Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.4 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-----o0o-----

Đề tài môn Kinh Tế Đối Ngoại:

GVHD: TS. Trần Văn Đức
NHÓM 2

LỤC
TP. Hồ Chí Minh, ngàyMỤC
8 tháng
11 năm 2011
GIỚI THIỆU CHUNG............................................................................................................3
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DSU............................................................................3
1. Cơ quan giải quyết tranh chấp................................................................................3
2. Các nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết tranh chấp..........................................5
3. Phương pháp, quy trình, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp và bảo đảm thi hành phán
quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp................................................................5
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA DSU.....................................................................10
1. Ưu điểm...................................................................................................................10
2. Hạn chế...................................................................................................................12
IV. MỘT SỐ VÍ DỤ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO 13
1. Hoa Kỳ – Các biện pháp tự vệ chính thức đối với mặt hàng thép thành phẩm nhập khẩu 13


2. Vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại WTO - Các biện pháp

chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh
...........................................................................................................................


15
2.1 Bối
cảnh
vụ
việc
......................................................................................................................
16
2.2 Tóm
tắt
diễn
biến
vụ
việc
......................................................................................................................
17
2.3 Bài
học
kinh
nghiệm
từ
vụ
kiện
......................................................................................................................
20
Tài
liệu
tham
khảo
.....................................................................................................................................
23


Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

2


I.

GIỚI THIỆU CHUNG
Trên cơ sở các qui định rời rạc về giải quyết tranh chấp trong GATT, rút kinh
nghiệm từ những bất cập trong cơ chế cũ, một số cải tiến căn bản về thủ tục đã được đưa
vào cơ chế mới, WTO đã thành công trong việc thiết lập một cơ chế pháp lý đầy đủ, chi
tiết trong một văn bản thống nhất để giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành
viên WTO (bao gồm các quốc gia có chủ quyền và những lãnh thổ thuế quan riêng biệt):
Thỏa thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) – Phụ
lục 2 Hiệp định Marrakesh thành lập WTO.
Mục tiêu căn bản của DSU là nhằm “đạt được một giải pháp tích cực cho tranh
chấp”, và ưu tiên những “giải pháp được các bên tranh chấp cùng chấp thuận và phù hợp
với các Hiệp định liên quan”. Xét ở mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ
tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế cho các hành động đơn phương của các
quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận
hành chung của các qui tắc thương mại quốc tế.
Cơ chế này còn được có một số qui định riêng biệt trong các văn bản khác (được
DSU viện dẫn đến) như:
- Điều XXII và XXIII GATT 1947 (Điều 3.1 DSU)
- Các qui tắc và thủ tục chuyên biệt hoặc bổ sung về giải quyết tranh chấp tại các
Hiệp định trong khuôn khổ WTO (Ví dụ: Điều 11.2 Hiệp định về các Biện pháp Kiểm
dịch Thực vật; Điều 17.4 đến 17.7 GATT 1994…)
- “Quyết định về các Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT 1966: bao gồm
các qui tắc áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp giữa một nước kém phát triển và

một nước phát triển (Điều 3.12 DSU) và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho tranh chấp có
một bên là nước kém phát triển nhất (Điều 2.4 DSU).

II.

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DSU
1. Cơ quan giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO được thực hiện bởi các cơ quan khác
nhau, mỗi cơ quan có chức năng riêng biệt, tạo nên tính độc lập trong hoạt động điều tra
và thông qua quyết định trong cơ chế này
Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB):
Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc
gia thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban
hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị
giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa).
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

3


Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc
xem xét giải quyết tranh chấp.
Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết.
Ban hội thẩm (Panel): ( Điều 6, 8)
Ban Hội thẩm bao gồm từ 3 - 5 thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể
bị tranh chấp trên cơ sở các qui định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn. Ban hội
thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong các Hiệp định
của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện để giúp DSB đưa ra
khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp. Kết quả công việc của Ban hội
thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các

Bên tranh chấp. Trên thực tế, đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp mặc dù không
nắm quyền quyết định (bởi với nguyên tắc đồng thuận phủ quyết mọi vấn đề về giải
quyết tranh chấp khi đã đưa ra trước DSB đều được “tự động” thông qua).
Các thành viên Ban hội thẩm được lựa chọn trong số các quan chức chính phủ hoặc
các chuyên gia phi chính phủ không có quốc tịch của một Bên tranh chấp hoặc của một
nước cùng là thành viên trong một Liên minh thuế quan hoặc Thị trường chung với một
trong các nước tranh chấp (ví dụ: Liên minh Châu Âu). Ban hoạt động độc lập, không
chịu sự giám sát của bất kỳ quốc gia nào.
Khi một tranh chấp xảy ra giữa một thành viên phát triển và một thành viên đang
phát triển, nếu có yêu cầu của thành viên đang phát triển, thì Ban hội thẩm phải có ít nhất
một hội thẩm từ một thành viên đang phát triển. (mục 10, điều 8).
Cơ quan Phúc thẩm (SAB): ( Điều 17)
Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO, cho phép báo cáo của Ban hội thẩm được xem xét lại (khi có yêu cầu), đảm bảo
tính đúng đắn của báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng cho thấy
rõ hơn tính chất xét xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới.
Cơ quan Phúc thẩm gồm 7 thành viên do DSB bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm (có
thể được bầu lại 1 lần). Các thành viên Cơ quan Phúc thẩm được lựa chọn trong số những
nhân vật có uy tín và có chuyên môn được công nhận trong lĩnh vực luật pháp, thương
mại quốc tế và trong những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định liên quan.
Tuy nhiên, việc xét xử phúc thẩm trong từng vụ việc chỉ do 3 thành viên SAB thực hiện
một cách độc lập.
Khi giải quyết vấn đề tranh chấp, SAB chỉ xem xét lại các khía cạnh pháp lý và giải
thích pháp luật trong Báo cáo của Ban hội thẩm chứ không điều tra lại các yếu tố thực
tiễn của tranh chấp. Kết quả làm việc của SAB là một báo cáo trong đó Cơ quan này có
thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc đảo ngược lại các kết luận trong báo cáo của Ban hội thẩm.
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

4



-

Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được thông qua tại DSB và không thể bị phản đối hay
khiếu nại tiếp.
2. Các nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết tranh chấp
Bình đẳng giữa các thành viên tranh chấp
Nguyên tắc bí mật
Nguyên tắc đồng thuận phủ quyết
Nguyên tắc đối xử ưu đãi với các thành viên đang và chậm phát triển.
3. Phương pháp, quy trình, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp và bảo đảm
thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp
Trình tự giải quyết tranh chấp:
Tham vấn (Consultation)( Điều 4)
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU).
Việc tham vấn được tiến hành bí mật (không công khai) và không gây thiệt hại cho các
quyền tiếp theo của các Bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và
phải tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp
khẩn cấp – ví dụ hàng hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10
ngày và 20 ngày). Bên được tham vấn có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm
thông và tạo cơ hội thỏa đáng" cho Bên yêu cầu tham vấn.
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các Bên với nhau. DSB được
thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành viên về yêu
cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn. Các
quốc gia khác có thể xin tham gia vào việc tham vấn này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận
rằng các quốc gia này có “quyền lợi thương mại thực chất” trong việc tham vấn này.
Môi giới, Trung gian, Hoà giải (Điều 5)
Bên cạnh thủ tục tham vấn, DSU còn qui định các hình thức giải quyết tranh chấp
mang tính “chính trị” khác như môi giới, trung gian, hoà giải. Các hình thức này được
tiến hành trên cơ sở tự nguyện, bí mật giữa các Bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi phát

sinh tranh chấp (ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành hoạt động).
Tương tự như vậy, các thủ tục này cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. DSU không
xác định bên nào (nguyên đơn hay bị đơn) có quyền yêu cầu chấm dứt nên có thể hiểu là
tất cả các bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu chấm dứt các thủ tục này.
Chức năng môi giới, trung gian, hoà giải do Tổng Thư ký WTO đảm nhiệm (Điều 5
DSU). Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có qui định về việc liệu một cá nhân hoặc một tổ chức
có thể đứng ra đảm trách vai trò môi giới, trung gian, hoà giải này không.
Thành lập Ban hội thẩm (Điều 9)
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được
tham vấn từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

5


khi có yêu cầu tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập
Ban hội thẩm có thể đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất
rằng các thủ tục tham vấn, hoà giải không dẫn đến kết quả gì. Văn bản yêu cầu thành lập
Ban hội thẩm phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị
khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ pháp lý cho khiếu kiện.
Yêu cầu này được gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội
thẩm. Thành viên Ban hội thẩm, nếu không được các bên thống nhất chỉ định trong vòng
20 ngày kể từ khi có quyết định thành lập sẽ do Tổng Giám đốc WTO chỉ định trong số
các quan chức chính phủ hoặc các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực luật, chính sách
thương mại quốc tế.
Trong trường hợp có nhiều nước cùng yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để xem xét
cùng một vấn đề thì DSB có thể xem xét thành lập một Ban hội thẩm duy nhất. Nếu vẫn
phải thành lập các Ban hội thẩm riêng rẽ trong trường hợp này thì các Ban hội thẩm này
có thể có chung các thành viên và thời gian biểu sẽ được xác định một cách hài hoà để
các thành viên này hoạt động một cách hiệu quả nhất.

Hoạt động của Ban hội thẩm
Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong
các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của
mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp.
Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ GATT 1947,
trường hợp khiếu kiện có vi phạm thì Bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi
phạm của Bên đó không gây thiệt hại cho Bên nguyên đơn; trường hợp khiếu kiện không
có vi phạm thì Bên nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi không vi phạm của Bên
bị đơn gây ra thiệt hại về lợi ích mà Bên đó đáng lẽ phải được hưởng theo qui định của
Hiệp định hoặc chứng minh sự cản trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của
Hiệp định.
Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời (mô tả vụ việc, các lập luận, kết luận của
Ban hội thẩm). Các Bên cho ý kiến về Báo cáo này. Nếu có yêu cầu, Ban hội thẩm có thể
tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề liên quan. Sau đó
Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên WTO và
chuyển cho DSB thông qua.
Điều 12 DSU qui định:
- Ban hội thẩm phải bắt đầu công việc giải quyết tranh chấp chậm nhất là 1 tuần sau
khi được thành lập
- Báo cáo chính thức phải được hoàn thành chậm nhất là 6 tháng kể từ khi thành lập
Ban hội thẩm (nếu là trường hợp hàng hóa liên quan dễ bị hư hỏng thì thời hạn này là 3
tháng). Thời hạn này cũng có thể được DSB kéo dài thêm trên cơ sở yêu cầu của Ban hội
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

6


thẩm với lý do giải thích rõ ràng nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được gia
hạn thêm quá 3 tháng.
- Các thời hạn trên có thể được điều chỉnh trong trường hợp tranh chấp có liên quan

đến một nước đang phát triển
Thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm
Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho tất cả các thành viên WTO và được
DSB thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được chuyển cho các thành
viên trừ khi một Bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng thuận phủ quyết
Báo cáo.
Báo cáo của Ban hội thẩm được lập thành văn bản trong đó phải có các nội dung
sau: trình bày các tình tiết thực tế của vụ việc, tường trình về việc áp dụng các qui định
của WTO trong các vấn đề liên quan, kết luận và các khuyến nghị cùng với các căn cứ
dẫn tới kết luận, khuyến nghị đó.
Trình tự Phúc thẩm (Điều 17)
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội
thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản.
Trong quá trình làm việc của SAB, các Bên tranh chấp và các Bên thứ ba có quyền
đệ trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ quan này. Hoạt
động của SAB được giữ bí mật. Việc xem xét và đưa ra Báo cáo phải được thực hiện với
sự tham gia của các Bên tranh chấp.
Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo
(trường hợp có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thông
báo lý do cho DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề
và kết luận pháp lý của Ban hội thẩm. Các Bên không có quyền phản đối Báo cáo này.
DSB thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo
cáo của SAB được chuyển đến tất cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.
Khuyến nghị các giải pháp
Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm qui
định của WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp
vi phạm phải tuân thủ qui định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp
liên quan) và có thể đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến
nghị đó.
Trường hợp khiếu kiện không vi phạm, Bên thua kiện không phải rút lại biện pháp

liên quan nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị Bên thua thực hiện các dàn xếp nhất định để
thoả mãn các Bên liên quan.
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

7


Thi hành
Bên thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB
triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo. Nếu không thực hiện được
ngay, Bên đó có thể được gia hạn thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (thời hạn
này do DSB quyết định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc do các Bên tranh chấp thỏa
thuận trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc theo phán quyết
trọng tài tiến hành trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị).
Bồi thường và trả đũa
Bồi thường và trả đũa là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm
bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực hiện được
khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB). Các biện pháp này không làm
chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến nghị của Bên vi phạm.
Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ
quan Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường.
Việc bồi thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định
có liên quan.
Nếu các Bên không đạt được thỏa thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày kể
từ khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan Giải quyết
Tranh chấp cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa song song hoặc trả đũa chéo. Cần lưu
ý là Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) nghiêm cấm việc trả đũa đơn
phương mà không có sự chấp thuận của cơ quan này. Mức độ và thời hạn trả đũa do Cơ
quan Giải quyết tranh chấp (DSB) quyết định căn cứ trên thủ tục qui định về vấn đề này
trong Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO (DSU).

Trọng tài
Thủ tục trọng tài có thể được các Bên tranh chấp thoả thuận sử dụng trong các
trường hợp sau đây:
Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: trọng tài có thể được sử dụng
trong các thủ tục sau:
- Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua không thể
thực hiện ngay khuyến nghị;
- Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua có kiến nghị về vấn đề này
Trong trường hợp này thủ tục trọng tài sẽ do các thành viên Ban hội thẩm ban đầu
làm trọng tài viên. Nếu các thành viên Ban hội thẩm không có điều kiện làm trọng tài
viên thì trọng tài viên (là một cá nhân hoặc một tổ chức) sẽ do Tổng Thư ký WTO chỉ
định.

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

8


Trường hợp tranh cãi về mức độ trả đũa, trọng tài không đánh giá về bản chất biện
pháp trả đũa mà chỉ xem xét xem mức độ Bên thắng kiện đình chỉ các nhân nhượng/nghĩa
vụ có tương đương với mức độ thiệt hại mà Bên thắng kiện đã phải chịu không.
Ngoài khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU:
Các Bên tranh chấp có thể thoả thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để giải quyết
tranh chấp của mình mà không cần sử dụng đến cơ chế của DSU (cơ chế sử dụng Ban hội
thẩm, Cơ quan Phúc thẩm…). DSU chỉ cho phép sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh
chấp trong đó vấn đề tranh chấp đã được các bên xác định một cách rõ ràng và thống
nhất.
Trong trường hợp này, quyết định lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài độc
lập phải được các Bên tranh chấp thông báo đến tất cả các thành viên WTO trước khi thủ
tục tố tụng được bắt đầu. Các thành viên WTO chỉ có thể tham gia thủ tục tố tụng nếu

được các Bên tranh chấp đồng ý.
Quyết định giải quyết của trọng tài phải được các Bên tuân thủ nghiêm túc. Các Bên
có nghĩa vụ thông báo về quyết định này cho các thành viên WTO, cho Hội đồng hoặc
cho Uỷ ban của Hiệp định có liên quan. Quy tắc giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU)
qui định quyết định này của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và
không được gây thiệt hại cho bất kỳ thành viên nào khác của WTO. Bất kỳ thành viên
nào cũng có quyền đưa ra câu hỏi liên quan đến quyết định này.

Quy trình giải quyết tranh chấp trong WTO:

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

9


III.
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA DSU
1. Ưu điểm
 Cải thiện được các nhược điểm của cơ chế giải quyết cũ
- Bản ghi nhớ ra đời sau vòng đàm phán Uruguay đã đề ra một tiến trình giải quyết tranh

chấp cụ thể hơn theo đó các giai đoạn giải quyết tranh chấp được xác định rõ ràng hơn sẽ
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

10


có lợi nhiều cho các nước đang phát triển vì nó thông thoáng hơn, ít tốn thời gian. Trình
tự giải quyết tranh chấp về nguyên tắc không được kéo dài quá một năm hoặc 15 tháng,
nếu có xét xử phúc thẩm.

- Quyết định cuối cùng của ban chung thẩm hoặc hội thẩm chỉ có thể bị bác bỏ bằng sự
đồng thuận của tất cả các thành viên, sự phủ quyết đơn lẻ của một thành viên là không có
hiệu lực. Từ nay, các báo cáo của Ban hội thẩm hay của Cơ quan phúc thẩm sẽ tự động
được thông qua nếu tất cả các thành viên không phản đối. Nguyên tắc đồng thuận phủ
quyết khiến cho trên thực tế, tất cả các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp được
thông qua.
- Bản ghi nhớ còn thiết lập nên một cơ chế giải quyết tranh chấp với 2 cấp, sơ thẩm (với
các Ban hội thẩm) và phúc thẩm (với Cơ quan phúc thẩm). Mô hình giải quyết tranh chấp
này, thường được đánh giá là gần với mô hình xét xử tư pháp, giúp cho việc xét xử chính
xác và công minh hơn. Ngoài ra, bản ghi nhớ còn quy định một loạt các hình thức giải
quyết tranh chấp bổ trợ như trung gian, hoà giải, môi giới, trọng tài. Cuối cùng, Bản ghi
nhớ đề ra các biện pháp đảm bảo việc tôn trọng và thực thi các quyết định giải quyết
tranh chấp. ·
- Cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương không cho phép các nước phát triển áp đặt luật
của mình trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, ví dụ việc áp dụng đơn phương
Ðạo luật 301 của Mỹ trong giải quyết tranh chấp thương mại với các nước.
 Cải thiện đáng kể đối với các nước đang phát triển
Từ nay, Các nướcđang phát triển đã có thể tin tưởng vào một hệ thống giải quyết
tranh chấp mang tính tập thể. Thực vậy, từ năm 1995, người ta đã ghi nhận rất nhiều vụ
việc trong đó các nước đang phát triển là những bên thắng kiện.
Ngoài ra, việc WTO cho phép sự tham gia của bên thứ ba vào diễn biến vụ kiện
cũng được các nước đang phát triển hoan nghênh. Bên thứ ba được phép tiếp cận nội
dung vụ tranh chấp, đồng thời có thể đưa ra các quan điểm và lập luận của mình liên
quan tới tranh chấp đó. Đối với các nước đang phát triển, đây chính là những cơ hội tốt
để họ làm quen với thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO và bày tỏ những quan điểm
của mình về những vấn đề pháp lý gắn với lợi ích của họ.
Hơn nữa, các nước đang phát triển cũng được hưởng những ưu đãi nhất định trong
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Chẳng hạn, trong một tranh chấp giữa một nước
đang phát triển và một nước phát triển, nếu nước đang phát triển yêu cầu, Ban hội thẩm
sẽ phải có ít nhất một chuyên gia đến từ một nước đang phát triển. Đồng thời, Ban hội

thẩm, trong quá trình xét xử, sẽ phải lưu tâm tới sự đối xử ưu đãi mà các nước đang phát
triển được hưởng trong các hiệp định của WTO. Trong quá trình giám sát thực thi các
quyết định của mình, Cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải xem xét tới những ảnh
hưởng xấu có thể xảy ra đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Điều quan
trọng hơn cả là điều 27 Bản ghi nhớ quy định rằng Ban thư ký có thể giúp tư vấn về mặt
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

11


-

-

-

-

-

pháp lý và cung cấp các chuyên gia pháp lý có năng lực từ các cơ quan hợp tác kỹ thuật
của WTO cho các nước đang phát triển theo yêu cầu của họ.
Nhờ tính hiệu quả và đáng tin cậy của cơ chế giải quyết tranh chấp mới, số lượng
các vụ việc được đưa ra giải quyết tăng lên đáng kể, tính đến năm 2004, có tới gần 300
vụ việc đã được đưa ra giải quyết. Điều đó cho thấy các nước ngày càng tin tưởng vào
năng lực giải quyết tranh chấp của WTO, do đó, họ tìm đến cơ chế giải quyết tranh chấp
đa phương thay vì tự mình giải quyết các tranh chấp.
2. Hạn chế
Việc bồi thường chỉ được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, không bắt buộc. Một nước phát
triển vi phạm quy định của WTO có thể cố tình không chịu đưa ra biện pháp khắc phục

để chấm dứt vi phạm, và cũng không chịu bồi thường. Mặc dù nước đang phát triển có
thể đưa ra biện pháp trả đũa, nhưng do thực lực kinh tế yếu kém nên việc trả đũa cũng
không có tác dụng bù đắp được thiệt hại.
Trong những trường hợp các nước đang phát triển thường gặp trong thương mại với các
nước phát triển về vấn đề chống bán phá giá, Ban giải quyết không ra quyết định liệu
những biện pháp chống phá giá có phù hợp với các quy định của WTO hay không mà chỉ
xem xét liệu quá trình thu thập và đánh giá số liệu có hợp lý hay không.
Trong những năm gần đây, do cơ chế giải quyết tranh chấp ngày càng trở nên thiên về kỹ
thuật đòi hỏi các nước đang phát triển phải có chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt khi bên bị kiện
là các nước phát triển. Đối với một số nước đang phát triển, quá trình thuần tuý kỹ thuật
này rất khó đáp ứng do hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức cũng như tài chính vì trong
nhiều trường hợp, các nước đang phát triển phải thuê luật sư và chuyên gia của chính các
nước phát triển.
Các biện pháp trả đũa không phải là một biện pháp tối ưu, bởi chúng làm cho thương mại
bị hạn chế hơn, trong khi đó, mục tiêu của việc giải quyết tranh chấp là ngăn cản những
biện pháp phi pháp gây cản trở cho thương mại quốc tế.
Trên thực tế, các nước lớn (đặc biệt là Mỹ và EU) có một ảnh hưởng quyết định đối với
việc bổ nhiệm các chuyên gia vào Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Ngoài ra, các
nước đang phát triển thường thiếu chuyên gia và thiếu năng lực nói chung về giải quyết
tranh chấp (thu thập chứng cứ, xây dựng các lập luận thuyết phục…). Đó là ngay cả khi
họ thắng kiện, khả năng đảm bảo giành lại công lý là rất ít. Thực vậy, mặc dù biện pháp
trả đũa là một hình thức răn đe buộc nước thua kiện phải chấm dứt hành vi trái phép của
mình, nhưng không phải lúc nào cũng được các nước đang phát triển áp dụng, nhất là để
chống lại một nước phát triển.

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

12



MỘT SỐ VÍ DỤ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP CỦA WTO
1. Hoa Kỳ – Các biện pháp tự vệ chính thức đối với mặt hàng thép thành phẩm
nhập khẩu.
IV.

Thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm
Khiếu kiện của Cộng đồng Châu Âu (EC) (WT/DS248); Nhật Bản (WT/DS249);
Hàn Quốc (WT/DS251); Trung Quốc (WT/DS252); Thụy Sỹ (WT/DS253); Nauy
(WT/DS254); New Zealand (WT/DS258); Braxin (WT/DS259).
Ngày 07/03/2002, Cộng đồng Châu Âu (EC) yêu cầu tham vấn với Hoa Kỳ về việc
áp đặt biện pháp tự vệ chính thức dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu đối với thép cán
(flat steel), thép cuộn nóng (hot-rolled bar), thép lạnh thành phẩm (cold-finished bar),
thép gia cố (rebar), thép ống hợp kim (certain welded tubular products), thép hợp kim các
bon (carbon and alloy fittings), thép thanh không gỉ (stainless steel bar), thép dây không
gỉ (stainless steel wire) và dưới hình thức hạn ngạch thuế quan đối với thép tấm có hiệu
lực từ ngày 20/03/2002. EC cho rằng các biện pháp kể trên của Hoa Kỳ vi phạm các
nghĩa vụ của quốc gia này theo Hiệp định về biện pháp tự vệ và GATT 1994, cụ thể vi
phạm các điều khoản 2.1, 2.2 ,3.1, 3.2, 4.1, 4.2, 5.1, 5.2, 7.1 và 9.1 của Hiệp định về biện
pháp tự vệ và các điều khoản I:1, XIII và XIX:1 của GATT 1994. EC cũng giữ quyền liên
quan tới việc theo đuổi vụ kiện theo Hiệp định về biện pháp tự vệ và Quy tắc Giải quyết
Tranh chấp trong WTO (DSU). Lần lượt sau đó Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sỹ, Canada,
Venezuela, Nauy, Trung Quốc, Mexico và New Zealand cũng yêu cầu tham vấn. Hoa Kỳ
thông báo với DSB rằng nước này chấp thuận tham vấn của các quốc gia này.
Đối với từng yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của mỗi tám nguyên đơn tại các
cuộc họp của DSB:
* Ngày 03/06/2002 – EC tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm Điều
khoản 2.1, 3.1, 4.2(a), 4.2(b), 4.2(c) và 5.1 của Hiệp định về biện pháp tự vệ và điều
khoản XIX:1 của GATT 1994;
* Ngày 14/06/2002 – Nhật Bản tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm

Điều khoản 2, 3, 4 và 5 của Hiệp định về biện pháp tự vệ và điều khoản I:1, X:3 và
XIX:1 của GATT 1994. Hàn Quốc tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm Điều
khoản 2, 3, 4, 5, 7.1, 8.1, 9.1 và 12của Hiệp định về biện pháp tự vệ và điều khoản X:3,
XIII và XIX của GATT 1994.
* Ngày 24/06/2002 – Trung Quốc tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm
Điều khoản 2.1, 3.1, 4.1, 4.2, 5.1, 5.2, 8.1, 9.1 và 12 của Hiệp định về biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế và Điều khoản I:1, II và XIX của GATT 1994. Thụy Sỹ tuyên
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

13


bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm Điều khoản 2.1, 2.2, 3.1, 4, 5.1 và 8.1 của Hiệp
định về biện pháp tự vệ và Điều khoản XIX:1 của GATT 1994. Nauy tuyên bố biện pháp
tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm Điều khoản 2, 3, 4, 5.1, 7.1 và 9.1 của Hiệp định về biện pháp
tự vệ và Điều khoản I:1, X:3(a) và XIX của GATT 1994.
* Ngày 08/07/2002 – New Zealand tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm
Điều khoản 2.1, 2.2, 3.1, 4.2, 5.1, 7 và 8.1 của Hiệp định về biện pháp tự vệ và Điều
khoản X:3(a) và XIX:1 của GATT 1994.
* Ngày 29/07/2002 – Braxin tuyên bố biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ vi phạm điều
khoản 2.1, 2.2, 3.1, 4 và 5 của Hiệp định về biện pháp tự vệ và Điều khoản I:1, X:3 và
XIX:1 của GATT 1994.
DSB đã thành lập Ban Hội thẩm theo thỏa thuận giữa các bên và theo Điều khoản
9.1 của Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU).
Các thành viên tham gia với tư cách là bên thứ 3 trong Ban Hội thẩm thành lập theo
yêu cầu của các bên cũng được coi là bên thứ 3 của Ban Hội thẩm riêng này. Canada, Đài
Loan, Cuba, Malaixia, Mexico, Thái Lan, Thổ Nhỹ Kỳ và Venezuela tham gia vào quá
trình hoạt động của Ban với tư cách là bên thứ 3.
Ngày 15/07/2002, DSB nhận thông báo thỏa thuận thủ tục giữa Hoa Kỳ và EC,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thụy Sỹ, Nauy và New Zealand. Ngày 18/07/2002,

DSB được thông báo về thỏa thuận thủ tục giữa Hoa Kỳ và Braxin.
Ngày 15/07/2002, EC, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thụy Sỹ, Nauy và New
Zealand yêu cầu chủ tịch DSB xác định cơ cấu của Ban Hội thẩm. Ngày 25/07/2002, cơ
cấu của ban được xác định.
Ngày 23/10/2002, Malayxia quyết định rút khỏi danh sách bên thứ 3 tham gia vụ
kiện.
Ngày 20/02/2003, chủ tịch ban thông báo với DSB rằng ban không thể hoàn tất
công việc trong 6 tháng do khối lượng, tính phức tạp và nhạy cảm của vụ kiện cả về mặt
pháp lý và thực tế. Ban dự kiến sẽ hoàn tất công việc vào cuối tháng 04/2003.
Ngày 11/07/2003, Ban Hội thẩm công bố báo cáo tới các thành viên. Báo cáo kết
luận rằng tất cả các biện pháp tự vệ của Hoa Kỳ đưa ra trong vụ kiện đều không phù hợp
với một trong những điều kiện được áp dụng biện pháp tự vệ sau đây của WTO: không
chứng minh được (i) sự phát triển không lường trước được, (ii) sự gia tăng hàng nhập
khẩu, (iii) quan hệ nhân quả, (iv) quan hệ tương đương. Do vậy Ban Hội thẩm yêu cầu
Hoa Kỳ phải sửa đổi lại các biện pháp này cho phù hợp với nghĩa vụ của nước này theo
Hiệp định về biện pháp tự vệ và GATT 1994.
Ngày 11/08/2003, Hoa Kỳ thông báo ý định kháng cáo về các vấn đề pháp lý và
giải thích pháp luật trong báo cáo của Ban Hội thẩm.
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

14


Ngày 08/10/2003, chủ tịch Cơ quan Phúc thẩm thông báo với DSB rằng Cơ quan
Phúc thẩm không thể đưa ra báo cáo trong vòng 60 ngày như yêu cầu và Cơ quan ước
tính muộn nhất là 10/11/2003 sẽ công bố báo cáo tới các thành viên WTO.
Ngày 10/11/2003, Cơ quan Phúc thẩm ban hành báo cáo tới các thành viên. Cơ quan
Phúc thẩm tán thành kết luận cuối cùng của Ban Hội thẩm rằng biện pháp tự vệ nêu ra
trong vụ kiện của Hoa Kỳ vi phạm các nghĩa vụ của nước này theo Điều khoản XIX:1(a)
của GATT 1994 và Hiệp định về biện pháp tự vệ. Cơ quan Phúc thẩm phản đối kết luận

của ban rằng Hoa Kỳ đã không lý giải đầy đủ và hợp lý “sư gia tăng hàng nhập khẩu” và
mối quan hệ nhân quả giữa sự gia tăng hàng nhập khẩu với thiệt hại nghiêm trọng đối với
2 trong số 10 biện pháp tự vệ. Tuy nhiên cuối cùng các biện pháp này cũng được chứng
minh là vi phạm Hiệp định WTO.
Tại cuộc họp ngày 10/12/2003, DSB thông qua báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và
báo cáo của Ban Hội thẩm do Cơ quan Phúc thẩm sửa đổi.
Tình hình thực thi các báo cáo đã thông qua
Tại cuộc họp ngày 10/12/2003, Hoa Kỳ thông báo với các thành viên rằng ngày
04/12/2003, tổng thống Hoa Kỳ đã ban hành một tuyên cáo rằng sẽ xóa bỏ tất cả các biện
pháp tự vệ nêu trong vụ kiện theo mục 204 của Bộ luật thương mại Hoa Kỳ 1974.
Mặc dù tất cả các khiếu nại của 8 nguyên đơn được coi là một khiếu nại trong quá
trình tham vấn, Hoa Kỳ vẫn yêu cầu Ban Hội thẩm ban hành 8 báo cáo riêng biệt, thể
hiện quyền giải quyết vấn đề với từng nguyên đơn theo WTO. Các nguyên đơn quyết liệt
phản đối yêu cầu này của Hoa Kỳ, cho rằng điều này sẽ làm chậm lại tiến độ đưa ra báo
cáo của Ban Hội thẩm. Ban Hội thẩm quyết định ban hành báo cáo dưới dạng “một tài
liệu bao gồm 8 báo cáo”. Do vậy, tài liệu này được coi là gồm 8 báo cáo liên quan với
nhau trong vụ kiện này. Tài liệu gồm một trang giới thiệu chung, một phần miêu tả chung
và một phần nêu lên các kết luận. Tuy nhiên, tài liệu này bao gồm các kết luận và các
khuyến nghị được cụ thể hóa cho từng đối tượng nguyên đơn với các con số riêng. Theo
quan điểm của Ban Hội thẩm, phương pháp này tôn trọng quyền của tất cả các bên đồng
thời đảm bảo giải quyết vụ kiện nhanh chóng và hiệu quả.
2.

Vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại WTO - Các biện pháp
chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh

13/09/2011
Sau 4 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã có một khởi đầu quan trọng trong việc sử
dụng Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các
doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại quốc tế: Ngày 01/02/2010, Chính phủ Việt

Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Chính phủ Hoa Kỳ liên quan đến các biện pháp chống bán
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

15


phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngày
11/7/2011 vừa qua, Ban Hội thẩm (WTO) đã ban hành và gửi báo cáo giải quyết tranh
chấp tới các bên liên quan. Báo cáo ủng hộ hầu hết những lập luận Việt Nam đưa ra trong
tham vấn.
2.1 Bối cảnh của vụ việc

Vụ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt
Nam do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng tháng 1/2004. Việc điều tra được
tiến hành đối với 3 doanh nghiệp bị đơn có lượng xuất khẩu lớn nhất (bao gồm: Minh
Phú, Minh Hải và Camimex – gọi là bị đơn bắt buộc). Tháng 2/2005, DOC chính thức áp
thuế chống bán phá giá với các thuế suất: (i) từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt
buộc; (ii) mức 4,57% (là mức bình quân gia quyền của thuế suất áp dụng cho 3 bị đơn bắt
buộc) đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra; và (iii) mức thuế suất
toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại. Theo pháp luật về chống bán phá
giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC
được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính để xét lại mức thuế chính thức mà
DOC đã áp đối với khoảng thời gian 1 năm liền trước đó. Theo đó, tính tới thởi điểm
tháng 2/2010 (thời điểm Việt Nam đệ đơn yêu cầu tham vấn CP Hoa Kỳ), DOC đã tiến
hành 3 cuộc rà soát hành chính (POR) (bên nguyên đơn đã không yêu cầu rà soát hành
chính năm đầu tiên sau khi đã thống nhất với phía Việt Nam). Tuy nhiên, vào thời điểm
đó mới chỉ có kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính hai và ba.
Trong đợt rà soát lần thứ hai - POR2 (04/2007), có khoảng 30 doanh nghiệp xuất
khẩu tôm của Việt Nam đã đăng ký tham gia rà soát. Tuy nhiên, DOC chỉ chọn 2 doanh
nghiệp (Công ty Minh Phú và Camimex) là bị đơn bắt buộc dựa trên tiêu chí là doanh

nghiệp có lượng xuất khẩu lớn nhất. Ngày 02/09/2008, DOC đã ban hành Quyết định
cuối cùng về kết quả rà soát POR2. Theo đó, mức thuế suất của các bị đơn bắt buộc
(Minh Phú, Camimex) đạt mức thuế suất không đáng kể (0-0,01%). Tuy nhiên, mức thuế
suất này không được áp dụng cho các bị đơn tự nguyện (gồm các doanh nghiệp xuất khẩu
tôm Việt Nam có tham gia vào đợt rà soát lần 2 nhưng không được DOC lựa chọn làm bị
đơn bắt buộc) mà các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn bị áp thuế theo mức thuế
suất từ điều tra ban đầu là 4,57%, mức thuế suất toàn quốc cũng áp dụng theo điều tra
ban đầu là 25.76%.
Trong đợt rà soát lần thứ ba – POR3 (04/2008), DOC chọn 3 doanh nghiệp (Công ty
Minh Phú, Camimex và Công ty Phương Nam) trong số 28 doanh nghiệp đăng ký tham
gia rà soát để tiến hành điều tra đầy đủ. Ngày 15/09/2009, Quyết định cuối cùng về kết
quả rà soát POR3 được ban hành, trong đó, 3 doanh nghiệp bị đơn bắt buộc đều nhận
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

16


được mức thuế suất tối thiểu (Minh Phú: 0,43%; Camimex: 0,08%; Phương Nam:
0,21%), nhóm các doanh nghiệp bị đơn tự nguyện không được hưởng mức thuế suất theo
thực tế điều tra mà tiếp tục bị áp thuế chống bán phá giá theo điều tra ban đầu là 4,57%,
thuế suất toàn quốc là 25,76%.
Trước nguy cơ DOC tiếp tục dùng các phương pháp tính toán như đã dùng trong
POR2 và POR3 dẫn tới kết quả rất bất lợi trong POR4 (đặc biệt liên quan đến cơ hội
thoát hoàn toàn khỏi vụ kiện của các doanh nghiệp có kết luận 3 lần biên độ phá giá tối
thiểu), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chủ động đưa ra phân tích và kiến nghị đề xuất kiện
Hoa Kỳ ra WTO lên Chính phủ. Tháng 2/2010, Chính phủ đã chấp thuận đề xuất này và
bắt đầu vụ kiện bằng tham vấn gửi Chính phủ Hoa Kỳ.
2.2 Tóm tắt diễn tiến vụ việc


Giai đoạn Tham vấn
Ngày 01/02/2010, Chính phủ Việt Nam đã gửi yêu cầu tham vấn tới Chính phủ Hoa
Kỳ liên quan tới các biện pháp chống bán phá giá (CBPG) mà Hoa Kỳ đã áp dụng đối với
sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam.
Cụ thể, Việt Nam khiếu nại các biện pháp sau đây của DOC là vi phạm WTO:


Sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính toán biên độ phá giá;



Giới hạn số lượng bị đơn được lựa chọn điều tra trong điều tra ban đầu và rà soát
hành chính;



Phương thức xác định thuế suất áp dụng đối với các bị đơn tự nguyện không được
lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3;



Phương pháp xác định mức thuế suất toàn quốc dựa trên thông tin sẵn có bất lợi
đối với những doanh nghiệp Việt Nam không chứng minh được sự độc lập trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ với Nhà nước.
Việt Nam cho rằng những phương pháp này của Hoa Kỳ vi phạm các Điều I, II,
VI:1 và VI:2 Hiệp định GATT 1994; một số Điều của Hiệp định về Chống bán phá giá
(CBPG); Điều XVI:4 Hiệp định Thành lập WTO và Nghị định thư gia nhập WTO của
Việt Nam.
Tham vấn giữa hai bên nhằm giải quyết ổn thỏa, nhanh chóng vụ việc đã không
thành công. Ngày 7/4/2010 Việt Nam chính thức đề nghị WTO thành lập Ban Hội thẩm

giải quyết tranh chấp này theo Cơ chế giải quyết trong khuôn khổ WTO (DSU).
Giai đoạn Hội thẩm
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

17


Ngày 07/04/2010, Việt Nam yêu cầu Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong WTO
(DSB) thành lập Ban Hội thẩm.
Nội dung tranh chấp của vụ việc này của Việt Nam thu hút sự quan tâm của nhiều
bên. Có tới 7 nước đăng ký tham gia với tư cách bên thứ ba vào vụ kiện này (bao gồm:
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ). Đa
số các nước này trong quá trình xem xét của Ban Hội thẩm đều có ý kiến ủng hộ quan
điểm của Việt Nam (trừ trong một số hãn hữu vấn đề mà họ không có cùng mối quan tâm
như Việt Nam – ví dụ về phương pháp sử dụng đối với nước có nền kinh tế phi thị
trường). Điều này một mặt cho thấy Việt Nam đã lựa chọn trúng và đúng các vấn đề. Mặt
khác sự ủng hộ rất tích cực cũng góp phần mang đến quyết định có lợi cho Việt Nam của
Ban Hội thẩm.
Báo cáo của Ban Hội thẩm
Ngày 11/07/2011, Ban Hội thẩm ban hành báo cáo tới các bên liên quan. Báo cáo
được xây dựng trên cơ sở phân tích các vấn đề khiếu kiện, các lập luận và phản biện của
các bên tham gia. Cụ thể, trong Báo cáo của Ban Hội thẩm nêu rõ:


Liên quan đến khiếu kiện về phương pháp “Quy về 0”:
Phương pháp “Quy về 0” trong điều tra rà soát thuế chống bán phá giá là một thông
lệ được Hoa Kỳ sử dụng trong hầu hết các vụ điều tra chống bán phá giá của nước này.
Nội dung của phương pháp này là khi tính toán biên độ phá giá chung, Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) chỉ tính các biên độ phá giá có giá trị dương (lớn hơn 0), biên độ phá giá
có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này, biên độ phá giá

chung được tính toán sẽ cao hơn, từ đó mức thuế chống bán phá giá cũng bị đội lên rất
nhiều. Ban Hội thẩm ủng hộ lập luận của Việt Nam rằng việc sử dụng phương pháp “Quy
về 0” của Bộ Thương mại Hoa kỳ trong xác định biện độ phá giá đối với các bị đơn bắt
buộc trong rà soát hành chính lần 2 và lần 3 là trái với Điều 2.4 trong Hiệp định về
Chống bán phá giá. Ngoài ra, Ban Hội thẩm cũng cho rằng việc sử dụng phương pháp
“Quy về 0” trong bất kỳ rà soát hành chính nào của Hoa Kỳ là vi phạm Điều 9.3 của Hiệp
định về Chống bán phá giá và Điều VI:2 GATT 1994.
Quyết định này của Ban Hội thẩm cũng phù hợp với các tiền lệ trong nhiều vụ tranh
chấp trước đây trong khuôn khổ WTO về vấn đề này. Trên thực tế, sau nhiều phán quyết
cáo buộc vi phạm, Hoa Kỳ đã phải dỡ bỏ phương pháp quy về 0 trong điều tra ban đầu
cho tất cả các vụ việc. Tuy nhiên, nước này chưa chấp nhận dỡ bỏ hoàn toàn phương
pháp này trong điều tra rà soát hành chính (chỉ dỡ bỏ đối với các vụ việc cụ thể đã bị kiện
ra WTO và bị tuyên vi phạm). Đây chính là một trong những lý do chính khiến Việt Nam
phải tiến hành vụ việc này nhằm bảo vệ lợi ích cụ thể của các doanh nghiệp tôm Việt
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

18


Nam trong rà soát hành chính. Do đó, việc Việt Nam “thắng” ở vấn đề này có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng với Việt Nam.


Liên quan đến khiếu kiện về việc hạn chế số lượng bị đơn bắt buộc (bị đơn
được lựa chọn):
Liên quan đến vấn đề điều tra riêng các bị đơn không được lựa chọn điều tra nhưng
tự nguyên cung cấp bản trả lời, trong báo cáo của mình, Ban Hội thẩm đã bác bỏ khiếu
nại của Việt Nam với lý do trên thực tế không có doanh nghiệp nào của Việt Nam không
được lựa chọn điều tra nhưng cung cấp “bản trả lời tự nguyện”. Đến giai đoạn này, đây là
nội dung duy nhất mà Việt Nam có thể xem là “chưa thắng” trong vụ kiện này.




Liên quan đến khiếu kiện về mức thuế suất áp dụng cho các bị đơn tự nguyện
không được lựa chọn:
Theo quy định của WTO (Điều 9.4 Hiệp định chống bán phá giá) thì thuế suất áp
dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra sẽ bằng bình quân gia
quyền thuế suất xác định cho các bị đơn bắt buộc (trừ các trường hợp bị đơn bắt buộc có
mức thuế suất xác định dựa trên các thông tin sẵn có bất lợi hoặc có thuế suất bằng 0%
hoặc từ 0-2%). Tuy nhiên, Điều khoản này của WTO lại không quy định gì về cách thức
xác định thuế suất cho bị đơn tự nguyện khi tất cả các bị đơn bắt buộc đều có mức thuế
suất bằng 0 hoặc không đáng kể (như kết quả của POR2 và POR3 nêu ở trên). Theo một
phán quyết của Cơ quan phúc thẩm WTO trước đây thì tình trạng này được xem là “lỗ
hổng pháp lý” và vì vậy khó có thể nói việc DOC sử dụng thuế suất cho bị đơn tự nguyện
theo kết quả của vụ điều tra gốc là sai hay không. Có thể đây là lý do khiến Ban Hội thẩm
không trả lời khiến nại của Việt Nam về vấn đề này.
Mặc dù vậy, vì DOC sử dụng phương pháp Quy về 0 (đã bị tuyên là vi phạm) trong
vụ điều tra gốc để tính toán thuế suất cho bị đơn tự nguyện nên việc DOC bê y nguyên
mức thuế suất này các bị đơn tự nguyện trong POR2 và POR3 được Ban Hội thẩm xác
định là vi phạm WTO.



Liên quan đến việc xác định mức thuế suất toàn quốc:
Theo Hiệp định chống bán phá giá WTO (Điều 9.4) thì cơ quan điều tra phải tiến
hành điều tra xác định thuế suất riêng cho từng bị đơn trong vụ việc chống bán phá giá;
trong trường hợp không thể điều tra hết được (do số lượng bị đơn quá nhiều và nguồn lực
của cơ quan điều tra hạn chế), cơ quan này có thể chỉ điều tra một số lượng bị đơn nhất
định, số bị đơn còn lại (không được điều tra) sẽ được hưởng thuế suất bằng bình quân gia
quyền của các bị đơn được điều tra. Như vậy, với quy định này, sẽ chỉ có 2 loại thuế suất


Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

19


là “thuế suất riêng cho bị đơn bắt buộc” (individual rates), “thuế suất cho các bị đơn còn
lại” (“all other” rate) trong vụ điều tra chống bán phá giá.
Tuy nhiên, trong vụ tôm Việt Nam cũng như trong thông lệ tại Hoa Kỳ, ngoài hai
loại thuế suất trên, DOC còn áp dụng thêm loại “thuế suất toàn quốc” (country-wide rate)
cho các trường hợp bị đơn không được lựa chọn điều tra và không thỏa mãn điều kiện
“hoạt động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Nhà nước” để được hưởng mức “all
others rate”. Ban Hội thẩm ủng hộ lập luận của Việt Nam rằng quy định này của Hoa Kỳ
là vi phạm WTO: theo Điều 9.4 nói trên thì thuế suất loại “all others” được áp dụng
không kèm theo điều kiện gì, việc DOC đặt thêm điều kiện “doanh nghiệp phải chứng
minh được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước” là vi phạm WTO.
Đây có thể xem là thắng lợi rất đáng kể của Việt Nam trong vụ việc này bởi khác
với phương pháp Quy về 0 vốn đã bị tuyên vi phạm trong nhiều phán quyết của WTO,
vấn đề “thuế suất toàn quốc” là vấn đề mới và hầu như chưa có tiền lệ rõ ràng trong WTO
trong khi đây lại là phương pháp Hoa Kỳ sử dụng rất phổ biến trong các vụ việc của các
nước có nền kinh tế thị trường, gây thiệt hại đáng kể cho các doanh nghiệp ở các nước
này (bởi thuế suất toàn quốc mà DOC áp dụng hầu hết là cao hơn mức “all others rate”).
Khuyến nghị chung của Ban Hội thẩm:
Từ các phán quyết về từng vấn đề nêu trên, Ban Hội thẩm kết luận Hoa Kỳ có các
hành vi vi phạm các điều khoản của Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp định GATT
1994 và điều này đã gây tổn hại tới quyền lợi của Việt Nam theo các Hiệp định này. Vì
vậy, Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ điều chỉnh các biện pháp liên quan cho phù hợp
các Hiệp định nêu trên (theo Điều 19.1 DSU).
Theo Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO, Việt Nam và Hoa Kỳ có khoảng
thời gian là 60 ngày để đưa ra kháng cáo báo cáo này của Ban Hội thẩm lên Cơ quan

Phúc thẩm. Nếu không có kháng cáo trong thời hạn trên, Báo cáo của Ban hội thẩm sẽ
được DSB thông qua và có giá trị bắt buộc. Khi đó, Bên thua kiện có 30 ngày để thông
báo với DSB về việc thi hành khuyến nghị của mình.
2.3 Bài học kinh nghiệm từ vụ kiện

Ý nghĩa của vụ việc
DS 404 là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam khởi xướng (với tư cách người đi kiện –
nguyên đơn) trong khuôn khổ WTO. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vụ kiện được
xem là thành công lớn ở cả hai khía cạnh: (i) lựa chọn trúng và đúng vấn đề (những vấn
đề có khả năng thắng cao, đồng thời là những biện pháp, phương pháp, thông lệ mà Hoa
Kỳ áp dụng cho tất cả các cuộc điều tra đã hoặc sẽ xảy ra trong tương lai) và (ii) chuẩn bị
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

20


các lập luận xác đáng, thuyết phục để đạt được kết quả tốt nhất có thể (trên thực tế Việt
Nam thắng ở 3 trên 4 vấn đề khiếu kiện).Với thành công này, vụ việc có ý nghĩa quan
trọng trong việc:


Đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan đối với
hàng hóa Việt Nam; vấn đề kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam
vì vậy có thể sẽ bớt khắc nghiệt hơn; mức độ thiệt hại từ các vụ kiện được hy vọng sẽ
giảm đáng kể. Cũng thông qua vụ việc này, Việt Nam đã gửi thông điệp ra thế giới rằng
Việt Nam sẽ đấu tranh tích cực để bảo vệ các quyền lợi của nhà xuất khẩu trong các vụ
kiện chống bán phá giá tại bất kỳ nước nào;




Là một kinh nghiệm thực tế nhiều khích lệ cho Việt Nam trong việc tự tin, chủ
động sử dụng công cụ giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong thương mại quốc tế theo các quy định của WTO
mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa các bên tranh chấp.
Về vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp
Trong vụ việc đầu tiên, mọi công việc từ ý tưởng khởi kiện đến quyết định tham
vấn, từ lựa chọn luật sư đến chuẩn bị chứng cứ, từ tham gia các thủ tục tố tụng đến theo
dõi thực thi… đối với Việt Nam đều là “lần đầu tiên”. Những cái được và chưa được
trong vụ việc của những “lần đầu tiên” này là những kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam
nói chung và các doanh nghiệp, hiệp hội nói riêng trong việc sử dụng công cụ giải quyết
tranh chấp trong WTO để bảo vệ lợi ích của mình.Đặc biệt, điểm đáng ghi nhận nhất
trong vụ việc này là vai trò chủ động, tích cực của các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc
phát hiện vấn đề cũng như tham gia vào quá trình chuẩn bị cho vụ việc. Cụ thể, Hiệp hội
Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) và Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành:



Chủ động nghiên cứu nghiêm túc vấn đề từ góc độ của Việt Nam và kinh nghiệm
quốc tế, đưa đề xuất với Chính phủ về việc Việt Nam cần khởi kiện Hoa Kỳ ra WTO;



Trong khi các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn đang lúng túng bởi chưa có
tiêu chí hay cơ chế nội bộ nào cho việc quyết định có khởi kiện hay không, đã có những
lập luận thuyết phục và chặt chẽ với các cơ quan liên quan cũng như những hình thức
tuyên truyền thích hợp nhằm tạo sự ủng hộ của công chúng, góp phần vào quá trình ra
quyết định khởi kiện của Chính phủ;




Tham gia tích cực và hiệu quả vào việc lựa chọn luật sư tư vấn cho vụ việc và với
việc giới thiệu luật sư giỏi, nhiều kinh nghiệm và có kết nối từ vụ việc gốc ở Hoa Kỳ và

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

21


tranh chấp trong WTO, có thể nói hai Hiệp hội đã cùng góp phần vào thành công trong
kết quả của vụ việc.
Mặc dù các Hiệp hội liên quan đã có đóng góp rất tích cực và phối hợp tốt với các
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong giai đoạn đầu, vẫn còn những vấn đề tồn tại
trong quá trình tham gia giải quyết tranh chấp này, chủ yếu trong giai đoạn sau đó. Cụ
thể:


Sau khi vụ việc được bắt đầu, các Hiệp hội không được thông tin về diễn tiến cũng
như những nội dung liên quan của vụ việc cũng như không có cơ hội phối hợp, sát cánh
cùng các cơ quan Nhà nước liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc;



Các Hiệp hội cũng không được tham gia hay tiếp cận các báo cáo về vụ việc của
phía Việt Nam và những kinh nghiệm từ vụ việc tranh chấp đầu tiên trong WTO này.
Vụ tranh chấp đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong khuôn khổ WTO chỉ là một
trong số hơn 400 vụ tranh chấp giữa các nước thành viên mà WTO đã chứng kiến từ ngày
thành lập năm 1995 đến nay, vì thế nó có thể không đặc biệt lắm với thế giới. Nhưng rõ
ràng với Việt Nam đây lại là bước ngoặt có ý nghĩa, với nhiều bài học lớn cho Chính phủ
cũng như các doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nói riêng.

Nghiên cứu được thực hiện vào tháng 08/2011
Nguồn: Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại - VCCI

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Sổ tay về Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO” – Bruce Wilson
2. />4.
5.
6.
7.
8.

quyet-tranh-chap-trong-khuon-kho-wto-dsu
/> /> /> /> /> />
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (DSU)

23



×