự tăng nhanh cả về giá trị tuyệt
đối và tỷ lệ tương đối. Các NHTM có tỷ lệ này tăng nhanh nhất là HBB từ 9,86%
năm 2010 lên 13,34%, VCB tăng từ 5,27 lên 8%, MBB tăng từ 0,6 lên 1,76%...
Tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh chóng từ năm 2008 (năm 2008 nợ xấu
tăng 74%, 2009 27%, 2011 là 64%, 2012 nợ xấu tăng 66%); đặc biệt là tỉ lệ tăng
trưởng tín dụng trong hệ thống ngân hàng đạt mức bình quân 30%/năm trong
những năm gần đây, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng từ 40,1% vào năm 2000 lên tới
125% vào năm 2010…đi cùng với sự tăng trưởng này thì số nợ xấu cũng tăng theo.
13


Quy mô nợ xấu không phải là lớn nhưng đặc biệt nguy hiểm ở chỗ tốc độ tăng nợ
xấu rất nhanh và rất cao. Nếu không tái cơ cấu lại thì khi đất nước gặp nhiều khó
khăn thì hệ quả của việc áp dụng biện pháp nới lỏng tiền tệ đã làm nợ xấu gia tăng
liên tục, hệ lụy của nợ xấu đối với nền kinh tế là rất lớn nếu không giải quyết kịp
thời. Nợ xấu đến 30/9/2012 là 4,93% còn con số đánh giá của NHNN là 8,82%.
Những con số ngắn gọn kể trên đã cho thấy một phần thực trạng nợ xấu của các
TCTD nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung ở Việt Nam thời gian qua.
Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn kéo dài, sự gia tăng “nợ xấu” tức gia tăng rủi
ro trong hoạt động có tính nhạy cảm cao như hoạt động ngân hàng là một vấn đề
thực sự đáng lo ngại.


2.2 Tình trạng nợ xấu từ 2012 đến nay
Theo công bố của NHNN cuối năm 2012 nợ xấu là 4,08% cho dù theo
tổ chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều. Bước sang năm 2013, tỷ
lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67% vào tháng 4/2013. Tuy nhiên, con
số mà NHNN vừa cập nhật tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng tính đến tháng
6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm đáng kể so với mức 4,65% tính đến cuối tháng
5/2013. Ngày 21/01/2014, tại buổi gặp mặt báo chí cuối năm, Chánh văn phòng
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) - ông Lê Đức Thọ cho biết: Tính đến ngày 31/12/
2013, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là 3,79%.
Tỷ lệ nợ xấu tại 10 nhóm ngân hàng lơn nhất

14


Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng.
Hoạt động năm 2012 cho thấy, ở nhóm 10 ngân hàng thương mại lớn
nhất hầu hết duy trì tỷ lệ nơ xấu ở mức an toàn là dưới 3%. Tuy nhiên vẫn có
những ngân hàng có nợ xấu rất cao, điển hình như Agribank với nợ xấu chiếm
5,8% trên tổng dư nợ và con số tuyệt đối là 27.803 tỷ đồng. Nợ xấu của Agribank
cũng tương đương với tổng nợ xấu của Vietcombank, BIDV, Vietinbank, SHB và
ACB cộng lại.
Ngân hàng SHB năm 2012 có tỷ lệ nợ xấu cũng rất cao, tới 8,53%
tương đương 4.844 tỷ đồng do nhà băng này phải gánh thêm nợ xấu sau khi hợp
nhất với Habubank.
Trong số các ngân hàng có quy mô nhỏ hơn, tỷ lệ nợ xấu của một số
ngân hàng cũng duy trì ở mức an toàn như KienLongBank với 2,77%; DongABank

15



2,61%; VietCapitalBank với 1,9%... Song cũng không ít các ngân hàng thuộc diện
phải bắt buộc bán nợ chiếu theo quy định của VAMC.
Theo các báo cáo công khai thì SCB đang có tỷ lệ nợ xấu cao nhất
trong nhóm này, tới 7,2%. Tuy nhiên trường hợp này là ngoại lệ khi mà ngân hàng
vừa tiến hành tái cơ cấu được hơn một năm, sau khi tiến hành hợp nhất cùng
TinNghiaBank và FicomBank theo chủ trương của NHNN.
Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng trong diện buộc phải tái cơ cấu đều
khá cao, ví dụ như WesternBank với 6,89% hay Navibank với 5,6%.
Còn trong nhóm các ngân hàng không thuộc diện bắt buộc phải tái cơ cấu thì
BaoVietBank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất. Nhà băng này dù chỉ có 400 tỷ đồng nợ xấu
song lại chiếm tới 5,94% trên tổng dư nợ. Một trường hợp khác nữa như Ngân
hàng Đại Á, tỷ lệ nợ xấu cũng lên tới 4,4%.
Trong quý 1/2013, theo báo cáo đã được công bố cho đến thời điểm
hiện tại, hầu hết tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng đều cao hơn cuối năm 2012. Một
số cái tên mới xuất hiện trong nhóm có nợ xấu trên 3% như Techcombank 3,5%.
Đặc biệt, theo kế hoạch kinh doanh năm 2013, nhiều ngân hàng dù nợ
xấu ở mức an toàn trong năm trước song lại đặt ra mục tiêu nợ xấu rất cao, như
ABBank với kế hoạch 3,54%; SouthernBank 5%.
Như vậy vấn đề nợ xấu hiện nay còn qua nhiều uẩn khúc. Không có số
liệu đáng tin cậy về nợ xấu thifkhoong thể xây dựng chiến lược đúng để giải quyết
vấn đề, không xác định được nền kinh tế cần bao nhiêu vốn và phải mất bao nhiêu
thời gian để giải quyết vấn đề này, một vấn đề rất đáng lo ngại hiện nay.

2.3 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu trong ngân hàng thương mại Việt
Nam.
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng


Cơ cấu cho vay không hợp lý
16



Chủ yếu tập trung vào lĩnh vực DNNN và xây dựng cơ bản, điều này tiềm ẩn
nợ xấu phát sinh. Thực tế cho thấy các khoản nợ chuyển quá hạn trong thời gian
qua là: (i) Hầu hết rơi vào các DNNN, (ii) Tập trung tại các Chi Nhánh miền Trung
là phần nhiều, (iii) Tập trung vào lĩnh vực xác định cơ sở hạ tầng và các mặt hàng
xe máy, ô tô, chế biến thủy hải sản, (iv) Chủ doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm
pháp luật…


Khó khăn về phía thị trường:
Trong thời gian qua, thị trường bất động sản Việt Nam nói chung tuy có dấu

hiệu phục hồi song cũng gây không ít khó khăn lớn cho các Ngân hàng và công ty
khi xử lý tài sản đảm bảo. Nguyên nhân chính do Nhà nước ban hành một loạt các
quy chế liên quan đến quản lý đất đai, các chế tài liên quan đến chuyển nhượng
nhà đất…điều này đã khiến cho các Ngân hàng và các công ty khi xử lý tài sản
đảm bảo gặp phải các vướng mắc đáng kể.


Trình độ cán bộ hạn chế và rủi ro đạo đức
Hiện nay tại NHTMCP NTVN đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng đội

ngũ cán bộ như việc mở ra các kỳ thi tuyển để chọn nhân viên có trình độ cao.
Song việc sắp xếp vào các vị trí trong Ngân hàng vẫn chưa được tối ưu, chế độ đãi
ngộ chưa được hợp lý, do đó, hàng năm Ngân hàng luôn mất đi một số lượng lớn
nhân viên mới tuyển vào. Thời gian gần đây vẫn còn hiện tượng cán bộ làm việc
chưa chuyên tâm, chất lượng các báo cáo thẩm định, kiểm tra vốn vay còn nhiều
điểm cần khắc phục. Tính chủ động sáng tạo trong công việc còn hạn chế. Thậm
chí, tuy không nhiều song vẫn còn có các trường hợp vi phạm Quy chế cho vay,

che dấu không báo cáo cho lãnh đạo kịp thời các diễn biến của khoản vay. Vấn đề
rủi ro đạo đức thời gian qua cũng còn nhiều bất cập. Tất cả các vụ án này đều liên
quan đến các cán bộ của Ngân hàng thoái hóa biến chất.

17


Kiểm tra kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin chưa đáp ứng yêu



cầu
Tại NHTMCP NTVN, phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa đủ mạnh về số
lượng và trình độ cán bộ. Thiếu phương tiện và điều kiện nắm bắt thông tin, nên
không thực hiện được nhiệm vụ nắm bắt hoạt động của NHTMCP NTVN, đó là
công tác kiểm tra kiểm soát không có môi trường công nghệ thông tin hỗ trợ. Bộ
phận kiểm tra kiểm toán nội bộ làm việc đôi lúc còn bị động do còn phải tham gia
vào nhiều những công việc khác ngoài chương trình công tác đã được phê duyệt.
Do vậy mà đôi khi đã không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đi đôi với nó là
hệ thống thông tin quản lý nghèo nàn, thiếu chính xác và có thể bị bóp méo dẫn
đến nguy cơ nợ xấu. Phòng Thông tin tín dụng đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chỉ
đưa ra những thông tin chung chung, chưa thực sự sát với thực tế.
Chưa gắn trách nhiệm của cán bộ liên quan với chất lượng tín



dụng
Việc triển khai xử lý nợ xấu chưa gắn với việc quy trách nhiệm đến cán bộ
tín dụng và người có trách nhiệm liên quan. Thực tế xem xét từng trường hợp đề
nghị xử lý rủi ro cụ thể thấy rằng nguyên nhân của một số khoản nợ xấu là do chưa

theo dõi, kiểm soát trước và sau khi cho vay.
Sự phối hợp xử lý nợ xấu giữa các bộ phận



Quá trình xử lý nợ xấu của NHTMCP NTVN cho thấy cơ chế điều hành và
sự phối hợp giữa các phòng ban tại Hội Sở Chính với các Chi Nhánh và đặc biệt là
với AMC còn yếu. Dẫn đến việc các phòng ban chức năng Hội Sở Chính không
quản lý và nắm bắt được tình hình thực hiện xử lý nợ của AMC và các Chi Nhánh
2.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Ngoài ra, cũng cần xét đến nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng, cụ thể
như sau:
18


Một là: Kỹ thuật, trình độ sản xuất của Doanh nghiệp chưa cao, tính toán
chọn phương án kinh doanh thiếu thông tin, thiếu chính xác dẫn đến hiệu quả đầu
tư thấp, lợi nhuận thấp có khi còn thua lỗ gây khó khăn cho việc trả nợ Ngân hàng.
Hai là: Khả năng tài chính của Doanh nghiệp còn non yếu nên chỉ một rủi ro
nhỏ cũng làm mất khả năng thanh toán không trả nợ được Ngân hàng.
Ba là: Tư cách đạo đức của người đi vay. Đến hạn trả nợ lãi họ không chịu
trả trong nhiều tháng liền khiến cho các khoản vay đều bị chuyển thành nợ xấu.
Bốn là: Sử dụng vốn sai mục đích như dùng vốn của Ngân hàng để kinh
doanh những ngành nghề không hợp pháp.
2.3.3. Nguyên nhân khách quan


Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Từ tình trạng phát triển bong bóng trong thị trường nhà đất Mỹ, cuộc khủng


hoảng tín dụng địa ốc đã nổ ra, rồi sau đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính. Sự
kiện Ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ sụp đổ hồi trung tuần tháng 9.2008 như
cú vỡ của một khối ung, kéo theo đó là hàng loạt vụ phá sản. Ngành tài chính Mỹ
suy sụp, dẫn tới sự chao đảo của tài chính toàn cầu. Tình hình nghiêm trọng đến
mức đảo quốc Iceland cũng trượt tới bờ vực phá sản.
Từ lĩnh vực tài chính, cuộc khủng hoảng đã lan rộng tới toàn bộ nền kinh tế.
Sức mua giảm, đơn đặt hàng giảm, sản xuất công nghiệp đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp
tăng... Ngành công nghiệp ô tô của Mỹ là một ví dụ. Tưởng chừng bất khả chiến
bại, nhưng rốt cuộc các đại gia ô tô Detroit đã lún vào thảm họa và phải nhờ tới
tiền cứu trợ của chính phủ để cầm cự. Các tên tuổi lớn trong ngành ô tô thế giới
như Toyota, Hyundai... cũng cắt giảm sản xuất, thậm chí Toyota còn tạm ngưng
hoạt động tất cả 12 nhà máy ở Nhật Bản trong một thời gian. Và rồi, điều khủng
khiếp nhất nhưng đã được dự báo trước đã xảy ra. Hàng loạt nền kinh tế mạnh như
19


Nhật Bản, Đức, Mỹ... đều tăng trưởng âm, trong đó kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc giảm liên tục ở mức kỷ lục: 2,2% trong tháng 11 và 2,8% trong tháng
12.2008 so với cùng kỳ năm trước. Tình hình bết bát tới mức người ta đã gọi
những gì đang xảy ra là "Đại suy thoái phiên bản 2.0" nhằm liên hệ tới cuộc Đại
suy thoái thời thập niên 30 của thế kỷ trước, khi nền kinh tế Mỹ suy thoái trung
bình 14% năm và tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25%. Vào thời điểm cuối năm 2008, hầu
hết các dự báo đều cho rằng các nền kinh tế lớn như Mỹ, Đức, Nhật Bản sẽ tiếp tục
suy thoái, nhưng có thể hồi phục vào cuối năm 2009. Trong bi quan, người ta vẫn
giữ được chút lạc quan vì vào thời điểm đó vẫn còn một số cơ sở để niềm hy vọng
bám víu, như sự kiện ông Barack Obama - một nhân vật có sức truyền cảm hứng
mãnh liệt - tiếp quản Nhà Trắng cũng như hàng loạt kế hoạch kích cầu - cứu trợ
của Mỹ và nhiều nước khác. Tuy nhiên, khi bước vào năm mới được 1 tháng, sự
lạc quan ít ỏi đó đã tan biến.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng với ngành tài chính Ngân hàng thế

giới nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy Việt Nam cũng chịu những
ảnh hưởng nhất định trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu gặp khủng hoảng. Cuộc
khủng hoảng toàn cầu khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ mà cội nguồn
sâu sa là việc cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng đã làm
phá sản hàng loạt những Ngân hàng hàng đầu thế giới, hàng đầu nước Mỹ, Nhật
Bản và Liên minh châu Âu. Cuộc khủng hoảng cũng đã có những tác động tiêu cực
đến ngành Ngân hàng Việt Nam. Đã có lúc tính thanh khoản của hệ thống Ngân
hàng Việt Nam bị đe dọa, các khoản nợ xấu ngày càng tăng, làm tổn thất nghiêm
trọng tới lợi ích của Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng đã có nhiều lần thay đổi về
lãi suất, thậm chí một tháng tới 4 lần thay đổi, về dự trữ nội tệ hay ngoại tệ. Nguồn
vốn huy động cũng có thời điểm bị thu hẹp, làm giảm khả năng kinh doanh, giảm
tính thanh khoản của Ngân hàng. Trong cuộc khủng hoảng cũng đã có những dự
20


báo về tình hình sáp nhập, mua lại những Ngân hàng bé, vốn chủ sở hữu thấp, tình
hình kinh doanh ảm đạm.


Môi trường pháp lý chưa đầy đủ
Hầu hết Chính phủ các nước đều nhận ra tác động tiêu cực của các khoản nợ

xấu đối với nền kinh tế và đã phối hợp thực hiện các biện pháp như ban hành luật,
quy định về xử lý nợ xấu. Hành lang pháp lý phải rõ ràng, thuận lợi và đủ mạnh để
giải quyết nợ xấu, cụ thể phải có các Luật có hiệu lực về thế chấp, tịch thu tài sản
và phá sản Ngân hàng, có chính sách thích hợp có giới hạn ngân sách cứng đối với
những doanh nghiệp có vấn đề.
Ở các nước phát triển trên thế giới, Nhà nước đã ban hành Luật để xử lý thu
hồi nợ xấu vì đây là vấn đề quan trọng của đất nước. Cơ chế pháp lý có hiệu quả là
cần phải có các biện pháp thích hợp và xử lý nợ có hiệu quả để tránh tình trạng thủ

tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng lớp.
 Môi trường tự nhiên

Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là
yếu tố khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài tầm kiểm
soát của con người. Vi vậy khi có thiên tai địch họa xảy ra, khách hàng cùng Ngân
hàng sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh bị đổ bể, doanh nghiệp
không có nguồn thu… điều đó đồng nghĩa với Ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro
với khách hàng của mình.
 Môi trường kinh tế xã hội

Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng của những
biến động từ nền kinh tế thế giới đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt

21


động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế
trong đó Ngân hàng là ngành chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất.
Sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của Chính phủ
cũng chính là nguyên nhân gây rủi ro lớn cho kinh doanh tín dụng của Ngân hàng.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào thói quen,
truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và
hạn chế việc mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Những tác động của môi trường bên ngoài tới bên vay làm cho họ bị tổn thất
tài chính dẫn đến việc không thực hiện được đầy đủ và đúng hạn cam kết trả nợ
gốc và lãi đối với Ngân hàng thậm chí là mất khả năng thanh toán đi đến phá sản
hoặc giải thể.
Nhóm tác động bất khả kháng như biến động thị trường, thay đổi về lãi suất,

tỷ giá, ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực và những
nguyên nhân do thay đổi cơ chế chính sách của kinh tế vĩ mô gây ra cho khách
hàng những gánh nặng nợ nần không đáng có.

Chương III:
Giải pháp xử lý nợ xấu
Giải quyết vấn đề nợ xấu vẫn là bài toán nan giải của ngành Ngân hàng và
của Chính phủ Việt Nam. Để đạt mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu xuống 3% vào năm
2015 và quản lý tốt nợ xấu trong dài hạn, xử lý nợ xấu không thể chỉ được giải
quyết thông qua một vài công cụ là VAMC hay sáp nhập các ngân hàng… NHNN
cần có những điều chỉnh linh hoạt để giúp giảm thiểu tổn thương ở khu vực này.
Bên cạnh đó nợ xấu ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các ngân
hàng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng cố tình che dấu nợ xấu thì càng khó giải quyết. Nó
22


chẳng những không phản ánh đúng thực trạng của hệ thống ngân hàng mà còn ảnh
hưởng đến nguồn cung vốn cho cả nền kinh tế. Do đó, nếu nhìn nhận đúng về nợ
xấu, các ngân hàng sẽ biết được điểm đứng, điểm xuất phát thực tế để tìm ra thuận
lợi, khó khăn từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Trên cơ sở đó thực hiện giải pháp cơ
cấu nợ một cách hiệu quả nhất

3.1.Về phía các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng cần phải nghiêm túc xem xét lại việc cơ cấu lại nợ cho các
khách hàng của mình trên cơ sở tình hình tài chính cụ thể của họ và xác định lại
khả năng trả nợ để cơ cấu lại nợ. Qua đó vừa phản ánh đúng thực trạng nợ xấu của
mình, đồng thời tạo điều kiện để những khách hàng trả được nợ và vay vốn mới,
tránh phát sinh nợ xấu.
Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần:
- Xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện pháp

để thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi nợ.
- Chủ động phối hợp khách hàng thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ
đối với những khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có triển vọng kinh
doanh khi giải quyết được nợ xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để thực hiện các
khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí đầu vào, bán được hàng, có điều kiện trả
nợ ngân hàng.
-Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công ty
mua bán nợ trực thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài
chính.
-Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về ngân
hàng (do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các ngân hàng
không thể tự tạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ - DN/cá nhân vay vốn đến hạn
không trả được nợ, mà việc không trả được nợ cho các ngân hàng có nguyên nhân
23


cơ bản do yếu kém chủ quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ qua nguyên
nhân từ cơ chế chính sách, từ quản lý vĩ mô. Vì vậy, xử lý nợ xấu lúc này không
chỉ là trách nhiệm đơn lẻ của các ngân hàng, DN mà cần có sự tham gia của Nhà
nước với mục tiêu phải đạt được trong việc xử lý nợ xấu là tạo điều kiện để các
ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng mới, giúp DN còn khả năng hoạt động vay
vốn, đồng thời thanh lọc những DN, ngân hàng yếu kém trong sản xuất kinh
doanh; Thông qua xử lý nợ xấu, các ngân hàng mới có điều kiện tiếp tục hạ lãi suất
tiền vay.
-Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng
cũng có điểm thuận lợi là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ từng
khoản vay đối với khách hàng. Khi chuyển nợ xấu cho công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể chủ động, nhanh chóng tìm khách hàng
để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản của ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả, cần xây dựng cơ chế mua bán nợ

rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt chẽ của NHNN, để tránh tình
trạng nợ xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có thể giảm nhưng chất lượng nợ
không thay đổi, do không giải quyết tận gốc vấn đề.
-Nếu bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính thực hiện, rất cần một cơ
chế mua bán rõ ràng thì hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng mới
có hiệu quả.
-Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp
lực xã hội rất lớn về vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty mua bán
nợ trực thuộc NHNN hay công ty mua bán nợ quốc gia (AMC) phải đủ quyền lực,
được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này, với những bước đi hợp lý, với
sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam.

24


-Cùng với với việc xử lý nợ xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng mức đến
việc hạn chế nợ xấu mới nảy sinh bằng cách:
+Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế. Để
làm được việc này các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ theo chuẩn Basel II. Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ trên các số
liệu thống kê lịch sử của chính ngân hàng cho các đối tượng khách hàng để tính
toán các thước đo rủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD); tổn thất có thể xảy ra
do vỡ nợ (LGD) và rủi ro vỡ nợ (EAD) cho các đối tượng này; đồng thời áp dụng
các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của chuyên gia. Có như vậy, việc xếp
hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là
căn cứ để định giá theo rủi ro của ngân hàng. (ii) Mặt khác chất lượng của xếp
hạng khách hàng phụ thuộc lớn vào mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính
ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tuân thủ các
nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhiệm giữa các bộ phận
liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm

thiểu nợ xấu nảy sinh trong hoạt động tín dụng.
+Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động để
giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng được
hoàn thiện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin
để đảm bảo hệ thống vận hành có hiệu quả. Định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc
tuân thủ các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào
nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá khách hàng theo ý kiến
chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết quả xếp hạng, dẫn đến các
quyết định cho vay không chuẩn.

3.2. Về phía doanh nghiệp vay vốn

25


×