Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tìm hiểu về basel thực trạng giám sát ngân hàng theo basel II tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.73 KB, 33 trang )

z

GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


VIỆN QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN

Đề tài:
“TÌM HIỂU VỀ BASEL - THỰC TRẠNG GIÁM SÁT NGÂN
HÀNG THEO BASEL II TẠI VIỆT NAM”
 Giảng viên hướng dẫn

:

PGS. Vũ Thị Minh Hằng

:

Cao học Đêm 5

 Nhóm 3

 Lớp

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2012


1


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
1.1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập và đã có những bước phát
triển ấn tượng để ngày càng khẳng định vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Trong
đó hệ thống ngân hàng được xem như là huyết mạch của nền kinh tế, có ảnh hưởng
sâu rộng đến mọi mặt của đời sống, mọi thành phần kinh tế, có vai trò quyết định đến
sự ổn định và phát triển của một quốc gia.
Việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày
07/11/2006 cho đến nay ngoài những thay đổi về cơ chế chính sách tạo hành lang
pháp lý cho việc hội nhập, thì việc thực hiện lộ trình cam kết về mở cửa thị trường tài
chính, hoạt động ngân hàng ở Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc về chất và
lượng : số lượng chi nhánh, quy mô vốn, các giao dịch liên kết chứng khoán - ngân
hàng - bảo hiểm, các giao dịch quốc tế ngày càng tăng. Bên cạnh tác động tích cực là
đem lại những cơ hội phát triển, nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro, thách thức đối với
các ngân hàng về nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả họat động, lợi thế hoạt động,
quản trị rủi ro…… đồng thời cũng đòi hỏi các cơ quan giám sát ngân hàng phải phát
huy tốt hơn nữa vai trò của mình để đảm bảo nền kinh tế có hệ thống ngân hàng họat
động lành, hiệu quả theo cơ chế thị trường ngày càng vươn xa ra tầm quốc tế nhưng
vẫn tuân thủ tốt chiến lược, chính sách điều hành của Đảng và Chính phủ .
Chính vì lý do đó, việc tìm hiểu và xây dựng nên những chuẩn mực họat động
của hệ thống ngân hàng phù hợp với yêu cầu thực tế tại Việt Nam và đảm bảo đủ sức
cạnh tranh trên trường quốc tế là nhu cầu hết sức cấp thiết cần có sự đầu tư nghiên cứu
nghiêm túc và kỹ lưỡng. Nhóm đã chọn đề tài “Tìm hiểu về Basel và Thực trạng
giám sát ngân hàng theo Basel II tại Việt Nam” nhằm cung cấp những kiến thức cơ

bản về Hiệp ước vốn Basel mà tự mỗi ngân hàng và cơ quan thanh tra giám sát ngân
hàng của Ngân hàng Nhà nước(NHNN) phải có cái nhìn tổng quan xây dựng hệ thống
các chuẩn mực an toàn trong hoạt động, quản trị, giám sát của mình theo yêu cầu của
Ủy ban Basel đồng thời đề tài cũng nêu ra thực trạng áp dụng các chuẩn mực trên cho
tình hình cụ thể tại Việt Nam.
1.2. Vấn đề nghiên cứu
Hiệp ước vốn Basel ra đời và đã có một bề dày hoạt động hơn 20 năm qua, việc
nghiên cứu tất cả những thông tin chi tiết liên quan đến Basel là điều không thể hoàn

2


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
thành được ở mức độ của một đề tài môn học, do đó nhóm xác định trọng tâm nghiên
cứu xoay quanh những vấn đề sau :
- Giới thiệu tổng quan về Ủy ban Basel
- Tìm hiểu nội dung Hiệp ước Basel I
- Tìm hiểu nội dung Hiệp ước Basel II
- Tìm hiểu nội dung Hiệp ước Basel III
- Thực trạng tuân thủ giám sát ngân hàng theo chuẩn mực của Basel II tại
Việt Nam
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, phân tích những nhận định, đánh giá của các chuyên gia về
nội dung đề từ các bài báo, công trình nghiên cứu đã được công bố.
- Thống kê, tập hợp các văn bản quy định pháp luật của Chính phủ, NHNN
Việt Nam xung quanh các nội dụng mà đề tài hướng tới.
3. Tình hình nghiên cứu
Đến nay, đã có rất nhiều đề tài trên thế giới cũng như ở Việt Nam nghiên cứu
về các Hiệp ước vốn Basel cũng thực trạng áp dụng thực tế tại Việt Nam, những thuận
lợi và triển vọng, thách thức và khó khăn trong việc áp dụng những chuẩn mực của ủy

ban Basel cho nền kinh tế non trẻ như Việt Nam. Do đó, với việc tìm hiểu nghiên cứu
những nội dụng, nhận định đánh giá từ các phương tiện thông tin, từ các công trình
nghiên cứu, với những gì mà đề tại hướng đến nhóm có thể tổng hợp thống kê cung
cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát đặc biệt là thực trạng áp dụng tại Việt Nam mà
nhóm cũng như mọi người đang rất quan tâm.
4. Kết cấu của đề tài.
Chương 1: Cơ sở lý luận của hệ thống chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân
hàng an toàn theo Hiệp ước Basel
Chương 2: Thực trạng giám sát ngân hàng theo Basel II tại Việt Nam
Chương 3: Một số các nhận định và bài học kinh nghiệm tại Việt Nam

Chương 1: Cơ sở lý luận của hệ thống chuẩn mực đánh giá hoạt
động ngân hàng an toàn theo Hiệp ước Basel
1. Vài nét về Ủy ban Basel.
- Lịch sử hình thành : Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee
on Banking supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các
Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành
phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng

3


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung
ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức,
Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý.
Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
- Tổ chức hoạt động : Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát
hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài

chính thành viên.
- Mục tiêu hoạt động : Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát
nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối
với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và
công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu
các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng
rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ.
-

Tình hình hoạt động : một số các hoạt động nổi bật
• Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực
từ 1992.
• Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi
chậm nhất vào ngày 1/1/1998).
• Tháng 6/1999, đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư
vấn lần thứ nhất (First Consultative Package – CP1).
• Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
• Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3).
• Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn
thiện.
• Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực.
• Ngày 12/9/2010 Basel III ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ 2015.

2. Nội dung hiệp ước Basel I.

2.1. Hoàn cảnh ra đời :
Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel (Basel I) ra đời, yêu cầu các Ngân hàng hoạt
động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro
có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn


4


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
của Ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo
trọng số rủi ro của Ngân hàng.
2.2. Mục tiêu :
-

Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.

-

Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm

cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
2.3. Nội dung chính: Gồm 03 tiêu chuẩn chính
-

Tiêu chuẩn thứ nhất : Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR - Capital Adequacy

Ratio), mục đích nhằm củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là
những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100
quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của
rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi
ro của chúng.
Tỉ lệ Cook (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA).
STT
1

2
3
4
5
-

Tỷ lệ CAR
> 10%
> 8%
< 8%,
< 6%
< 2%

Tình trạng vốn
Mức vốn tốt
Mức vốn thích hợp
Thiếu vốn
Thiếu vốn rõ rệt
Thiếu vốn trầm trọng

Tiêu chuẩn thứ hai: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định

nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
• Vốn cấp 1: là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công
bố, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích
thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế
kinh doanh (goodwill), các quỹ ….
• Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự
phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn

hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức
tài chính khác.
• Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn

5


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Tiêu chuẩn thứ ba: Vốn tính theo rủi ro gia quyền:

RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân
đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Ví dụ:
Loại tài sản

Tài sản điều

Yêu cầu

chỉnh theo

về vốn tối

trọng số rủi ro

thiểu

Trọng số


Tỷ lệ

rủi ro

vốn

0%

8%

1.000 USD

0 USD

0 USD

20%

8%

1.000 USD

200 USD

16 USD

50%

8%


1.000 USD

500 USD

40 USD

100%

8%

1.000 USD

1.000 USD

80 USD

Số tiền

Tiền mặt và vàng nằm trong
ngân hàng. Các nghĩa vụ trả nợ
của Chính phủ và Bộ Tài chính.
Các khoản trả nợ của ngân hàng
có quy mô lớn. Chứng khoán
phát hành bởi các cơ quan Nhà
nước
Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
Tất cả các khoản vay khác như
trái phiếu của doanh nghiệp, các
khoản nợ từ các nước kém phát

triển, các khoản vay thế cấp cổ
phiếu, bất động sản,…

Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính
đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và
rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị
thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát
sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro
thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định.
2.4. Những hạn chế:
-

Không phân biệt theo loại rủi ro:

• Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như một khoản nợ đối với
tổ chức xếp hạng B.
• Một khoản nợ cho một ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ cần một lượng vốn bằng 1/5
khoản nợ cho General Electric (GE-một công ty xếp hạng AAA) → Việc giữ các tài
sản có độ rủi ro thấp ít sinh lợi hơn tài sản có độ rủi ro cao.

6


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Basel I chỉ bao gồm những rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất

mà không đề cập đến rủi ro hoạt động một cách rõ ràng.
-


Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa

• Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu tư
được đa dạng hóa, với cùng một giá trị.
• Không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay $100 và 100 khoản vay $1.
-

Không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành, do đó không thực sự

khuyến khích các ngân hàng nâng cao quản trị rủi ro.
-

Đặc quyền với các nước thuộc khối OECD.

3. Nội dung hiệp ước Basel II.
3.1 . Hoàn cảnh ra đời
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996
vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không
đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày càng
tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực
đưa ra một Hiệp ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước
quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành.
3.2 . Mục tiêu
-

Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế.

-


Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên

bình diện quốc tế.
-

Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý

rủi ro.
3.3 . Nội dung chính:
Bao gồm 03 trụ cột chính :
• Trụ cột thứ nhất : Các yêu cầu vốn tối thiểu
-

Tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8%, trong đó một tổ chức tài chính

được gọi là đủ vốn khi CAR đạt tối thiểu 4% đối với vốn cấp 1 và 8% đối với vốn cấp
2.
-

Rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro

tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường.

7


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất


nhạy cảm với xếp hạng.
-

RWA trong công thức tính hệ số an toàn vốn CAR sẽ bao gồm 2 phần: tổng tài

sản đã điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng cộng với 12,5 lần tổng vốn quy định cho
dự phòng rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Chẳng hạn, tổng tài sản đã điều chỉnh
theo hệ số rủi ro tín dụng của một ngân hàng là 1000 USD, vốn quy định phòng ngừa
rủi ro thị trường là 10 USD, vốn quy định tối thiểu để phòng ngừa rủi ro tác nghiệp là
20 USD thì mẫu số để xác định tỷ lệ vốn tối thiểu sẽ là: 1000 + (10 + 20) x 12,5 =
1375 USD. Điều đó có nghĩa là ngân hàng đó phải cần nhiều vốn tự có hơn để thoả
mãn tỷ lệ tối thiểu 8%.
• Trụ cột thứ hai: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất
lượng quản lý rủi ro ngân hàng
Trụ cột này cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối
mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi
ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại. Các Ngân hàng cần
phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm
bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện
pháp đánh giá này.
Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
-

Nguyên tắc 1: Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức

độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn
nhằm duy trì mức vốn đó.
-


Nguyên tắc 2: Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh

giá về mức vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có
khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên
thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của
quy trình này.
-

Nguyên tắc 3: Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn

cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
-

Nguyên tắc 4: Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo

mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu
cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.

8


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
Với cột trụ này, Basel II đưa ra 25 nguyên tắc cơ bản cần thiết đảm bảo cho hệ
thống giám sát hoạt động có hiệu quả, nội dung tóm tắt như sau :
Nguyên tắc 1 - Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự hợp
tác: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả phải phân định trách nhiệm rõ ràng và
mục đích của mỗi đơn vị có thẩm quyền giám sát ngân hàng. Mỗi đơn vị phải có sự
hoạt động độc lập, các quy trình minh bạch, có lực lượng nhân sự đầy đủ và được
quản lý phù hợp, phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước nhiệm vụ được giao. Các quy
định về chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước và quy định về bảo mật

các thông tin cũng cần phải được quy định rõ ràng.
Nguyên tắc 2 – Các hoạt động được phép: Các hoạt động được phép của các
tổ chức được cấp phép và chịu sự giám sát dưới tên gọi ngân hàng phải được quy định
rõ rang.
Nguyên tắc 3 – Các tiêu chí cấp phép: Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền cấp phép phải có quyền đề ra các tiêu chí và từ chối đơn xin cấp Giấy phép
thành lập nếu hồ sơ không đáp ứng được các tiêu chuẩn đề ra.
Nguyên tắc 4 - Chuyển quyền sở hữu lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có
quyền xem xét và từ chối bất cứ đề xuất chuyển nhượng quyền sở hữu lớn hoặc
chuyển nhượng quyền kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp tại các ngân hàng hiện hữu
cho một bên khác.
Nguyên tắc 5 – Giao dịch mua lại lớn: Cơ quan quản lý nhà nước phải có
quyền chuẩn y các giao dịch mua lại lớn hoặc quyết định đầu tư lớn của ngân hàng,
ngược lại các tiêu chí đã nêu, bao gồm cả việc thành lập các hoạt động xuyên quốc
gia, và phải đảm bảo được rằng, các giao dịch hoặc thay đổi cơ cấu không ảnh hưởng
đến an toàn của ngân hàng, không đem đến cho ngân hàng các rủi ro không đáng có
hoặc gây cản trở đến việc giám sát hệ thống ngân hàng hiệu quả.
Nguyên tắc 6 – An toàn vốn tối thiểu: Cơ quan quản lý nhà nước phải đưa ra
các quy định về an toàn vốn tối thiểu phù hợp đối với các ngân hàng để phản ánh được
những rủi ro mà ngân hàng gặp phải, và phải quy định rõ ràng về thành phần của vốn,
đảm bảo rằng vốn phải có khả năng chịu được lỗ. Tối thiểu là đối với các ngân hàng
hoạt động quốc tế, các quy định này không được thấp hơn mức mà Uỷ ban Basel quy
định.

9


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
Nguyên tắc 7 – Quy trình quản trị rủi ro: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm
bảo rằng, ngân hàng và tập đoàn ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro toàn diện

(bao gồm cả khả năng kiểm soát rủi ro của Hội đồng quản trị và Ban điều hành) để
phát hiện, đánh giá, xử lý và kiểm soát, giảm thiểu tất cả các rủi ro để đánh giá tổng
thể mức độ đủ vốn của ngân hàng trước các danh mục rủi ro. Các quy trình quản trị rủi
ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức.
Nguyên tắc 8 - Rủi ro tín dụng: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo rằng
các ngân hàng có một quy chế quản lý rủi ro tín dụng cân nhắc tới các rủi ro của tổ
chức với các chính sách an toàn, các quy trình quản lý rủi ro nhằm phát hiện, đo
lường, kiểm tra và kiểm soát rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 9 – Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ: Cơ quan quản lý cần
đảm bảo rằng ngân hàng phải xây dựng các chính sách đảm bảo an toàn tối thiểu cho
việc quản lý các tài sản có rủi ro, xác định mức dự phòng và dự trữ đủ cho tổ chức.
Nguyên tắc 10 - Giới hạn mức cho vay: Cơ quan quản lý rủi ro phải đảm bảo
rằng ngân hàng phải có các chính sách và hệ thống quản trị rủi ro nhằm nhận dạng,
quản lý các khoản cho vay lớn trong danh mục, cơ quan quan lý đồng thời cần phải
xây dựng các giới hạn cho vay nhằm hạn chế các ngân hàng tập trung cho vay một
khách hàng hoặc nhóm các khách hàng có liên quan.
Nguyên tắc 11 - Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan: Nhằm hạn chế
việc cho vay (bao gồm các khoản nợ nội bảng và ngoại bảng) nhóm khách hàng có
liên quan và xác định sự xung đột về lợi ích, cơ quan quản lý cần có những quy định
về giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng có liên quan,
các khoản cho vay này phải được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời cần phải có các bước
phù hợp nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro, việc xóa các khoản nợ này được thực
hiện theo các chính sách và quy trình chuẩn mẫu.
Nguyên tắc 12 – Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi: Cơ quan quản lý nhà
nước phải đảm bảo rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác định, đo
lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi trong các hoạt động
cho vay và đầu tư quốc tế, và đồng thời các ngân hàng phải trích lập dự phòng cho các
rủi ro này.
Nguyên tắc 13 – Rủi ro thị trường: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo
rằng các ngân hàng có các chính sách và quy trình xác định chính xác, đo lường, theo


10


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
dõi và kiểm soát được các rủi ro thị trường; cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
đặt ra các định mức cụ thể và/hoặc có thể dùng một khoản vốn cụ thể để xử lý rủi ro
thị trường nếu có lý do chính đáng.
Nguyên tắc 14 – Rủi ro thanh khoản: Cơ quan quản lý nhà nước phải đảm bảo
rằng các ngân hàng có một chiến lược quản lý khả năng chi trả có thể tính toán được
mọi rủi ro của tổ chức, ngân hàng phải có chính sách và quy trình để xác định, đo
lường, theo dõi và kiểm soát được rủi ro thanh khoản, và quản lý được khả năng chi
trả của mình hàng ngày. Cơ quan quản lý nhà nước phải yêu cầu các ngân hàng có kế
hoạch sẵn sàng đối ứng với các vấn đề về thanh khoản có thể phát sinh bất ngờ.
Nguyên tắc 15: Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động): Cơ quan quản lý nhà
nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có chính sách và quy trình quản lý rủi ro để
nhận dạng, đánh giá, kiểm tra và kiểm soát/giảm thiểu rủi ro hoạt động. Các chính
sách và quy trình quản lý rủi ro này phải phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của
tổ chức.
Nguyên tắc 16: Rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng: Cơ quan quản lý nhà
nước phải đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả nhằm
nhận dạng, đo lường và kiểm tra, kiểm soát rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng,
bao gồm một chiến lược được Hội đồng quản trị phê duyệt và được thực hiện bởi ban
quản lý cấp cao; chiến lược này cũng cần phải phù hợp với quy mô và mức độ phức
tạp của tổ chức của loại rủi ro.
Nguyên tắc 17: Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Cơ quan quản lý nhà nước phải
đảm bảo rằng ngân hàng phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ phù
hợp với quy mô và mức độ phù hợp với loại hình kinh doanh của tổ chức.
Nguyên tắc 18 – Lạm dụng các dịch vụ tài chính: Cơ quan quản lý nhà nước
phải đảm bảo được rằng các ngân hàng có chính sách và quy trình, bao gồm các quy

tắc nghiêm ngặt về “nhận biết khách hàng”, nâng cao các tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp trong lĩnh vực tài chính và bảo vệ ngân hàng không bị lợi dụng, một cách vô
tình hay cố ý, vào các hoạt động phạm pháp.
Nguyên tắc 19 – Phương pháp giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng
hiệu quả yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và duy trì sự hiểu biết sâu
sắc về hoạt động của từng ngân hàng và tập đoàn ngân hàng, đồng thời cả hệ thống

11


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
ngân hàng, tập trung vào sự an toàn và tính bền vững, cũng như sự ổn định của toàn hệ
thống ngân hàng.
Nguyên tắc 20 – Kỹ thuật giám sát: Một hệ thống giám sát ngân hàng hiệu quả
phải bao gồm cả thanh tra tại chỗ và kiểm soát từ xa và sự liên hệ mật thiết giữa cơ
quan quản lý nhà nước với ban điều hành của ngân hàng.
Nguyên tắc 21 – Thông tin giám sát: Cơ quan quản lý nhà nước phải có các
phương tiện thu thập, xem xét và phân tích các báo cáo về an toàn hoạt động và các
chỉ số thống kê do các ngân hàng gửi về trên cơ sở đơn lẻ và tổng hợp, đồng thời phải
có phương tiện để xác minh tính trung thực của các báo cáo này thông qua hoặc là
thanh tra tại chỗ hoặc thuê các chuyên gia độc lập.
Nguyên tắc 22 – Kế toán và công bố công khai: Cơ quan quản lý nhà nước
phải đảm bảo được rằng mỗi ngân hàng phải duy trì việc ghi chép sổ sách đầy đủ và
theo đúng các chuẩn mực kế toán được quốc tế công nhận, và công bố công khai
thường xuyên các thông tin phản ánh đúng tình trạng tài chính và lợi nhuận của ngân
hàng.
Nguyên tắc 23- Quyền xử lý vi phạm của cơ quan quản lý nhà nước: Cơ
quan quản lý nhà nước phải có công cụ hỗ trợ họ đưa ra các biện pháp xử lý vi phạm
kịp thời. Trong đó bao gồm khả năng thu hồi Giấy phép hoạt động hoặc cảnh báo việc
thu hồi Giấy phép hoạt động.

Nguyên tắc 24 – Giám sát hợp nhất: Một yếu tố nhạy cảm của việc giám sát
hệ thống ngân hàng là cơ quan quản lý nhà nước giám sát các tập đoàn ngân hàng trên
cơ sở hợp nhất, theo dõi sát sao, và áp dụng tất cả các quy tắc đảm bảo an toàn đối với
tất cả các khía cạnh kinh doanh mà tập đoàn thực hiện trên toàn cầu.
Nguyên tắc 25 – Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại và
nước nguyên xứ: Việc giám sát hợp nhất xuyên biên giới đòi hỏi sự hợp tác và trao
đổi thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước nước sở tại với các cơ quan quản lý có
liên quan, chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước của nước nguyên xứ. Các cơ quan
quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng phải yêu cầu các hoạt động tại nước sở tại
của ngân hàng nước ngoài được thực hiện theo cùng một tiêu chuẩn như đối với các tổ
chức trong nước.
• Trụ cột thứ ba: Tuân thủ kỷ luật thị trường

12


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên
tắc thị trường.Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các
ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ
vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với
từng loại rủi ro này. Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước
mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt
động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và
do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
3.4. Đánh giá
-

Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro


duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và
kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia
được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm
rủi ro cụ thể của nó.
-

Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho

tất cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các
biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
-

Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy

cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng
lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi
ro.
-

Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước

thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Cooperation and Development). Basel II quy định từ 0 – 150 hoặc hơn và không có đặc
quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
-

Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II

thừa nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ,

đảm bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
4. Nội dung hiệp ước Basel III.
4.1 . Hoàn cảnh ra đời

13


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
Sau gần 1 năm Ngân hàng Lehman Brothes sụp đổ, tháng 6-2009, Tổng thống
Barack Obama đề nghị một chương trình cải tổ toàn diện đối với hệ thống tài chính
Hoa Kỳ. Tháng 7-2010, đạo luật Dodd-Frank được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nhằm
lành mạnh hóa hệ thống tài chính đất nước. Trong thời gian này, nước Anh vốn là
trung tâm tài chính lớn nhất thế giới, đưa ra chương trình cải cách lĩnh vực tài chính.
Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) cũng tiến hành các biện pháp tương tự
trong việc cải cách ngành tài chính.
Riêng đối với ngành ngân hàng - nhóm ngành quan trọng trong lĩnh vực tài
chính và cũng là “tội đồ” của cuộc khủng hoảng 2008 - Hiệp ước Basel III ra đời
nhằm khắc phục những yếu kém mà Hiệp ước Basel II còn khiếm khuyết như hạn chế
về qui định vốn trước đây và tăng cường quản lý rủi ro, đảm bảo ổn định hoạt động
ngân hàng.
4.2 . Nội dung chính
- Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.
- Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
- Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu
2,5%.
- Tuỳ theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy
giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 – 2,5% và phải được đảm
bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi
hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong
hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.

- Ngoài ra, Basel III còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng
và nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh
trình trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel III cũng đồng thời rà
soát lại các tiêu chuẩn (định nghĩa) vốn cấp 1 và vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản
vốn không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
- Như vậy, có thể thấy rằng loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài
chính 2,5%, tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên,
kết cấu của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1,
đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả
2 khoản vốn đệm dự phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ
kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel II) tăng lên thành
9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel III. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ

14


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ
cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn
chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng
hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài chính khác, khoản
vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại)… Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ
lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét trong bối
cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có
hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực
hiện đầy đủ vào 1/1/2019, cụ thể như sau:
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu
Vốn đệm dự phòng
Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng

vốn đệm dự phòng
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các
khoản vốn không đủ tiêu chuẩn
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm
dự phòng bắt buộc
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2
các khoản không đủ tiêu chuẩn
Vốn dự phòng chống hiệu ứng
chu kỳ

2013
3,5%

2014
4,0%

2015
4,5%

2016
2017
2018 2019
4,5% 4,5% 4,5% 4,5%
0,625% 1,25% 1,875% 2,5%

3,5%

4,0%


4,5% 5,125% 5,76% 6,375%

20%

40%

60%

80%

100%

100%

4,5%
8%

5,5%
8%

6,0%
8%

6,0%
8%

6,0%
8%


6,0%
8%

6,0%
8%

8%

8%

8%

8,625

9,125

9,875

10,5

7%

Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%

4.3 . Đánh giá
Basel II chỉ quan tâm đến vấn đề an toàn vốn (hay vốn dựa vào rủi ro - Riskbased capital), Basel III tập trung vào 2 vấn đề: gia tăng tiêu chuẩn về an toàn vốn và
đưa ra các tiêu chuẩn về thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM).
Như vậy, điểm khác biệt quan trọng giữa 2 hiệp ước là Basel III chú ý nhiều hơn đối
với vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Kết luận chương 1: Kể từ khi Hiệp ước Basel được ban hành lần đầu vào
năm 1988 và phiên bản II được bổ sung, sửa đổi từ những năm 2001, những chuẩn
mực trong hiệp ước đã dần trở thành những chuẩn mực quốc tế được áp dụng hầu hết
tại các quốc gia trên toàn thế giới. Qua chương 1, đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận

15


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
của các chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo Hiệp ước Basel. Trên
cơ sở đó, chương 2, chương 3 sẽ tiến hành tìm hiểu các cơ hội, thách thức, khó khăn
mà các ngân hàng gặp phải trong quá trình áp dụng và các nhận định, đánh giá về sự
cần thiết phải áp dụng Hiệp ước Basel vào công tác quản lý ngân hàng.

Chương 2:

Thực trạng giám sát ngân hàng theo Basel II tại
Việt Nam

1. Cơ hội, thách thức đối với việc áp dụng Basel II của hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
1.1. Cơ hội:
Việt Nam đang trên đà hội nhập với nền kinh tế thế giới cùng với những cam
kết chuẩn mực trong hoạt động của thị trường tài chính theo lộ trình gia nhập WTO là
những chính sách khuyến khích phát triển, giám sát cũng như không ngừng cải thiện
sức khỏe của hệ thống NHTM trong nước. Nước ta đang đứng trước các cơ hội thuận
lợi để có thể đáp ứng đầy đủ việc áp dụng các yêu cầu của Basel II như sau:
- Có điều kiện tranh thủ vốn nâng cao tiềm lực tài chính, nâng cao công nghệ,
phát triển đội ngũ nhân lực tài chính, các sản phẩm ngân hàng - tài chính ngày càng
linh hoạt, mang tính chuyên nghiệp, thực tiễn và quốc tế hóa ngày càng cao.

- Có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, đã thành công
trong việc áp dụng các chuẩn mực của Ủy ban Basel.
- Môi trường tài chính có sự cạnh tranh công bằng lành mạnh giữa các chủ thể
tham gia: từ ngày 01/01/2011 chi nhánh ngân hàng nước ngoài được đối xử bình đẳng

16


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
quốc gia theo như cam kết gia nhập WTO, từ đó thúc đẩy tự mỗi NHTM phải tự nâng
cao năng lực cạnh tranh của bản thân mình cả về chất và lượng để có thể tồn tại và
phát triển.
1.2. Thách thức:
Tuy nhiên, với một nước đang phát triển như nước ta đặc biệt là hệ thống tài
chính chỉ mới bước đầu trong giai đoạn hội nhập, để có thể đáp ứng những yêu cầu
chuẩn mực của hệ thống giám sát ngân hàng theo Ủy ban Basel thì những thách thức
gặp phải là không nhỏ:
- Về chi phí thực hiện: Theo ước tính, các ngân hàng thương mại cỡ nhỏ phải
tốn xấp xỉ 10 triệu Đô la Mỹ, tương đương với 220 tỷ đồng Việt Nam, khoảng 7% vốn
điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần. Trong khi đó, nếu là ngân hàng cỡ lớn
thì chi phí vận hành hệ thống Basel này có thể lên đến 200 triệu Đôla Mỹ, tương
đương với 4.400 tỷ đồng Việt Nam, cao hơn mức vốn pháp định của các NHTM hiện
hành.
-

Điều kiện hỗ trợ thông tin chưa đầy đủ: Các thông tin trên thị trường chứng

khoán và thị trường vốn là hết sức quan trọng nếu một hệ thống ngân hàng muốn áp
dụng theo các chuẩn mực của Basel II. Tuy nhiên cho đến nay, các thông tin kinh tế vi
mô, vĩ mô của các tổ chức kinh tế, ngành nghề , cổ phiếu …… chỉ thực hiện theo dạng

báo cáo định kỳ, điều nay rất khó cho công tác quản trị rủi ro cho các ngân hàng.
- Hạn chế về năng lực giám sát: hiện nay cơ quan giám sát chưa thể kiểm
chứng hệ thống đánh giá rủi ro của các tổ chức tín dụng có phù hợp hay không, có
đảm bảo an toàn cho hoạt động của cả hệ thống hay không, mặt khác những quy định
của NHNN chưa thật sự linh hoạt cũng như chưa bám sát hoạt động thực tiễn theo
diễn biến của thị trường..…
- Hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực: đây không chỉ là vấn đề nan giải
của chính các NHTM mà cho cả hệ thống giám sát ngân hàng của NHNN VN, như đã
đề cập để nắm vững và vận dụng được các chuẩn mực của Ủy ban Basel đòi hỏi các
chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân hàng và nhân viên phụ trách phải có
một tầm hiểu biết nhất định, giỏi về ngoại ngữ lẫn kiến thức toán học và kiến thức
quản trị. Ngoài ra các kỹ năng phân tích, dự báo cũng là những kỹ năng không thể
thiếu. Đây thực sự là những yêu cầu cao đối với các chuyên gia ngân hàng Việt Nam
tại thời điểm này.
- Hạn chế về nền tảng cơ sở pháp lý: hệ thống kế toán Việt Nam chưa theo
chuẩn hệ thống kế toán quốc tế đây là một trở ngại cho hệ thống NHTM muốn vươn

17


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
ra tầm quốc tế, về hành lang pháp lý còn nhiều sự bất cập trong công tác hoạt động,
công tác quản trị, chính sách điều hành, ….
2. Phân tích thực trạng tuân thủ các nguyên tắc giám sát ngân hàng theo tiêu chí
Basel II.
 Nguyên tắc 1 - Mục đích, tính độc lập, quyền hạn, tính minh bạch và sự
hợp tác: tuân thủ một phần.
Hành lang pháp lý :
- Luật NHNN năm 2010 (Luật số 46/2010/QH12): quy định NHNN là một cơ
quan ngang Bộ; Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN là cơ quan

chịu trách nhiệm chính trong việc giám sát hoạt động ngân hàng.
- Quyết định 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam.
Hạn chế:
- Cơ quan giám sát ngân hàng cùng lúc chịu sự quản lý của nhiều cơ quan và
chịu chi phối của nhiều luật.
- Quyền hạn kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống ngân hàng cũng như kiểm tra
khi có nghi vấn về tính an toàn và bền vững của hệ thống cũng chưa được đảm bảo.
- Ngoài cơ quan giám sát chuyên ngành ngân hàng, các ngân hàng còn chịu
sự giám sát của các cơ quan giám sát chuyên ngành chứng khoán, bảo hiểm, bảo hiểm
tiền gửi;
- Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm trực thuộc các NHTM nhà
nước còn chịu giám sát bởi kiểm toán nhà nước và thanh tra nhà nước trong khi chưa
có các quy định về phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan giám sát
chuyên ngành, do vậy, chưa đảm bảo cho việc giám sát liên tục hoạt động ngân hàng.
Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc 1, cần phải:
- Đề xuất để đảm bảo vị thế độc lập của cơ quan giám sát chuyên ngành ngân
hàng;
-

Tránh xung đột về lợi ích khi thực hiện giám sát NHTM nhà nước bằng

cách không làm đại diện sở hữu vốn nhà nước trong các ngân hàng này mà chuyển vai
trò này sang Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước;
- Phân định rành mạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
của từng thành viên chính trong mạng an toàn tài chính quốc gia để tránh chồng chéo
hoặc bỏ trống trong hoạt động giám sát và tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ
quan trong mạng an toàn tài chính;
- Nâng cao chất lượng, số lượng nhân lực giám sát.

 Nguyên tắc 2 - Các hoạt động được phép: tuân thủ một phần.

18


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Điều 2 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 ( 07/1997/Q H X n gà y

12/12/1997 ) chỉ mới đề cập “hoạt động ngân hàng của tổ chức khác” mà chưa quy

định rõ tổ chức khác có đặc điểm như thế nào và những loại hình dịch vụ nào các tổ
chức khác được cung cấp và cũng chưa quy định cụ thể cách thức cấp giấy phép để
thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho các tổ chức khác.
- Quan trọng nhất, chưa có một danh sách chi tiết các hoạt động ngân hàng
được phép thực hiện: hiện tại, các ngân hàng chỉ thực hiện các dịch vụ được ghi trong
giấy phép thành lập và hoạt động, khi triển khai các dịch vụ mới phải xin phép
NHNN.
-

Ngoài ra, pháp luật về dịch vụ ngân hàng thiếu các quy định điều chỉnh một

số phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng như cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch
vụ ở nước ngoài, trong khi ngày nay, việc cung cấp dịch vụ ngân hàng qua mạng
internet khá phổ biến .
Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc 2, cần phải:
- Làm rõ hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác và quy định bất kỳ tổ
chức phi ngân hàng nào có thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đều phải xin phép và chịu
sự giám sát của NHNN;

- Xây dựng danh sách các nghiệp vụ mà ngân hàng cũng như các tổ chức
khác được phép cung cấp và bổ sung hàng năm;
- Cẩn trọng nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới
điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, sử dụng dịch vụ ở nước ngoài để đảm
bảo cho NHNN có thể thực hiện tốt vai trò thanh tra, giám sát của mình.
 Nguyên tắc 3 - Các tiêu chí cấp phép: tuân thủ một phần
- Thông tư 09/2010/TT-NHNN ngày 26/03/2010 quy định về giấy phép thành
lập và hoạt động NHTMCP đã tuân thủ hết các tiêu chí trên.
- Các ngân hàng chưa đạt được mức vốn pháp định tính đến thời điểm hiện
tại: BAOVIET Bank, PG Bank.
 Nguyên tắc 4 - Chuyển quyền sở hữu lớn: tuân thủ một phần
- NHNN đã ban hành Thông tư 06/2010/TT-NHNN ngày 26/2/2010 hướng
dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa
đổi giấy phép, điều lệ của NHTM.
 Nguyên tắc 5 - Giao dịch mua lại lớn: tuân thủ một phần
- Thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11/2/2010 của NHNN quy định việc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Quyết định số 13/2008/QĐ-NHNN ngày
29/4/2008 về mạng lưới hoạt động của NHTM đã quy định đầy đủ các nội dung của
nguyên tắc trê.

19


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Tính đến thời điểm hiện nay có hợp nhất 3 ngân hàng là SCB,

TinNghiaBank, Ficombank.
 Nguyên tắc 6 - An toàn vốn tối thiểu: tuân thủ một phần

- Luật số 20/2004/QH ngày 15/6/2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số
47/2010/QH12) đã quy định tỷ lệ an toàn vốn.
- Thông tư số 13/TT-NHNN ngày 20/5/2010 (có hiệu lực từ 01/10/2010) thay
thế Quyết định 457, hướng dẫn cụ thể việc tính toán tỷ lệ an toàn vốn, nâng tỷ lệ này
lên 9% thay vì 8% như trước đây và yêu cầu các TCTD duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng
lẻ và hợp nhất.
- Tỷ lệ an toàn vốn hiện thời vẫn chưa được tính theo tiêu chuẩn quốc tế, mà
chỉ dừng lại theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam, chỉ một vài ngân hàng thực hiện tính
toán chỉ số này theo 2 cách: Chỉ số CAR (%) theo VAS và Chỉ số CAR (%) theo IFRS
- NHNN cần tiếp tục nâng dần yêu cầu về tỷ lệ đủ vốn để đảm bảo an toàn
hoạt động khi ngày càng nhiều ngân hàng hoạt động theo hướng công ty mẹ, con và
nền kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam ngày càng mở, hoạt động ngân hàng ngày
càng trở nên rủi ro hơn và so với các nước trên thế giới, tỷ lệ này đã đạt được mức phổ
biến 12%.
 Nguyên tắc 7 - Quy trình quản trị rủi ro: tuân thủ một phần
- Quy định về đánh giá rủi ro đã được ban hành, quy định về hệ thống quản
trị rủi ro cũng đã có; tuy nhiên, NHNN chưa đảm bảo rằng các ngân hàng tuân thủ
việc xây dựng quy trình quản trị cũng như các mô hình quản trị có phù hợp với quy
mô và mức độ phức tạp của tổ chức vì phần lớn các ngân hàng chưa có hệ thống đánh
giá tín dụng nội bộ hoàn chỉnh, do vậy, rất khó để đánh giá rủi ro để từ đó trích lập dự
phòng cho tương xứng.
- Ngoài ra, một số văn bản mang tính hành chính của NHNN cũng ảnh hưởng
đến công tác đánh giá rủi ro của các NHTM như các yêu cầu hỗ trợ các giải pháp để
thực hiện chính sách tiền tệ như giảm lãi suất cho vay, giảm dư nợ bằng USD...
 Nguyên tắc 8 - Rủi ro tín dụng: tuân thủ một phần
- NHNN đã ban hành Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
và bổ sung bằng Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
TCTD.

-

Quyết định này đã ban hành 5 năm nhưng tới thời điểm này, chỉ mới có 3

ngân hàng đã trình và được NHNN chấp thuận cho áp dụng phân loại nợ định tính

20


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
theo quy định tại Điều 7, Quyết định 493 là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
- Hai nguyên nhân chính khiến các ngân hàng ngại thực hiện phân loại này là:
o Tăng tỷ lệ nợ xấu: nợ xấu của NHTMCP Ngoại thương sẽ tăng từ
2,47% trong năm 2009 lên 3,5% vào năm 2010 nếu áp dụng phân loại định tính từ
tháng 4/2010 hoặc tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ là
3,9% thay vì 1,56% theo cách tính định lượng;
o Phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ việc phân
loại nợ và quản lý chất lượng tín dụng.
- Như vậy, việc phân loại nợ chưa theo chuẩn kế toán quốc tế chưa cho các
cơ quan giám sát thấy hết thực chất của vấn đề rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng cũng
như mức độ cải thiện để có hướng quản trị cho phù hợp.
 Nguyên tắc 9 - Tài sản có rủi ro, dự phòng và dự trữ: tuân thủ một phần
- Ngân hàng đã có Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro trong Quyết định 493.
- Trên báo cáo kết quả kinh doanh đều cho thấy các khoản mục dự phòng, tuy
nhiên, chỉ có các dự phòng chính. Việc các ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro và xác
định đầy đủ mức dự phòng như yêu cầu cần phải có thêm thời gian để các ngân hàng
nhận thức tầm quan trọng của quản trị rủi ro, bổ sung nhân sự, công nghệ cho công tác
này.

 Nguyên tắc 10 - Giới hạn mức cho vay: tuân thủ một phần
- Điều 8, Thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về giới hạn cho vay, trong
đó có một số nội dung đáng lưu ý như: TCTD không được cấp tín dụng cho công ty
trực thuộc là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh chứng khoán; TCTD không được
cho vay không có bảo đảm để đầu tư, kinh doanh chứng khoán; tổng dư nợ cho vay và
chiết khấu giấy tờ có giá đối với tất cả khách hàng nhằm đầu tư, kinh doanh chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD.
- Các Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, Quyết định
127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/2/2005 về quy chế cho vay của TCTD đối với khách
hàng, Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005 cũng đã quy định đầy đủ
những giới hạn vay.
- Thực tế triển khai các văn bản trên còn không ít lỗ hổng, ảnh hưởng trực
tiếp đến rủi ro tín dụng của hệ thống NHTM: Chính sách cho vay hiện nay chưa hoàn
toàn theo nguyên tắc thị trường biểu hiện qua việc các NHTM, đặc biệt là NHTM có
cổ phần chi phối của Nhà nước thường hướng theo các chính sách cho vay như đánh
bắt xa bờ, mía đường, cà phê Arabica... mà số liệu thống kê lại cho thấy các chính

21


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
sách này không hiệu quả, dẫn đến rủi ro cao cho ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng
còn được NHNN cho phép cho vay vượt quá 15% vốn tự có như NHTMCP Đông
Nam Á cho vay đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn chế biến và kinh doanh sản
phẩm khí năm 2009; Ngân hàng liên doanh Việt Nga cho vay đối với Tổng Công ty
Xăng dầu Việt Nam; NHTMCP Ngoại thương Việt Nam cho vay đối với Tổng công ty
Lương thực miền Nam; NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam và NHTMCP Ngoại
thương Việt Nam cho vay đối với Tổng công ty Điện lực Việt Nam...
- Trong tương lai, thay vì xét duyệt cho vay theo dự án với mức vốn vượt quá
15% vốn tự có của ngân hàng, NHNN nên khuyến khích các NHTM thực hiện nghiệp

vụ cho vay hợp vốn.
 Nguyên tắc 11 - Rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan: tuân thủ một
phần
- Điều 7, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 đã quy định về xác
định nhóm khách hàng có liên quan và việc xác định nhóm khách hàng liên quan sẽ do
các ngân hàng tự xác định và báo cáo cho NHNN.
- Trên thực tế, phần lớn các ngân hàng tuân thủ nguyên tắc này, tuy nhiên,
vẫn còn một số ngân hàng đã vì lợi nhuận mà bỏ qua các nguyên tắc quản trị rủi ro,
dẫn đến việc cho vay các nhóm khách hàng có liên quan vượt hạn mức quy định.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng có xu hướng cho các thành viên của cùng tập đoàn nhà
nước vay với dư nợ lớn hoặc cho vay cùng nhóm khách hàng kinh doanh bất động sản,
kinh doanh chứng khoán với mức dư nợ cao.
 Nguyên tắc 12 - Rủi ro quốc gia và rủi ro chuyển đổi: chưa tuân thủ
- Việt Nam chưa có công cụ hiệu quả để đo lường và giám sát rủi ro quốc gia
và rủi ro chuyển đổi.
 Nguyên tắc 13, 14, 15, 16 - Rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro tác
nghiệp, rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng: tuân thủ một phần
- Hành lang pháp lý:
o NHNN đã ban hành Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về
Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD
o Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về Quy chế kiểm toán
nội bộ của TCTD.
o NHNN cũng ban hành các văn bản quy định về các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của TCTD gồm:
 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tiền gửi được NHNN thay đổi
thường xuyên tùy từng thời kỳ cụ thể theo thời hạn, loại tiền, loại
ngân hàng

22



GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
 Giới hạn tín dụng được quy định trong Điều 8, Thông tư
13/2010/TT-NHNN
 Tỷ lệ khả năng chi trả (thanh khoản) quy định trong Điều 12,
Thông tư 13/2010/TT-NHNN
 Tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần quy định trong Điều 11,
Thông tư 13/2010/TT-NHNN
 Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động quy định trong
Điều 18, Thông tư 13/2010/TT-NHNN
 Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay
trung hạn và dài hạn được quy định trong Thông tư số

-

15/2009/TT-NHNN
 Tỷ lệ đủ vốn đã đề cập ở trên.
NHNN giám sát việc tuân thủ các tỷ lệ an toàn và trao quyền cho các NHTM
xây dựng chính sách, quy trình quản lý rủi ro và trình lên NHNN.

Để đảm bảo các nguyên tắc liên quan đến quản trị rủi ro, NHNN cần:
-

Xây dựng các tiêu chí để đánh giá được các chính sách và quy trình quản lý

rủi ro do các NHTM xây dựng phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp của từng
NHTM;
- Từng bước chuẩn hóa các quy trình nhằm nhận dạng, đo lường và kiểm tra,
kiểm soát rủi ro các loại rủi ro;
- Xem xét lại một số tỷ lệ quy định như tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn

cho vay dài hạn, tỷ lệ khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu
tư, kinh doanh chứng khoán, tiến tới việc giao cho các NHTM quản lý tỷ lệ này tùy
theo đặc thù kinh doanh, quy mô, cấu trúc, kỳ hạn, tính ổn định và thanh khoản của
nguồn vốn của mỗi ngân hàng. Lúc này, NHNN sẽ giám sát dựa trên việc tuân thủ quy
chế tín dụng và các chi tiêu an toàn khác;
- NHNN cần có những quy định buộc các NHTM chú trọng quản trị rủi ro,
đặc biệt là rủi ro thanh khoản và có biện pháp chế tài buộc tuân thủ các quy định này.
 Nguyên tắc 17- Kiểm tra và kiểm toán nội bộ: tuân thủ một phần
-

NHNN đã ban hành Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 về

Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD và Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN
ngày 01/8/2006 về Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD.
- Kết quả kiểm toán, kiểm soát nội bộ mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất
định nhưng ít nhiều cũng hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro.
- Để đảm bảo tính khách quan và khẳng định tính quan trọng của kiểm soát
nội bộ cần bắt buộc các TCTD phải thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ chuyên trách

23


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
thay vì để các TCTD tự quyết định; bộ phận kiểm soát nội bộ chịu sự điều hành của
Hội đồng Quản trị thay vì Tổng giám đốc. Ngoài ra, NHNN cũng cần quy định các
tiêu chuẩn đối với kiểm soát viên và kiểm toán viên nội bộ.
 Nguyên tắc 18 - Lạm dụng các dịch vụ tài chính: tuân thủ một phần
NHNN đã xây dựng một loạt các văn bản liên quan đến phòng chống rửa tiền
như :
-


Quyết định 1654/QĐ-NHNN ngày 14/7/2009 về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống rửa tiền do Thống đốc NHNN
Việt Nam ban hành;
- Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/7/2005 của Thống đốc NHNN Việt
Nam về thành lập Trung tâm thông tin chống rửa tiền thuộc NHNN;
- Thông tư số 22/2009/TT-NHNN của NHNN hướng dẫn thực hiện các biện
pháp phòng, chống rửa tiền và một số văn bản khác liên quan đến thanh toán không
dùng tiền mặt.
 Nguyên tắc 19 - Phương pháp giám sát: tuân thủ một phần
-

Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã xây dựng các tiêu chí đánh giá

ngân hàng theo tiêu chuẩn CAMELS và từng bước triển khai áp dụng phương pháp
thanh tra trên cơ sở rủi ro theo thông lệ quốc tế và đã tiến hành thanh tra thử nghiệm
theo phương pháp này tại một số TCTD và đạt được những kết quả bước đầu khá khả
quan. Tuy nhiên, sự thay đổi trong cơ chế vận hành hoạt động giám sát ngân hàng
cũng như hành lang pháp lý chưa đáp ứng được.
- Để đáp ứng đòi hỏi của nguyên tắc 19 - Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân
hàng cần phải:
o xây dựng các quy định riêng cho các loại hình ngân hàng cũng như phi
ngân hàng về các nghiệp vụ cụ thể mà từng đối tượng này được thực
hiện;
o Đào tạo nhân lực thanh tra giám sát am hiểu sâu về quản trị rủi ro, về tập
đoàn ngân hàng, về sản phẩm liên kết;
o Có sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành về cách thức
giám sát cụ thể, đặc biệt chú trọng lĩnh vực hoạt động chính của các tập
đoàn ngân hàng.

 Nguyên tắc 20 - Kỹ thuật giám sát: tuân thủ một phần

24


GVHD: PGS. Vũ Thị Minh Hằng
-

Hiện tại, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng mới chỉ thực hiện thanh

tra, giám sát tại chỗ trên diện rộng, buộc các ngân hàng tuân thủ các quy định về tỷ lệ
an toàn.
- Hoạt động giám sát từ xa còn là một điểm yếu : chỉ thể hiện qua nhiều chỉ
thị yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm chỉnh các biện pháp kiểm soát nhằm đảm bảo
an toàn, như Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN ngày 23/5/2006 về việc tăng cường các
biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các TCTD, Chỉ
thị số 03/2007/CT-NHNN về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay
đầu tư, kinh doanh chứng khoán, công văn số 5137/NHNN-TT ngày 08/7/2010 gửi
các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nhằm xử lý, ngăn chặn thanh toán cho cá độ
quốc tế …..
 Nguyên tắc 21 - Thông tin giám sát: tuân thủ một phần
-

Quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN ngày 28/4/2004 của Thống đốc NHNN

về việc ban hành Chế độ Báo cáo thống kê áp dụng cho các đơn vị thuộc NHNN và
các TCTD và Quyết định số 1747/2005/QĐ-NHNN ngày 01/12/2005 về việc sửa đổi
bổ sung một số điều của Quyết định số 477.
- Việc thực hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, hệ thống và chưa đảm bảo chất
lượng. Các cơ quan quản lý thường không chủ động khiến cho các NHTM mất khá

nhiều thời gian cho việc lập báo cáo dẫn đến các ngân hàng chỉ báo cáo mang tính đối
phó chứ không chú trọng đến chất lượng báo cáo.
- Giải pháp đưa ra là: Rà soát lại công tác báo cáo thống kê, giảm các bảng
biểu để tránh trùng lắp, tăng tính minh bạch và chất lượng các báo cáo từ đó thực hiện
tổng hợp, thống kê lưu trữ.
 Nguyên tắc 22 - Kế toán và công bố công khai: tuân thủ một phần
-

Ngày 02/2/2005, NHNN ban hành Quyết định số 121/2005/QĐ-NHNN về

Quy chế kiểm toán độc lập đối với các TCTD; ngày 18/4/2007, Thống đốc NHNN ban
hành Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN về việc ban hành Chế độ Báo cáo tài chính
áp dụng đối với các TCTD, Quy định về việc công bố công khai báo cáo tài chính của
NHTMCP ban hành kèm theo Quyết định số 1407/2004/QĐ-NHNN ngày 1/11/2004
của NHNN (sau đó bổ sung bằng Quyết định 09/2006/QĐ-NHNN ngày 20/02/2006).
- Hạn chế: công bố không đúng mẫu, công bố trễ hạn, hoặc có sai sót mặc dù
đã có kiểm toán hoặc số liệu không khớp giữa các báo cáo, không tập trung vế một
nguồn báo cáo duy nhất. Vấn đề lớn nhất trong việc tuân thủ nguyên tắc này là sự
không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc

25


×