Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thực trạng và xu hướng phát triển của loại hình kinh doanh siêu thị trung tâm thương mại tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.56 KB, 37 trang )

Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

Tiểu luận
Thực trạng và xu hướng phát triển của
loại hình kinh doanh siêu thị - trung
tâm thương mại tại Việt Nam hiện nay

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

Lời mở đầu

Trong điều kiện xã hội của Việt Nam hiện nay, khi mà nền kinh tế ngày càng được
phát triển; đời sống của người dân thì ngày càng được cải thiện tốt hơn.Cùng với đó là sự
phát triển nhu cầu tiêu dùng của người dân cả về mặt số lượng và chất lượng. Khi quan
niệm tiêu dùng hàng hóa của người dân có sự thay đổi thì kéo theo đó là sự thay đổi của
các loại hình kinh doanh trên thị trường bán lẻ.
Như chúng ta đã biết, các loại hình kinh doanh bán lẻ truyền thống luôn có tỷ trọng
rất lớn trên thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Tuy nhiên cùng với sự thay đổi của quan
niệm tiêu dùng hàng hóa của người dân mà một loại hình kinh doanh bán lẻ khác đang rất
được phổ biến và phát triển đó chính là loại hình kinh doanh siêu thị - trung tâm thương
mại.
Trong những năm gần đây, loại hình kinh doanh siêu thị - trung tâm thương mại dần
chiếm lĩnh tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng cao trong thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Để
làm rõ điều này, nhóm chúng em xin được tìm hiểu và trình bày đề tài “ thực trạng và xu


hướng phát triển của loại hình kinh doanh siêu thị - trung tâm thương mại tại Việt Nam
hiện nay”, với ba phần: Lý luận chung, thực trạng tình hình kinh doanh siêu thị, trung
tâm thương mại và xu hướng phát triển trong tương lai.

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

1.LÝ LUẬN CHUNG
1

.1

Khái niệm
1.1.1. Siêu thị.

"Siêu thị" là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - "supermarket" (tiếng
Anh) hay “supermarché” (tiếng Pháp) trong đó "super" nghĩa là "siêu" và "market" là
"chợ". Siêu thị ra đời đầu tiên năm 1930 ở Mỹ đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực
bán lẻ của cuộc sống hiện đại với những ưu thế vượt trội của mình.Ngày nay, siêu thị có
nhiều định nghĩa khác nhau tùy từng quốc gia.
- Tại Mỹ, “ siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhu cầu
tieu dùng phổ biến của người dân như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại
vật dụng cần thiết khác”.
-Tại Anh, siêu thị được định nghĩa là cửa hàng bách hóa bán thực phẩm, đồ uống và
các loại hàng hóa khác, có diện tích từ 4.000 đến 25.000 bộ vuông.
-Tại Pháp, siêu thị là “cửa hàng bán lẻ tự phục vụ có diện tích từ 400 đến 2500 chủ

yếu là hàng thực phẩm và vận dụng gia đình…”.
Tóm lại, với nhiều định nghĩa khác nhau nhưng vẫn có thể nhìn ra siêu thị với
những dấu hiệu như: dạng cửa hàng bán lẻ; áp dụng phương thức tự phục vụ; hàng hóa
tiêu dùng phổ biến. Và ở Việt Nam, siêu thị đã được định nghĩa một cách cụ thể hóa trong
“quy chế siêu thị, trung tâm thương mại” được ban hành ngày 24/09/2004 như sau:
“Siêu thị là loại hình cửa hàng hiện đại; kinh doanh tồng hợp hoặc chuyên doanh; có
cơ cấu chủng loại hàng hoá phong phú, đa dạng, bảo đảm chất lượng; đáp ứng các tiêu
chẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có
các phương thức phục vụ văn minh, thuận tiện nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng
hóa của khách hàng”.
Trong hệ thống phân phối hàng tiêu dùng hiện đại, siêu thị là một dạng cửa hàng
bán lẻ thuộc mắt xích trung gian gần người tiêu dùng nhất. Tuy nhiên, khi nói về siêu thị,
người ta thường hiểu theo góc độcách thức tổ chức của hệ thống cửa hàng theo phương
thức hiện đại để phân biệt với các cửa hàng truyền thống. Theo đó thì hệ thống siêu thị

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

bao hàm tất cả các dạng cửa hàng bán lẻ hiện đại, từ cửa hàng tự chọn nhỏ, cửa hàng tiện
lợi, siêu thị, cửa hàng bách hóa, cửa hàng đại hạ giá, trung tâm thương mại…
Ngoài ra ta còn có một số thuật ngữ khác như:
- Chuỗi siêu thị: là một tập hợp các siêu thị của một nhà phân phối được đặt ở các
địa điểm khác nhau nhưng áp dụng phương thức kinh doanh thống nhất.
- Hệ thống siêu thị: hệ thống siêu thị ngày nay để chỉ mạng lưới cửa hàng bán lẻ hợp
nhất( integrated) áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ( Self- services) các hàng hóa
tiêu dùng phổ biến của người dân.

1.1.2 Trung tâm thương mại.
Theo quy chế nêu trên:
“Trung tâm thương mại là loại hình tổ chức kinh doanh thương mại hiện đại, đa
chức năng, bao gồm tổ hợp các loại hình cửa hàng, cơ sở hoạt động dịch vụ; hội trường,
phòng họp, văn phòng cho thuê…được bố chí tập trung, liên hoàn trong một hoặc một số
công trình kiến trúc liền kề; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ
thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có các phương thức phục vụ văn minh,
thuận tiện đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động kinh doanh thương nhân vầ thoả mãn nhu
cầu về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng”. (Trung tâm thương mại thường được xây
dựng trên diện tích lớn, tại vị trí trung tâm đô thị để tiện lợi cho khách hàng và đảm bảo
doanh thu.)
1.2

Tiêu chuẩn phân loại

1.2.1 Siêu thị
+ Siêu thị hạng I
• Ngoài các tiêu chuẩn về kiến trúc hiện đại, kho hàng, kỹ thuật bảo quản, khu vệ sinh, khu
giải trí, các siêu thị kinh doanh tổng hợp phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Có diện tích kinh doanh từ 5.000m2 trở lên;
- Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên;
• Đối với siêu thị chuyên doanh, tiêu chuẩn cơ bản là:

1


Môn: Quản trị bán lẻ





-

nhóm 8

Diện tích từ 1.000m2 trở lên;
Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 2.000 tên hàng trở lên
+ Siêu thị hạng II
Siêu thị kinh doanh tổng hợp phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
Có diện tích kinh doanh từ 2.000m2 trở lên;
Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên;
Đối với siêu thị chuyên doanh, tiêu chuẩn cơ bản là:
Diện tích từ 500m2 trở lên;
Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 1.000 tên hàng trở lên
+ Siêu thị hạng III
Siêu thị kinh doanh tổng hợp phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
Có diện tích kinh doanh từ 500m2 trở lên;
Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 4.000 tên hàng trở lên;
Đối với siêu thị chuyên doanh, tiêu chuẩn cơ bản là:
Diện tích từ 250m2 trở lên (như siêu thị tổng hợp);
Có Danh mục hàng hoá kinh doanh từ 500 tên hàng trở lên
1.2.2
Trung tâm thương mại
+ Trung tâm thương mại hạng I
-Ngoài các tiêu chuẩn về kiến trúc hiện đại, kho hàng, kỹ thuật bảo quản, khu vệ
sinh, khu giải trí, các Trung tâm thương mại hạng I phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản
sau:
-Có diện tích kinh doanh từ 50.000m2 trở lên;
- Hoạt động đa chức năng cả về kinh doanh hàng hoá và kinh doanh các loại hình
dịch vụ bao gồm: khu vực để bố trí các cửa hàng bán buôn, bán lẻ hàng hoá; nhà hàng

khách sạn; khu vực để tổ chức hội chợ triển lãm, trưng bày giới thiệu hàng hoá; khu vực
dành cho hoạt động vui chơi giải trí, cho thuê văn phòng làm việc, hội trường, phòng họp
để tổ chức các hội nghị, hội thảo, giao dịch và ký kết các hợp đồng thương mại trong,
ngoài nước; khu vực dành cho các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính
viễn thông, tin học, tư vấn, môi giới đầu tư, du lịch.
+ Trung tâm thương mại hạng II
-Phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
-Có diện tích kinh doanh từ 30.000m2 trở lên;
-Hoạt động đa chức năng cả về kinh doanh hàng hoá và kinh doanh các loại hình
dịch vụ, tương tự như Trung tâm thương mại hạng I, trừ yêu cầu về khu vực để tổ
chức hội chợ triển lãm
+ Trung tâm thương mại hạng III
-Phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
-Có diện tích kinh doanh từ 10.000m2 trở lên;
1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

-Hoạt động đa chức năng về kinh doanh hàng hoá và kinh doanh các loại hình dịch
vụ, tương tự như Trung tâm thương mại hạng II, trừ yêu cầu về khu vực phục vụ các hoạt
động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, tin học; không yêu cầu các
dịch vụ nhà hàng khách sạn, thay vào đó là khu vực dành cho hoạt động ăn uống quy mô
nhỏ hơn.

1.3.Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh tại Siêu thị, Trung tâm thương mại
1.3.1 Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh tại Siêu thị, Trung tâm thương mại phải bảo
đảm đúng các quy định của pháp luật và thực hiện những yêu cầu cụ thể sau đây:

1.3.1.1. Có tên thương mại riêng hoặc tên thương mại của Siêu thị hoặc Trung tâm
thương mại (nếu hàng hoá, dịch vụ không có tên thương mại riêng phải có tên hàng hoá,
dịch vụ) và phải ghi rõ xuất xứ của hàng hoá theo quy quy định của pháp luật.
1.3.1.2. Có mã số, mã vạch đối với những loại hàng hoá có thể đăng ký má số, mã
vạch để thuận tiện cho công tác quản lý của Siêu thị, Trung tâm thương mại và giám sát
của khách hàng.
1.3.1.3. Đối với hàng hoá và thực phẩm phải được đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh,
an toàn thực phẩm và ghi rõ thời hạn sử dụng ghi rõ trên bao bì đóng gói. Nếu là nông
sản, thực phẩm ở dưới dạng sơ chế không có bao bì đóng gói sẵn thì phải qua chọn lọc,
phân loại, ghi rõ xuất xứ, chất lượng và thời hạn sử dụng tại giá hàng, quầy hàng.
1.3.1.4. Tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ kinh doanh tại Siêu thị, Trung tâm thương
mại phải có giá bán được niêm yết tại giá hàng, giá hàng, điểm kinh doanh dịch vụ.
1.3.1.5. Hàng hoá có bảo hành phải gi rõ địa điểm và thời hạn bảo hành.
1.3.1.6. Nguồn hàng được tổ chức cung ứng ổn định và thường xuyên thông qua đơn
hàng được hợp đồng với các nhà sản xuất kinh doanh.
1.3.2 Không được kinh doanh tại Siêu thị, Trung tâm thương mại các loại hàng hoá,
dịch vụ sau đây:
1.3.2.1. Hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục cấm kinh doanh theo quy định của pháp
luật, hàng lậu, hàng giá, hàng không xuất xứ, hàng qua hạn sử dụng và hàng không đảm

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

bảo chất lượng thưo quy định của pháp luật (như hàng mất phẩm chất, hàng kém chất
lượng, hàng nhiễm độc và động thực vật bị dịch hại…)
1.3.2.2. Hàng hoá không đúng quy cách về nhãn hàng hoá, về tem thuế hàng hoá

nhập khẩu và tem thuế hàng hoá tiêu thụ đặc biệt.
1.3.2.3. Hàng hoá có chứa chất phóng xạ hoặc thiết bị phát bức xạ i-on hoá mức độ
cho phép quy định.
1.3.2.4. Các loại vật liệu nổ; các loại chất lỏng, chất khí dễ gây cháy nổ (như xăng
dầu, gas, khí nén…)
1.3.2.5. Các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn chế kinh
doanh theo quy định của pháp luật.
1.3.2.6. Hàng hoá có có chứa hoá chất độc hại thuộc danh mục hạn chế kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
1.4. Đặc trưng cơ bản của siêu thị, trung tâm thương mại.
1.4.1 Siêu thị
Cùng với việc đóng vai trò là cửa hàng bán lẻ, siêu thị có một số đặc trưng nổi bật
như:
+ Kiểu công nghệ bán lẻ: ở trong siêu thị chủ yếu sử dụng phương thức tự phục vụ,
khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc xe đẩy đem đi và thanh toán tại
quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán không có mặt trong quá trình mua hàng.Tuy
nhiên đối với một số mặt hàng mang tính kỹ thuật cao như hàng điện tử gia dụng, công
nghệ bán lẻ tự chọn lại là lựa chọn thích hợp hơn vì khách hàng đối tượng ở đây có nhu
cầu cần tư vấn cao hơn.
+ nghệ thuật trưng bày hàng hóa: Nghiên cứu của Ogilvy Action trên 6.000 người
tiêu dùng tại Mỹ được công bố vào tháng 11/2008 cho thấy, việc trưng bày bên trong cửa
hàng có hiệu quả hơn cả giảm giá. Trong 29% người mua hàng một cách ngẫu nhiên, có
đến 18% cho biết họ bị ảnh hưởng bởi sự trưng bày trong cửa hàng, 24% bị ảnh hưởng
bởi việc trưng bày bên ngoài các dãy kệ trưng bày hàng hóa thông thường và chỉ 17% là
bị ảnh hưởng bởi khuyến mãi, giảm giá. Trong 39% người mua hàng có ý định từ trước

1


Môn: Quản trị bán lẻ


nhóm 8

nhưng quyết định chọn thương hiệu tại cửa hiệu, có 31% bị ảnh hưởng bởi việc trưng bày
trong cửa hàng, chỉ 28% bị ảnh hưởng bởi khuyến mãi và giảm giá và 27% bởi những
hình thức khuyến mãi khác.Đối với một nhà phân phối bán lẻ, gian trưng bày hàng hoá
chính là bộ mặt và là ấn tượng ban đầu của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng. Đây
cũng là cách thức cạnh tranh đơn giản và dễ ứng dụng nhất mà bạn có thể thực hiện ngay.
Ở các nước phát triển, hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại được trưng bày hết sức
nghệ thuật, it chi tiết trang trí nhưng hoàn toàn có thể có nhiều tác dụng hơn khi tạo được
ấn tượng đối với khách hàng.
-Tập trung vào sản phẩm: Cũng giống như quảng cáo truyền hình, trưng bày tại cửa
hàng cũng dễ khiến khách hàng nhớ đến hình ảnh trưng bày nhiều hơn những ấn tượng về
sản phẩm, sản phẩm được làm nổi bật nhất để thu hút được sự chú ý của khách hàng.
-Làm nổi sản phẩm nhờ ánh sáng: ngay cả khi gian trưng bày chỉ ở trong một góc
nhỏ của cửa hàng, sản phẩm có khi được rọi nhiều ánh sáng nhất. Gian trưng bày chú
trọng vào hình ảnh/ nhãn hiệu hơn sản phẩm có ánh sáng được bố trí hài hoà.
-Xếp các sản phẩm thành các dãy hoặc khối: Gây sự chú ý của người mua hàng
bằng cách sắp xếp hài hoà các sản phẩm trong gian trưng bày theo độ cao hoặc chiều sâu
khác nhau để tạo được một tổng thể bắt mắt.
-Mô hình chung cho chuỗi hệ thống các cửa hàng: Điều quan trọng của sự khác biệt
đó là khi bạn ở một cửa hàng của hệ thống cũng giống như bạn đang đứng ở một trong số
các cửa hàng còn lại. Một tập đoàn bán lẻ cần tìm kiếm một mô hình riêng biệt để nguời
mua tự cảm nhận sự riêng biệt đó, mà không thể đánh đồng vào bất cứ một hệ thống nào
đang có mặt trên thị trường. Siêu thị đã và đang là thói quen tiêu dùng văn minh của
người Việt, và đang dần biến thói quen trở thành một nét văn hoá mới, ví dụ như Big C,
Co.op Mart...

1



Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

Trưng bày tại cửa hàng có ba dạng cơ bản: bên cạnh quầy thu tiền, trong các quầy
kệ và trưng bày trên sàn. Dạng nào cũng phải đảm bảo hai yếu tố vừa lôi cuốn người mua
vừa cung cấp đủ thông tin để đảm bảo việc mua hàng.
-Thu hút:Ở bên trong siêu thị, một sản phẩm chỉ có vài giây để thu hút sự chú ý của
người mua. Do đó, yếu tố quan trọng hàng đầu trong trưng bày là sản phẩm phải được
nhìn thấy dễ dàng. Muốn vậy thì trước tiên phải chọn đúng vị trí.Cho dù bao bì có bắt mắt
đi chăng nữa nhưng nếu để sai vị trí, sản phẩm cũng không có khả năng được nhìn thấy.
Vị trí lý tưởng là ngang tầm mắt của người tiêu dùng, trong khoảng 0.8m – 1.2mtheo
hướng nhìn xuống hoặc kệ thứ ba tính từ dưới lên. Ngoại trừ sản phẩm của một thương
hiệu thuộc dạng best selling, người mua hàng sẽ không tự nhiên tìm kiếm những sản
phẩm ở tận trên đỉnh hoặc dưới đáy của một quầy hàng.
Để tạo được hiệu quả trong việc tác động tới hành vi mua hàng, việc trưng bày còn
phải phù hợp với hành vi mua sắm, tạo ra sự tượng tác cao độ giữa người mua với sản
phẩm. Ví dụ như người tiêu dùng có khuynh hướng tìm kiếm thông tin trên bao bì sản
phẩm nên phải làm nổi bật thông tin khi trưng bày để lôi cuốn người mua hàng. Hay
người ta thường chú ý đến những hàng hóa chủ yếu nên có thể sử dụng bao bì như một
tấm biển chỉ đường... Chọn vị trí cho phù hợp với ngành hàng cũng là một yếu tố.Ví dụ,
sản phẩm ngành thực phẩm nên để cạnh ngành hàng nước giải khát, sản phẩm chăm sóc
tóc để gần hàng mỹ phẩm hoặc chăm sóc cá nhân... vì người ta thường có khuynh hướng
mua kèm những sản phẩm có liên quan dù không có ý định trước.
+ Diện tích mặt bằng: theo quy chế, siêu thị là hình thức kinh doanh lớn có diện tích
tối thiểu là 500m2 đối với tổng hợp và 250m2 đối với chuyên doanh. Điều này giúp hạn
chế việc đặt tên cho một cửa hàng là siêu thị một cách tùy tiện, đồng thời người tiêu dùng
cũng có thể dễ dàng thấy được siêu thị là một dạng cửa hàng bán lẻ quy mô lớn.
+ Hàng hóa: siêu thị mở ra có mục đích chủ yếu là đáp ứng được phần lớn nhu cầu

của khách hàng trong một lần đi mua sắm. Vì vây, hàng hóa trong siêu thị thường là
những mặt hàng phổ thông và thiết yếu từ lương thực, thực phẩm, quần áo, giày dép tới
1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

hàng điện tử gia dụng… Đặc điểm của các mặt hàng này đều là hàng tiêu chuẩn hóa, giá
cả phải chăng, chất lượng trung bình, ghi rõ nguồn gốc xuất xứ,thời hạn sử dung….
Ngoài ra, tập hợp hàng hóa tối thiểu trong một siêu thị cần đạt số lượng khoảng 4000,
giúp cho việc phân loại và quản lý hệ thống phân phối bán lẻ trở nên dễ dàng hơn.
1.4.2 Trung tâm thương mại.
+ Công nghệ bán lẻ: đi theo hình thức kinh doanh tổng hợp, trung tâm thương mại
phục vụ khách hàng bằng nhiều kiểu công nghệ bán lẻ khác nhau như tự phục vụ, tự chọn
hay theo mẫu.
+ Nghệ thuật trưng bày: ngoài việc trưng bày hàng hóa bày bán như ở siêu thị, trung
tâm thương mại còn phải quan tâm tới việc sắp xếp sao cho phù hợp nhiều khu vực khác
như nhà hàng, khách sạn, khu vực vui chơi giải trí, khu vực cho các hoạt động tài chính,
ngân hàng và nhiều khu vực cung cấp dịch vụ khác.
+ Diện tích mặt bằng: trong khi diện tích tối thiểu của một siêu thị tổng hợp hạng III
là 500m2 thì diện tích tối thiểu mà một trung tâm thương mại hạng III cần có là
10.000m2. Điều đó cho thấy quy mô của trug tâm thương mại lớn hơn rất nhiều so với
cửa hàng tạp phẩm, chợ hay cả siêu thị.
+ Hàng hóa, dịch vụ: trong khi siêu thị chỉ bao gồm các cửa hàng hiện đại; kinh
doanh tồng hợp hoặc chuyên doanh,nhưngmột trung tâm thương mại không chỉ có thể
bao gồm một siêu thị mà còn bao gồm các cơ sở hoạt động dịch vụ; hội trường, phòng
họp, văn phòng cho thuê, nhà hàng khách sạn, hội chợ triển lãm...Vì vậy, hàng hóa ở các
trung tâm thương mại, cũng như các siêu thị, rất đa dạng và được chọn lọc kĩ hơn so với

trong chợ hay cửa hàng tạp phẩm.Tuy nhiên, khác với siêu thị, trung tâm thương mại
thường kinh doanh tổng hợp các mặt hàng, không có các trung tâm thương mại chuyên
doanh vì quy mô lớn hơn nhiều so với siêu thị.

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực trạng kinh doanh của siêu thị, trung tâm thương mại
2.1

Số lượng, quy mô, hình thức tổ chức
2.1.1 số lượng.
+ Siêu thị:



Thời kỳ 1993 - 1994: Những siêu thị bắt đầu ra đời tại thành phố Hồ Chí Minh,
đầu tiên là khi công ty xuất nhập khẩu nông sản và tiểu thủ công nghiệp Vũng Tàu khai

trương Minimart vào tháng 3/1993.



Thời kỳ 1995 - 1997: Trong thời kỳ này bắt đầu có sự xuất hiện của các siêu thị ở
Hà Nội( siêu thị thuộc trung tâm thương mại số 7-9 Đinh Tiên Hoàng vào tháng 01/1995
và Minimart Hà Nội tầng 2- chợ Hôm vào 03/1995) và mở rộng ra các thành phố lớn trên
cả nước. Tính đến 1995, cả nước có tất cả 10 siêu thị nằm rải rác trên 6 tỉnh thành.



Đến 2005, số lượng siêu thị đạt chuẩn trên cả nước đã đạt tới con số là 178, gấp 17.8 lần



so với cách đây 10 năm, trải dài trên 32 tỉnh thành.
Năm 2011, theo số liệu thống kê của Bộ Thương Mại, cả nước có 638 siêu thị, gần bằng
3.6 lần năm 2005, hơn nữa còn trải dài trên khoảng 59 tỉnh thành.
+ trung tâm thương mại:
Từ lúc chỉ có một vài trung tâm thương mại (TTTM) sang trọng và đẳng cấp trên cả
nước, đến nay người dân đã có vô số địa chỉ để lựa chọn.Sự gia tăng về số lượng và đa
dạng về chủng loại đã khiến loại hình kinh doanh TTTM thực sự bước vào một cuộc chạy
đua đầy kịch tính. Chưa bao giờ chúng ta thấy sự phát triển chóng mặt của các trung tâm
thương mại như thờ gian vừa qua. Chỉ trong vòng vài năm đã có gần 100 trung tâm
thương mại được mọc lên với quy mô về mặt bằng lớn,vị trí thuận tiện, sự đẳng cấp về
không gian- kiến trúc, hàng hóa dồi dào, dịch vụ đa dạng, giá cả hợp lý, ưu đãi hấp dẫn,
phục vụ tận tình, hậu mãi chu đáo, tao phong cách mua sắm sang trọng, thanh lịch và
đẳng cấp. Không chỉ là nơi hội tụ của những nhãn hàng cao cấp trong nước và quốc tế,

1



Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

khối siêu thị rộng lớn, chuỗi nhà hàng ẩm thực, cafe sang trọng , mà còn có sự xuất hiện
của những quần thể vui chơi giải trí quy mô và hiện đại như: Công viên nước, Sân trượt
băng trong nhà, Thủy cung, Rạp chiếu phim, World Games... - nơi tạo ra sân chơi và thư
giãn cho giới trẻ.
Mới đây, Parkson đã tuyên bố kế hoạch tiếp tục mở thêm 3-4 trung tâm mới tại Hà
Nội, Lotte cũng đang gấp rút để mở trung tâm 65 tầng với tổng vốn dự án lên tới 400
triệu USD, Vincom cũng đã tạo thêm sức ép bằng Times City và mới đây nhất là Vincom
Mega Mall Royal City với diện tích khủng trên 230.000m2 và đến thời điểm này, tỷ lệ lấp
đầy đã lên tới hơn 80%.
Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay, sức mua của người dân
yếu, ngoại trừ các TTTM ở khu vực trung tâm và đã có thâm niên như Vincom, Parkson,
không ít TTTM ở ngoại vi thành phố lâm vào tình cảnh ế ẩm, không có khách mua, nhiều
gian hàng cho thuê bị bỏ trống. Một trong những TTTM được mệnh danh là “thiên
đường mua sắm” Grand Plaza cũng phải tạm thời đóng của. Điều đó cho thấy một điều
rằng, TTTM dù vần là một mô hình kinh doanh thương mại đang phát triển và rất tiềm
năng ơ Việt Nam nhưng nó cung tiềm ẩn khá nhiều rủi ro, và cạnh tranh cao.

Năm

Siêu thị

Trung tâm thương mại

Địa phương

CẢ NƯỚC
Hà Nội
Quảng Ninh
Nghệ An
Quảng Bình
Đà Nẵng
Khánh Hoà
Bình Dương
TP.Hồ Chí Minh

2008
386
59
8
10
2
21
13
12
82

2009
451
78
8
10
3
24
13
17

87

2010
571
74
11
22
4
23
16
13
142

2011
638
88
14
28
16
29
22
10
152

2008
72
11
2
4
3

2
..
5
18

2009
85
13
2
4
3
2
..
5
21

2010
101
18
3
4
2
4
..
5
24

2011
116
20

4
4
1
6
1
7
27

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

Bảng: số lượng siêu thị, trung tâm thương mại có đến 31/12/2012 một số địa
phương phân theo năm.( theo số liệu của Tổng cục Thống kê)

2.1.2quy mô.

CẢ NƯỚC
Hạng 1
Hạng 2
Hạng 3

2005
178
28
31
119


2008
386
81
92
213

2009
451
84
90
277

2010
571
110
148
313

2011
638
117
168
353

Bảng: Phân loại siêu thị tới 31/12/2012 theo tiêu chuẩn phân hạng của Quy chế siêu
thị , TTTM (theo số liệu của Tổng cục Thống kê)


Hiện nay, các hệ thống siêu thị trong nước đều nhắm đến điểm chung: liên tục mở

điểm bán ở các khu vực kinh tế đang phát triển, khu đô thị mới, khu chung cư. Đi cùng
với số lượng, quy mô hàng hoá và diện tích các siêu thị bán lẻ cũng tăng theo. Diện tích
khu tự chọn ở các siêu thị hiện nay đã lên đến 2.000 - 3.000m2, tổng số các mặt hàng
kinh doanh tăng khoảng 3.000 - 10.000 mặt hàng/siêu thị. Ở Co.opmart, bình quân mỗi
siêu thị mới có từ 25.000 - 30.000 mặt hàng, ở Vinatexmart là 40.000 mặt hàng, ở
Citimart cũng là 30.000 mặt hàng…



Năm 2005, đối chiếu với quy chuẩn phân hạng siêu thị, Việt Nam có 178 siêu thị thì có
đến 119 siêu thị tiêu chuẩn hạng III, 31 tiêu chuẩn hạng II và28 đạt tiêu chuẩn hạng I. Từ
đó có thể thấy đại bộ phận siêu thị ở Việt Nam có quy mô nhỏ(chiếm tới 67%) chỉ có
khoảng 33% siêu thị trong cả nước là có quy mô vừa và lớn. Hơn nữa, các siêu thị cũng
tập trung chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với số lượng lần lượt là 72 và 60, chiếm
tới hơn 70% tổng số siêu thị trên cả nước.



Đến năm 2011, Việt Nam có 638 siêu thị với 353 siêu thị hạng III, có tới 168 siêu thị
hạng II và 117 đạt hạng I. Từ đó có thể thấy quy mô của các siêu thị hiện tại đều đã được
1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

xây dựng lớn hơn trước rất nhiều, số siêu thị quy mô nhỏ tỷ trọng đã giảm xuống, chỉ còn
khoảng 55%, số siêu thị quy mô vừa và lớn tăng lên chiếm tới 45%. Các siêu thị cũng đã
được mở rộng ra khắp các tỉnh thành trên đất nước, tập trung ở Hà Nội và TP. Hồ Chí

Minh chỉ còn chiếm khoảng 38% với số lượng lần lượt là 88 và 152.
2.1.3 cơ cấu.

Siêu thị
TTTM

Tổng số

Nhà nước

Tập thể

Có vốn đầu tư
trực tiếp NN

Loại hình
khác

571
83

35
12

68
8

26
15


442
48

Bảng: số lượng siêu thị, TTTM cả nước phân chia theo loại hình kinh tế năm 2010
(theo số liệu của Cục thương mại điện tử và công nghệ thông tin)

Sau khi chính thức gia nhập WTO vào 11/01/2007, Việt Nam bắt đầu lộ trình mở
cửa thị trường bán lẻ, để cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(FDI) vào hoạt
động. Dù vậy, sau 5 năm, thị phần của DN phân phối FDI ở thị trường trong nước chiếm
tỷ lệ rất nhỏ, mức bán lẻ của DN FDI chỉ chiếm khoảng 5% trên tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn quốc. Số lượng cơ sở của DN phân phối có vốn
FDI đã vào trước khi VN gia nhập WTO như Metro Cash & Carry (Đức), BigC (Pháp),
Parkson (Malaysia) được tăng lên một lượng đáng kể.Tuy chưa đủ sức tạo ra áp lực cạnh
tranh và khống chế thị trường, nhưng điều này đã buộc các DN bán lẻ trong nước phải
nhanh chóng tự đổi mới và xây dựng chuỗi cửa hàng hoạt động theo hướng chuyên
nghiệp. Đây không chỉ là động lực mà còn là cơ hội cho các DN bán lẻ vốn trong nước,
không cần ra nước ngoài vẫn có thể học hỏi, tiếp thu được công nghệ kinh doanh hiện
đại. Chẳng hạn, Saigon Co.op, từ siêu thị Co.opMart đầu tiên ra đời vào tháng 2/1996 đến
tháng 12/2006 mới có 15 siêu thị nhưng đến nay đã có 49 siêu thị, khoảng 100 cửa hàng
1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

tiện lợi Co.op. Trong lĩnh vực điện máy, các siêu thị mới cũng đang liên tiếp khai
trương.Tại Hà Nội, đầu năm 2011, Pico đã mở thêm 1 siêu thị lớn tại 324 Tây Sơn. Mới
đây Media Mart đã mở thêm siêu thị lớn tại Long Biên, Trần Anh cũng vừa mở thêm siêu
thị điện máy thứ 3 tại Long Biên với số vốn đầu tư 60 tỷ đồng. Mạnh mẽ nhất là Nguyễn

Kim vừa mở liền 5 siêu thị tại Bình Dương, Đà Nẵng... Thời gian tới nhà bán lẻ này dự
kiến sẽ mở thêm 50 siêu thị điện máy nữa trên toàn quốc.
Nhận định ban đầu khi VN gia nhập WTO về mở cửa thị trường bán lẻ, các tập đoàn
bán lẻ nước ngoài ồ ạt tràn vào sẽ “bóp chết” DN bán lẻ trong nước đã không xảy ra.Tuy
nhiên, trong khi các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới có hàng nghìn cửa hàng, thì các DN
bán lẻ được gọi là lớn ở VN mới chỉ có số cửa hàng tới vài chục, như Saigon Co.op có 49
siêu thị CoopMart và 30 cửa hàng Co.opFood; Vinatex có 62 cơ sở (gồm siêu thị tổng
hợp, cửa hàng chuyên doanh hàng thời trang VinatexMart); thậm chí có DN mới hình
thành được chuỗi 15 - 16 siêu thị, như: Công ty Cổ phần XNK Intimex, Công ty Cổ phần
Nhất Nam…
Các nhà bán lẻ nội địa nhiều năm loay hoay ngay trên sân nhà, hệ thống phân phối
truyền thống chật vật dịch chuyển sang kênh hiện đại. Theo các nhà phân tích, tuỳ điều
kiện thị trường, thời gian chuyển đổi có thể mất 10 – 30 năm, nhưng kênh thương mại
hiện đại Việt Nam cũng đã hơn 20 năm thay đổi kể từ khi các tập đoàn đa quốc gia đầu
tiên về hàng tiêu dùng nhanh nhập cuộc, các siêu thị hiện đại đầu tiên ra đời từ năm 1994.
Báo cáo của Research and Markets khẳng định Việt Nam là một trong năm thị trường bán
lẻ sinh lời nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 – 2015 đạt 23 –
25%/năm. Còn nhiều thương hiệu bán lẻ khổng lồ chưa vào Việt Nam như Walmart,
Tesco, Carrefour, Auchan, Cosco, Watsons… Như vậy, kênh thương mại hiện đại Việt
Nam sẽ tiếp tục là cuộc chơi hấp dẫn, dự báo cuộc chuyển dịch ngoạn mục sẽ diễn ra
trong giai đoạn mười năm tới.
2.2

Mô hình hoạt động

2.2.1 Siêu thị
1


Môn: Quản trị bán lẻ


nhóm 8

Phương thức hoạt động của hệ thống siêu thị ở Việt Nam tính cả sự góp mặt của
các đại gia bán lẻ nước ngoài, có thể tập hợp lại theo ba mô hình sau:
2.1.1.1 Mô hình siêu thị độc lập
Mô hình kinh doanh siêu thị độc lập là các siêu thị hoạt động đơn lẻ, thuộc về các
chủ sở hữu khác nhau, hầu hết do các doanh nghiệp tư nhân mở một cách tự phát, có quy
mô nhỏ và rất nhỏ, có khi chỉ vài chục mét vuông. Các siêu thị này hoạt động có tính chất
đơn lẻ, mạnh về mặt hàng nào thì kinh doanh mặt hàng đó, không có sự liên kết bổ sung
các nguồn hàng cho nhau. Đặc biệt hàng hoá trong các siêu thị này chủ yếu lấy từ các chợ
bán buôn hoặc từ nguồn nhập khẩu tự phát, sự liên kết với nhà sản xuất kém bền chặt,
nguồn hàng khai thác không được ổn định và giá cả còn ở mức cao. Các siêu thị nhỏ có
diện tích mặt bằng kinh doanh chưa đầy 100m2, chủng loại hàng hóa trong các siêu thị
này chỉ đạt mức 2000-3000 mặt hàng.
Nhưng với sự tiện ích của mình, những chuỗi siêu thị mini đang dần trở thành một
phần trong đời sống tiêu dùng của người dân.Tại TP.HCM, mỗi tháng hiện có từ 8 đến 10
siêu thị mini ra đời. Tính đến tháng 10/2012, cả thành phố có khoảng 150 siêu thị mini và
tiến tới đạt con số hơn 400 vào năm 2013. “Người tiêu dùng không muốn bỏ thời gian
nhiều đi xếp hàng tại các siêu thị, họ không muốn vào chợ vì sợ thực phẩm trong đó kém
vệ sinh, thì cửa hàng tiện lợi là nơi cung cấp 24/24h, tạo cho khách hàng sự thuận tiện và
càng thuận tiện thì họ lại càng mua sắm nhiều”. Điển hình một số siêu thị ở trên địa bàn
Hà Nội như: siêu thị Hồ Gươm, siêu thị IMS, siêu thị Cát Linh, siêu thị Phùng Hưng, siêu
thị Lý Nam Đế, siêu thị số 66 Ngô Thì Nhậm, siêu thị 18 Hàng Bài….
2.1.1.2 Mô hình siêu thị dạng chuỗi
Kênh thương mại hiện đại Việt Nam giai đoạn năm năm (2007 – 2012) đã diễn ra
cuộc cạnh tranh và đổi mới mạnh mẽ với các chuỗi bán lẻ không ngừng được mở rộng
của BigC, Metro, Co.opmart, Maximark, Citimart, Parkson, Lotte… bên cạnh các chuỗi
mới của Aeon, Family Mart, Circle K, Giant, Daiso... Chưa kể các thương hiệu đang bắt
đầu tham dự như Takashimaya, E-Mart, Mapletree, Berli Jucker, Index Living Mall… Dù

tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ chậm lại do kinh tế khó khăn, một số nhà đầu tư

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

chậm gia nhập thị trường, nhưng cuộc đua mở chuỗi vẫn tăng nhanh. Ước tính từ 2010 –
2012, số lượng siêu thị mở mới xấp xỉ con số của cả giai đoạn mười năm trước cộng
lại.Nếu tính về số, các chuỗi lớn thuộc về trong nước như Vinatextmart với 80 siêu thị,
Co.opmart với 60, Citimart 18, Fivimart 14, Hapro 11, Maximark là tám… Nhưng các
chuỗi này khó có thể so sánh về tính chuyên nghiệp và nhận diện thương hiệu của BigC,
Metro, Lotte...
Với siêu thị theo mô hình chuỗi, người tiêu dùng không phải đến một siêu thị duy
nhất mà chỉ cần đến một siêu thị bất kỳ nào đó trong chuỗi đều có thể mua được mặt hàng
mình muốn và hoàn toàn yên tâm với giá cả và chất lượng hàng hóa mình đã lựa
chọn.Hiện tại ở Hà Nội các doanh nghiệp đang có xu hướng chuyển đổi mô hình kinh
doanh siêu thị từ dạng độc lập sang dạng chuỗi, đang thực hiện hợp tác liên kết cùng khai
thác cơ hội thị trường đang mở rộng đồng thời cũng cùng chia sẻ nhưng khó khăn thách
thức trong cơ chế hội nhập.
2.1.1.3 Mô hình đại siêu thị và cửa hàng kho hàng của các tập đoàn bán lẻ nước
ngoài
Sự góp mặt của một số tập đoàn phân phối lớn trên thế giớ như Metro cash &
Carry(Đức), Bourbon(Pháp)….tại Hà Nội đã làm thay đổi cục diện thị trương bán lẻ ở
đây. Các đại siêu thị lần lượt xuất hiện theo hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước
ngoài.
Hệ thống siêu thị Big C hoạt động kinh doanh theo mô hình “Trung tâm thương
mại” hay “Đại siêu thị”, là hình thức kinh doanh bán lẻ hiện đại đang được Tập đoàn

Casino (Tập đoàn mẹ của siêu thị Big C) triển khai.BigC hiện cũng có 19 siêu thị nhưng
mục tiêu ngay trong năm 2013 sẽ phát triển lên 30.Tổng giám đốc Laurent Zecri cho biết
với dân số trên 90 triệu người, mỗi năm Việt Nam có thêm 1 triệu người tiêu dùng mới,
tạo ra một thị trường đang trên đà phát triển và là cơ hội hấp dẫn cho nhà bán lẻ.“Nhiều
mô hình bán lẻ đang phát triển tại Việt Nam, BigC vẫn đang lựa chọn mô hình đại siêu thị
và dựa vào kênh chủ yếu là hàng tiêu dùng cho gia đình”.

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

Với METRO Cash & Carry, họ đã cho đi vào hoạt động 19 trung tâm bán sỉ đang
hoạt động rộng khắp toàn quốc: 03 tại thành phố Hồ Chí Minh, 03 ở thủ đô Hà Nội,
và 01trung tâm ở các thành phố Biên Hòa, Bình Dương, Vũng Tàu, Cần Thơ, Long
Xuyên, Quy Nhơn, Đà Nẳng, Hải Phòng, Vinh, Hạ Long, Nha Trang, Buôn Ma Thuột và
mới nhất là Rạch GiávàHà Đông. Ngoài ra, Metro còn có một mạng lưới trung tâm phân
phối, kho hàng hiện đại và hoạt động rất hiệu quả đảm bảo nguồn cung đúng thời gian và
số lượng cũng như chất lượng như: Trung Tâm Phân Phối Rau Quả Đà Lạt, Trung Tâm
Phân Phối hàng tươi sống Bình Dương,T rung Tâm Phân Phối hàng thực phẩm khô và
hàng phi thực phẩm TP.HCM, Trung Tâm Phân Phối Hà Nội.
Các đại siêu thị, siêu thị lớn của các tập đoàn nước ngoài đã mang đến cho ngành
kinh doanh siêu thị ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung một góc nhìn hoàn toàn
mới về phương thức kinh doanh siêu thị, thể hiện ở tính quy mô, tiêu chuẩn hóa, chuyên
nghiệp hóa, hiện đại hóa…và cả vê tính cạnh tranh mới trên thị trường hấp dẫn này.
2.2.2 Trung tâm thương mại
Nếu như ở nước ngoài, với giao thông thuận tiện, người tiêu dùng có thể sẵn sàng
lái xe hàng trăm km để mua sắm ở những TTTM mà họ muốn thì người dân Việt từ lâu

đã quen với việc mua bán tiện lợi ở những cửa hàng gần và mặt tiền đường. Cùng với
việc quỹ đất cho các TTTM đầu tiên còn dồi dào, những cái tên tiên phong như Tràng
Tiền Plaza, Vincom Center Hà Nội, Diamond Plaza, Zen Plaza (Sài Gòn) đều sở hữu các
vị trí cực kỳ đắc địa. Tuy nhiên, khi quỹ đất ít ỏi của các thành phố ngày càng khan hiếm
thì các TTTM đi sau gần như phải “dạt” ra các quận, huyện xa trung tâm hơn. Không có
“đất vàng”, The Garden, Savico Mega Mall hay sắp tới là Uskill City, Vincom Mega
Mall, Keangnam Hanoi Landmark Tower... đang có “ý đồ” chiếm lĩnh thị trường một
cách thuyết phục bằng việc tự hoàn hảo các tính năng của một TTTM hiện đại.
Xu hướng vài năm trở lại đây khi xây dựng TTTM là phải có những tiện ích theo
kiểu “tất cả trong một”: từ siêu thị đến các cửa hàng thời trang, chỗ vui chơi cho trẻ con,
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cho mọi người... Savico Mega Mall ngoài đại siêu
thị, siêu thị chuyên ngành nội thất, điện máy còn có khu tổ chức sự kiện, khu ẩm thực,
1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

trung tâm vui chơi giải trí, sân chơi trẻ em... Nhưng có lẽ “khủng” và đa năng nhất phải
kể đến Vincom Mega Mall – Royal City.So với Savico Mega Mall (63.400 m2); The
Garden (57.000 m2), hay cả với “người anh em” Vincom Center (75.000 m2) thì Vincom
Mega Mall – Roya City gần như “nuốt chửng”. Với diện tích hơn 200.000 m2 gồm 2 tầng
hầm và 2 tầng nổi, TTTM này sẽ trở thành khu mua sắm sầm uất và còn được trợ lực bởi
những tiện ích đẳng cấp như khu Gym & Spa, khu vui chơi giải trí trong nhà, bể bơi bốn
mùa, quần thể rạp chiếu phim 3D, 4D, làng ẩm thực... Đặc biệt, khu công viên nước trong
nhà và khu sân băng – hai mô hình lần đầu tiên xuất hiện tại VN cũng sẽ giúp “kéo”
khách đến cho TTTM này.

2.3Hàng hóa và trưng bày hàng hóa

-về chủng loại hàng hóa
Hiện hay, các siêu thị, trung tâm thương mại đều có chủng loại hàng hóa khá phong
phú, tập hợp hàng hóa vừa rộng vừa sâu,nhất làloại I, loại II. Tuy nhiên, đa phần các siêu
thị Việt Nam( siêu thị loại III và nhất là không được phân loại) thì tập hợp hàng hóa khá
đa dạng nhưng chủng loại còn tương đối nghèo nàn, đôi khi vẫn gặp phải một số những
vụ việc như hàng hết hạn, hàng giả hàng nhái là những sự cố khó tránh khỏi.
Trước đây khi bắt đầu thành lập, các siêu thị, trung tâm thương mại đều có nhắm
vào thị trường mục tiêu là người dân có thu nhập cao hoặc công dân nước ngoài sinh sống
ở Việt Nam. Vì vậy hàng hóa các doanh nghiệp này lựa chọn hầu hết đều là hàng ngoại
nhập. Tuy nhiên hiện nay,việc chuyển dần thị trường hướng tới cả những người dân có
thu nhập phổ thông hơn, cùng với nguồn cung cấp trong nước cũng đã ổn định, cuộc vận
động của Nhà Nước về việc người Việt Nam tiêu dùng hàng Việt Nam, hàng hóa Việt
Nam trong các siêu thị hiện nay đã dần thay thế và chiếm tỷ trọng lên tới 80%-90%.
-Về chất lượng hàng hóa
Nhìn chung, hàng bày bán trong siêu thị, TTTM thường có nguồn gốc rõ ràng, đầy
đủ nhãn mác và được kiểm tra nghiêm ngặt để đảm bảo chất lượng. Khoảng 70% khách
hàng đã trả lời rằng họ đến với khách hàng với lý do chính là chất lượng được đảm bảo,

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

thỏa mãn tốt nhu cầu của họ. Tuy nhiên, hiện tượng người tiêu dùng mua phải hàng quá
hạn sử dụng hoặc kém chất lượng do lỗi vận chuyển vẫn còn xuất hiện. Ở nhiều siêu thị,
tỷ lệ hàng Trung Quốc còn cao, đặc biệt là hàng hóa không dán nhãn ghi rõ xuất xứ, gây
nên e ngại, thậm chí là rào cản ngăn khách hàng mục tiêu đến với siêu thị.
-về giá cả

Giá cả các mặt hàng trong siêu thị đối với nước ngoài hầu hết đều thấp hơn so với
hàng hóa được bày bán ở chợ hay các hệ thống bán lẻ truyền thống nhưng tuy nhiên ở
Việt Nam thì điều này là ngược lại giá bán thường có xu hướng cao hơn. Ví dụ như đa
số mặt hàng như bánh kẹo, sữa, nước giải khát, thực phẩm tươi sống, rau xanh, trái cây,
quần áo, trang phục lót… thì giá bán ra tại siêu thị cao hơn giá bên ngoài khoảng từ 0,520%. Hầu hết là do khi hàng hóa được trưng bày trong siêu thị thì phải chịu phí trưng
bày cao hơn so với việc bán lẻ truyền thống, chi phí thuê mặt bằng, thuê nhân viên …. Vì
vậy giá cả thường cao hơn so với bên ngoài
-về trưng bày hàng hóa
Ở Việt Nam, các siêu thị, trung tâm thương mại ra đời ban đầu chủ yếu là do tự
phát, đội ngũ nhân viên chưa được đào tạo bài bản nên tính nghệ thuật trong trưng bày
hàng hóa còn chưa cao. Một số siêu thị như Big.C có danh mục hàng hóa phong phú
nhưng do số lượng quá nhiều khiến cho các gian hàng san sát nhau thường xuyên xuất
hiện rơi hàng hóa, đường vận chuyển hàng hóa từ kho chứa ra gian trưng bày đi cả vào
khu vực đi lại của khách hàng khiến giao thông bị tắc nghẽn. Nhiều siêu thị sắp xếp hàng
hóa còn thiếu phù hợp với quy trình công nghệ chung khiến việc di chuyển hàng hóa vừa
mất thời gian vừa dễ gây mất vệ sinh cho thực phẩm.
Hiện nay, sự thâm nhập của các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài đã đem đến sự
trưng bày, sắp xếp hàng hóa có tính chuẩn mực quốc tế cao. Hàng hóa được sắp xếp hợp
lý,ngày càng có tính thẩm mỹ cao, giao thông đi lại thuận tiện hơn, sơ đồ gian hàng và
biển chỉ dẫn khu vực hàng hóa rõ rang… Sự tiến bộ trong nghệ thuật trưng bày hàng hóa
đã thu hút thêm nhiều sự quan tâm của khách hàng, nhất là những ngày lễ lớn.

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

2.4Dịch vụ khách hàng và xúc tiến thương mại

2.4.1. Dịch vụ khách hàng.
- Siêu thị
Dịch vụ khách hàng hoàn hảo là huyết mạch của bất kỳ doanh nghiệp nào.Bạn có
thể khuyến mại hay hạ giá để thu được nhiều khách hàng mới như bạn mong muốn,
nhưng nếu bạn không giữ được khách thì doanh nghiệp của bạn sẽ không thể thu được
lợi nhuận lâu dài.
Hiện nay, trừ một số siêu thị nhỏ không được phân hạng,có thể nói hầu hết các
siêu thị đều có bãi đỗ xe miễn phí cho khách hàng. Đặc biệt, các siêu thị loại I, II được
xây dựng trên cơ sở quy hoạch nên chỗ để xecho khách hàng là khá rộng rãi.
Siêu thị nào cũng có tủ gửi đồ cho khách hàng để đề phòng nạn mất đồ.Dịch vụ này
cũng tạo sự thuận tiện, thoải mái cho khách hàng trong khi đi chọn lựa hàng hóa.Tuy
nhiên vẫn có siêu thị có ngăn tủ chứa đồ quá nhỏ, khóa bị hỏng hoặc có quá ít ngăn để đồ
khiến khách hàng không thể vào mua hàng hóa được, nhất là giờ cao điểm.
Ngoài ra còn có một vài ví dụ về các dịch vụ khách hàng đang có tại các siêu thị
hiên nay như:
-

Đường dây nóng
Thẻ ưu đãi
Chương trình khách hàng thân thiết
Máy rút tiền ATM
Giỏ,xe đẩy cho khách hàng
Quầy ăn nhanh
…………
Bên cạnh đó các siêu thị còn có các dịch vụ nổi bật cho riêng mình.
Ví dụ :

-

Tại Co-opmart : có dịch vụ gói quà miễn phí, đổi trả hàng, bán phiếu quà tặng, sửa chữa

quần áo ….

1


Môn: Quản trị bán lẻ
-

nhóm 8

Tại Big C : Xe đưa đón miễn phí, mua hàng trả góp, thẻ cáo điện thoại, thanh toán bằng
thẻ …
-Trung tâm thương mại
Hiện nay, rất nhiều trung tâm thương mại đã thành công trong việc áp dụng dịch vụ
khách hàng bằng các hạng mục giải trí.Trong những năm gần đây, CBRE ghi nhận sự gia
tăng của hạng mục giải trí, nhất là giải trí gia đình (bao gồm rạp chiếu phim, các trò chơi
trong nhà) tại các trung tâm thương mại về cả số lượng lẫn diện tích. Tuy nhiên, đa số các
trung tâm giải trí được đặt tại các trung tâm thương mại, đặc biệt là các trung tâm thương
mại lớn.Điều này nhằm tận dụng sự bổ trợ giữa các hạng mục mua sắm/bán lẻ và hạng
mục giải trí. Trong nhiều trường hợp, hạng mục giải trí đóng vai trò là khách thuê chủ
chốt, thu hút khách hàng đến với cửa hàng mua sắm của trung tâm thương mại.
Các trung tâm giải trí ngày càng được đầu tư chuyên nghiệp hơn. Sau mô hình kinh
doanh rạp chiếu phim Megastar và khu trò chơi điện tử tại trung tâm thương mại Vincom
thành công trong những năm 2004 - 2005, đã có nhiều công ty nước ngoài hoạt động
trong lĩnh vực giải trí quan tâm đến thị trường Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Trong vòng một vài năm trở lại đây, đã có thêm nhiều khu giải trí, rạp chiếu phim được
khai trương tại các trung tâm thương mại tại Hà Nội với diện tích lên đến hàng nghìn m2.
Khách hàng tại các thành phố lớn cũng ngày càng quan tâm hơn đến các dịch vụ giải trí
tại các trung tâm thương mại, bởi họ có thể kết hợp việc đi mua sắm với xem phim, hay
cho con cái tham gia các trò chơi giải trí.

2.4.2.xúc tiến thương mại.
Hệ thống các hình thức xúc tiến thương mại của hệ thống siêu thị và các TTTM :
KHUYẾN MẠI:

-

. Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền
Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc

-

mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

-

. Bán hàng, cung ứng địch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người

-

trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố
Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự chương trình khuyến mại mang tính


-

may rủi
Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên
Khuyến mại hàng hóa, dịch vụ thông qua internet và các phương tiện điện tửkhác
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI :

-

Dán các tấm áp phíc trên xe đẩy của siêu thị, khu mua sắm…

-

Phát các báo, catolo sản phẩm của siêu thị

-

Quảng cáo trên tivi, internet …

2.5

Lực lượng lao động.

Đa số các siêu thị có quy mô nhỏ hoặc quy mô gia đình đều sử dụng số lượng nhân
viên tối thiểu. Với số lượng danh mục hàng hóa bày bán ít và lực lượng khách đến mua
hàng thì cón hạn chế không đông chính vì vậy mà trong siêu thị có quy mô nhỏ thì họ
thường chỉ có khoảng từ 29 – 30 nhận viên. Có nhiều siêu thị có quy mô gia đình thì sô
nhân viên chỉ có từ 10 – 15 người, phần lớn thì họ tham gia với vai trò là người bán hàng
và thu ngân.
Đối với các siêu thị, trung tâm thương mại có quy mô lớn, số lượng cán bộ quản lý

và nhân viên chiếm số lượng lớn hơn rất nhiều và cách tổ chức, bố trí và phân công lao
động trong siêu thị cũng được sắp xếp một cách bài bản hơn rất nhiều.Phần lớn các siêu
thị có quy mô lớn thường có những cán bộ quản lý giỏi, có đầu óc kinh doanh, nắm vững
và có khả năng vẫn dụng các chính sách của Nhà nước và ứng xử nhanh trước những biến
động của thị trường. Thường thì trong các siêu thị lớn các phòng, các ban chức năng được
quy định rõ ràng trong điều lệ hoạt động của siêu thị.
Lực lượng lao động trong các siêu thị, trung tâm thương mại đều khá trẻ, chiếm
khoảng 70% là nữ, đa số làm việc ở các quầy hàng, một bộ phận làm kế toán và thu ngân,
còn lại là lao công, bảo vệ. Tuy môi trường làm việc có điều hòa dễ chịu nhưng đây lại là

1


Môn: Quản trị bán lẻ

nhóm 8

công việc khá vất vả vì cả ngày họ phải tiếp xúc với hàng hóa, hướng dẫn và phục vụ
khách hàng.

2.6Đánh giá chất lượng tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
2.6.1 Mặt tích cực.
Trong những năm qua, hình thức kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại đã thực
sự khẳng định được vị thế kinh doanh của mình trên thương trường. Người tiêu dùng
ngày càng nhận thức được những giá trị gia tăng mà các hình thức bán lẻ này mang lại: sự
tiện lợi, chất lượng, phục vụ, uy tín sản phẩm và giá cả hợp lý, rõ ràng. Thay vì tới những
cửa hàng nhỏ, cũ kỹ, vàng thau lẫn lộn, người tiêu dùng đã lựa chọn siêu thị, trung tâm
thương mại bởi họ có cơ hội để so sánh từ giá cho đến mẫu mã, tính năng của nhiều sản
phẩm mang thương hiệu nổi tiếng khác nhau với chất lượng đảm bảo.
- Về số lượng: các siêu thị và trung tâm thương mại nổi lên ngày càng nhiều, do đó

có thể phục vụ được nhu cầu của càng nhiều khách hàng hơn nữa.
- Về mặt bằng: hiện nay phần lớn các siêu thị, trung tâm thương mại đều tọa lạc ở
các khu dân cư, các khu đô thị có mật độ dân số cao, vì vậy mà nhu cầu của một lượng đa
số sẽ được đáp ứng.
- Về quy mô: theo quy hoạch của nhà nước, siêu thị, trung tâm thương mại loại vừa
và lớn ngày càng được ưu tiên cấp phép xây dựng hơn vì trong mô hình như vậy, với uy
-

tín của doanh nghiệp, số lượng, chất lượng các mặt hàng, dịch vu sẽ ngày càng tăng cao.
Về hàng hóa: Sản phẩm, hàng hóa đa dạng, sẵn có, nhiều mẫu mã, cho khách hàng có
nhiều sự lựa chọn. Thực phẩm trong siêu thị được đảm bảo, kiểm tra, tạo niềm tin cho

-

khách hàng mua và tiêu dùng.
Trưng bày hàng hóa: theo các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, nghệ thuật trưng bày
hàng hóa cũng đã bắt đầu được áp dụng trong các siêu thị, trung tâm thương mại. Điều đó

-

giúp cho khách hàng cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi đi mua sắm ở đây.
Về giá sản phẩm: hiện nay, do chủ yếu là sử dụng hàng Việt Nam để bày bán, trừ một số
mặt hàng thuộc các nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới trong các trung tâm thương mại, hầu
hết sản phẩm các loại hình bán lẻ này đều không còn đắt như những ngày đầu nữa mà đã
rẻ hơn rất nhiều, ngang hoặc còn thấp hơn bên ngoài.

1



×