Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.87 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ DỊU

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ DỊU

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC MINH

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Dịu


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÁN BỘ............................................................................................ 7
1.1.

Khái niệm, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ ................ 7

1.1.1.


Khái niệm cán bộ ......................................................................................... 7

1.1.2.

Khái niệm về đạo đức cán bộ ....................................................................... 10

1.1.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ ................................ 12
1.1.4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ .................................. 13
1.2.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ ................ 26

1.2.1. Kế thừa giá trị tư tưởng đạo đức của dân tộc ............................................. 26
1.2.2.

Tiếp thu tinh hoa tư tưởng đạo đức của nhân loại ......................................... 27

1.2.3.

Năng lực tư duy và trí tuệ của cá nhân Hồ Chí Minh .................................... 29

1.3.

Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật ....................................................... 31

1.3.1. Đạo đức và pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội.......... 31
1.3.2. Đạo đức hỗ trợ, song hành và bổ sung cho luật pháp. Cụ thể là ................. 34
1.3.3. Pháp luật góp phần bảo vệ, củng cố các giá trị đạo đức xã hội .................. 41
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 47
Chương 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC VẬN

DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................... 48
2.1.

Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ ............. 48

2.1.1.

Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ trong công
tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam ..................................................... 48


2.1.2.

Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ trong công
tác cán bộ của Nhà nước............................................................................. 51

2.1.3. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ trong
công tác cán bộ của một số tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị ............. 69
2.2.

Giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán
bộ ở việt nam hiện nay ............................................................................ 74

2.2.1. Giải pháp tổng thể ..................................................................................... 74
2.2.2. Giải pháp cụ thể ........................................................................................ 76
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 106
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 108



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC

: Cán bộ - Công chức

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CT-XH

: Chính trị - xã hội

ĐĐCB

: Đạo đức cán bộ

KTTT

: Kinh tế thị trường

KT-XH

: Kinh tế -xã hội

MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


Nxb

: Nhà xuất bản

QHXH

: Quan hệ xã hội

TTHCM

: Tư tưởng Hồ Chí Minh

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

YTXH

: Ý thức xã hội


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN VĂN
Từ trước tới nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự thành công, thất bại của công
việc, hoặc sự tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia, chế độ đều phụ thuộc rất lớn vào
đội ngũ những người lãnh đạo, quản lý, vào hiền tài của quốc gia. Cách đây hơn 500
năm, vua Lê Thánh Tông giao cho Thân Nhân Trung soạn một bài văn bia ở Văn
Miếu (Thăng Long) để nói về ý nghĩa của khoa thi hội năm 1442. Trong văn bia có
đoạn: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng

lớn lao, nguyên khí suy thì nước yếu và càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài
giỏi đời xưa, chẳng có đời nào mà không chăm lo, nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài,
bồi đắp thêm nguyên khí” (Trong lịch sử nước ta đã có nhiều người hiền tài xuất hiền
như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Giang Văn
Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… ở thời đại chúng ta
cũng đã có nhiều người hiền tài xuất hiện, điển hình là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại –
người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách
nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và
khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới. Ngoài ra còn có khá nhiều người
hiền tài khác như: Kĩ sư Trần Đại Nghĩa, người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho
kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn
Ngữ… đã bỏ ra bao công sức nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc
kháng sinh quý giá để cứu chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường. Nhà nông
học Lương Định Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu cải tạo ra những giống lúa mới có
khả năng chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng
nguồn lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ…).
V.I.Lênin, người thầy của giai cấp vô sản đã viết: “Trong lịch sử, chưa hề có
giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu không đào tạo được trong hàng ngũ
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [42, tr.437].

1


Đối với cách mạng nước ta hiện nay, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ có tầm
quan trọng vừa mang tính khoa học vừa là yêu cầu của cuộc sống, vừa có tính cấp
bách, vừa có tính cơ bản lâu dài. Từ Đại hội lần thứ VII (6- 1991) trở đi. Đảng ta đã
nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh (TTHCM) và trong thực tế, TTHCM đã trở thành
một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc ta. TTHCM đang soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Trong hệ thống các nội

dung TTHCM, tư tưởng về cán bộ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là một hệ
thống các quan điểm về vị trí, vai trò, yêu cầu, phẩm chất và năng lực của cán bộ,
về công tác cán bộ với các khâu liên hoàn: Quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, huấn luyện, đánh giá, sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ, Hồ Chí
Minh coi: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [22, tr.269]. “Công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22, tr.273]. “Vấn đề cán bộ là một
vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp” [22, tr.274]. Hồ Chí Minh khẳng định:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ
là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành
trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực
hiện được [25, tr.269].
Hiện nay, cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước, phấn đấu để nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hơn lúc nào hết, chúng ta
càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và tính chất khó khăn,
phức tạp của vấn đề cán bộ và đạo đức cán bộ (ĐĐCB).
Đứng trước tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp,
chứa đựng cả thuận lợi và thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
triển khai chiến lược cán bộ đạt hiệu quả cao đáp ứng được đòi hỏi trước mắt, cấp
bách và yêu cầu lâu dài của nhiệm vụ cách mạng. Trước yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, ngoài những ưu
điểm rất cơ bản, còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của

2


thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, mắc bệnh độc đoán chuyên quyền, làm việc thiếu khoa học, vi
phạm nghiêm trọng vấn đề dân chủ….

Vì vậy, để cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH, việc vận
dụng TTHCM về ĐĐCB để nâng cao đội ngũ cán bộ trong nước là vấn đề có ý
nghĩa sâu sắc. Đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cán bộ” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ
cán bộ, công chức (CBCC) là đòi hỏi khách quan cấp bách trong giai đoạn hiện
nay. Để bảo đảm điều đó trước hết phải tạo ra được cơ sở pháp lý bằng cách hoàn
thiện chế định pháp luật CBCC; Đảng và Nhà nước ta đã xác định cơ sở chính
trị của tiến trình đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và TTHCM. Vì thế trong những năm
gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu TTHCM về đạo đức cán bộ và nghiên
cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật CBCC. Liên quan tới nội dung nghiên cứu của
luận văn này có một số công trình sau:
- Thành Duy: Tư tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức, đạo đức và lợi ích công dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1995.
- GS.TS Hoàng Thị Kim Quế có các bài: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
kết hợp pháp luật và đạo đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2002.
- Lương Hồng Quang: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo
đức trong quản lý xã hội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 2002.
- Trần Nghị: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng trong hoàn thiện
pháp luật cán bộ, công chức tại Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2003.
- Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do các
tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb)
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

3



- Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của tác
giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- Tác phẩm "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức" các tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Luận án tiến sĩ Luật "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức
nhà nước ở nước ta", tác giả Nguyễn Văn Tâm, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 1997.
- Luận văn thạc sỹ Luật “Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” tác giả Nguyễn Văn Quyết,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và vận dụng
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", tác giả Trần Nghị, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2002.
- Luận văn Thạc sĩ Luật "Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay", tác giả Phạm Minh Triết, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2003.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
3.1. Đối tượng: Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về đạo đức cán bộ từ đó luận giải cho việc vận dụng TTHCM về ĐĐCB
trong hoàn thiện pháp luật CBCC ở nước ta trong giai đoạn hiện nay (2010-2020).
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
4.1. Mục đích: Phân tích làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong TTHCM
về đạo đức cán bộ, đề xuất quan điểm, giải pháp vận dụng TTHCM về ĐĐCB ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
+ Luận giải những vấn đề lý luận chung về cán bộ và TTHCM về ĐĐCB;


4


phân tích, làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành TTHCM và làm rõ nội dung cơ
bản của TTHCM về ĐĐCB.
+ Phân tích thực trạng vận dụng TTHCM về ĐĐCB trong gian đoạn vừa qua.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục vận dụng TTHCM về ĐĐCB ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa MácLênin và TTHCM về ĐĐCB, về nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm
về vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp như: phương
pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic; phương pháp phân tích - tổng hợp, so
sánh, tổng kết thực tiễn.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
Một là, luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống nguồn gốc ra đời
và quá trình phát triển của TTHCM, những nội dung cơ bản trong TTHCM về
ĐĐCB.Thông qua việc phân tích, luận văn góp phần khẳng định cùng với lý luận
Mác-Lênin, TTHCM về ĐĐCB đóng vai trò nền tảng trong xây dựng và hoàn thiện
ĐĐCB ở nước ta hiện nay.
Hai là, luận văn chỉ ra yêu cầu khách quan của việc vận dụng TTHCM về
ĐĐCB ở nước ta hiện nay.
Ba là, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp tiếp tục vận dụng TTHCM
trong xây dựng, hoàn thiện ĐĐCB hiện nay.
7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn góp phần cung cấp luận chứng về cơ sở lý luận và thực tiễn cho
công tác xây dựng đội ngũ CBCC, viên chức của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng

5


dạy về nhà nước pháp luật, TTHCM, về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ.
Chương 2: Thực trạng vận dụng và giải pháp tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cán bộ ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ

1.1. Khái niệm, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
"Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng
cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát
triển của tổ chức" [39]. Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng khá lâu tại các nước xã
hội chủ nghĩa (XHCN) và bao hàm trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc
khu vực nhà nước, các tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị-xã hội (CTXH). Lần đầu tiên Luật CBCC năm 2008 đã làm rõ được tiêu chí xác định ai là cán
bộ, ai là công chức… từ đó, đã tạo cơ sở và căn cứ để xây dựng những nội dung đổi

mới và cải cách thể hiện trong Luật CBCC, nhằm giải quyết vấn đề mà thực tiễn
quản lý đặt ra. Khoản 1 Điều 4 của Luật CBCC quy định cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức CT-XH ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung
của CBCC mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ
chức CT-XH thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo
nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị
được nhân dân hoặc các thành viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các văn bản
pháp luật chuyên ngành tương ứng điều chỉnh hoặc theo Điều lệ [43]. Do đó, căn cứ

7


vào các tiêu chí do Luật CBCC quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của
Đảng, tổ chức CT-XH sẽ được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ Điều lệ
của Đảng, của tổ chức CT-XH quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan
nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức
Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà nước và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên tiến nhất của giai cấp công nhân.
TTHCM về công tác cán bộ và sử dụng cán bộ là di sản vô giá mà Bác Hồ để lại
cho Đảng ta. Sinh thời, Người luôn quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo và sử dụng
cán bộ. Với quan điểm con người vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:

Một khi đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu
quyết định: Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém, Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Về vị trí của cán bộ, Hồ
Chí Minh cho rằng, cán bộ là dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà
nước, đoàn thể nhân dân, là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu
rõ, để đặt chính sách cho đúng [22, tr.26].
Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng
lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể
phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do
nhân dân giao cho.
Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý
nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò
cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta. Đối với cán bộ, đảng viên, nhân
viên nhà nước, Người gọi đó là “công bộc”.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây

8


dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
TTHCM về đạo đức cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
Tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ là đạo đức cách mạng (ĐĐCM).
ĐĐCM, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là cái gì trừu tượng, cao xa mà là
những điều bình thường, hết sức cụ thể, dễ hiểu, nhưng thực hiện được nó phải có ý
chí rèn luyện rất cao.
Người cán bộ có ĐĐCM là người có ý thức tự phê bình và phê bình rất cao.
Phê bình phải đi liền với tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra cái căn bệnh

thường thấy của cán bộ là chỉ biết phê bình người khác mà không muốn người khác
phê bình mình, không tự phê bình một cách thật thà, nghiêm chỉnh. Người chỉ rõ:
Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết
tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng
phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự
phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị
quần chúng bỏ rơi [25, tr.290]. Người còn nói thêm: Dân ta rất tốt, rất
yêu thương Đảng, yêu thương cán bộ. Khi ta có khuyết điểm mà nói
trước dân, chẳng những dân không ghét, không khinh, mà còn thương
yêu, quý trọng, tín nhiệm ta hơn nữa [26, tr.213].
Quán triệt tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI đặc biệt nhấn mạnh tới những khuynh hướng tiêu cực
cần phải tránh trong việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình là: “vuốt ve ca
tụng”, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc lợi dụng phê bình để mạt sát, nhục mạ, xúc
phạm nhau,...
Theo Người, người cán bộ có đạo đức nhưng lại phải có tài. Cán bộ chỉ có
đức mà thiếu tài thì cũng chẳng khác nào “những ông bụt ngồi ở trong chùa”.
“Tài”, theo TTHCM, bao gồm cả năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn.
Muốn có được những năng lực đó, người cán bộ phải chịu khó học tập, rèn
luyện, trước hết là học tập lý luận Mác-Lênin, sau đó phải chịu khó lăn lộn trong

9


thực tiễn. Bởi vì theo Người, lý luận luôn được bổ sung bằng những kết luận mới
rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
1.1.2. Khái niệm về đạo đức cán bộ
* Khái niệm “đạo đức”: Là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ
hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập
hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xă hội, của một tập hợp

người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội. Trong tâm lý học, đạo đức
có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội (YTXH), là tổng hợp các
qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã
hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội
(QHXH) và quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự
nhiên và với cả bản thân mình.
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc
về vấn đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm
vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được
gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hóa, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết
học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức thuộc hình thái YTXH, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội [28].

10


Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các
QHXH. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức
phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy

trì và củng cố những QHXH đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tùy theo nhận thức
về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra
quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai
cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã
hội (KT-XH) thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt,
những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh "những luật
lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu
cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với
người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội...
và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... "không ai
nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất
cả các ngành tri thức khác của nhân loại" (Enghen).
Đạo đức nói chung, đạo đức cán bộ nói riêng có ảnh hưởng lớn tới đạo đức của
các đối tượng trong xã hội, tới mọi mặt đời sống nhà nước, xã hội, cơ quan, tổ chức.
Đạo đức cán bộ là tấm gương phản chiếu đời sống nhà nước, chế độ công vụ của một
quốc gia trong những thời đại nhất định thể hiện trình độ văn minh, văn hóa của hoạt
động công vụ. Bộ mặt của nhà nước, sự tín nhiệm từ nhân dân được đánh giá từ thái
độ, cách ứng xử của cán bộ trong hoạt động công vụ và trong lề lối sinh hoạt của họ. Vì
tất cả mọi hoạt động của Nhà nước đều do cán bộ nói chung, CBCC nói riêng thực
hiện. Từ quan điểm trên ta hiểu đạo đức cán bộ công chức ở hai khía cạnh sau:
Có thể hiểu đạo đức cán bộ là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi,
quy tắc sử sự điều chỉnh ý thức, thái độ, hành vi, cách xử sự của cán bộ trong công
vụ và ngoài công vụ.
Qua quan điểm về đạo đức, trên cơ sở TTHCM về đạo đức cán bộ, cùng
những luận giải sơ bộ nêu trên về đạo đức, đạo đức cán bộ thì có thể rút ra kết luận
về đạo đức cán bộ như sau: Đạo đức cán bộ là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm

11



hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở quan niệm về lẽ phải, sự công bằng, về
điều thiện, cái ác, cái đúng, cái sai trong đời sống xã hội, đời sống Nhà nước để
điều khiển ý thức, hành vi, cách xử sự của cán bộ trong hoạt động công vụ, nhiệm
vụ cũng như thái độ của cán bộ trong công vụ.
1.1.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ
Theo Hồ Chủ Tịch, ĐĐCM là yêu cầu cơ bản, là cái gốc của người cán bộ.
Người nói: “…cũng như sông phải có nguồn, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có ĐĐCM, không có đạo đức
thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [20, tr.252-253]. Hồ Chí
Minh quan niệm ĐĐCM là đạo đức của người cách mạng xuất hiện trong quá trình
đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Theo
Hồ Chí Minh, ĐĐCM là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế
trong sáng… Và ĐĐCM là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng.
Hồ Chí Minh xây dựng đạo đức cán bộ ở hai nội dung cơ bản:
Một là, xây dựng hệ thống những chuẩn mực của nền đạo đức mới. tổng hợp
những chuẩn mực đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, tập thể...
Hai là, xây dựng những nguyên tắc trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
mới. Hai nội dung này nhằm mục đích phát triển con người một cách toàn diện,
hướng tới các giá trị cao đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Những giá trị tích cực của học thuyết của Khổng Tử đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh tiếp thu và phát triển trong quá trình giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán
bộ. Nội dung chủ yếu của ĐĐCM gồm trung - hiếu - nhân - trí - dũng, đều là những
phạm trù có nguồn gốc từ đức trị, song đã được Hồ Chủ tịch “cách mạng hóa”, cho
nên chúng mang những nội dung mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm


12


chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn
luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
Tóm lại từ những luận giải trên thì TTHCM về đạo đức cán bộ là hệ thống
những quan điểm toàn diện và sâu sắc của Người về những chuẩn mực và những
nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới so với nền đạo đức cũ (Đạo đức thời phong
kiến) nhằm phát triển toàn diện con người trong thời đại mới.
1.1.4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ
1.1.4.1. Đạo đức cách mạng là gốc của cán bộ
Thứ nhất: Đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng, giống như cây
phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ khó
khăn. Không phải ngẫu nhiên mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã viết những dòng
đầy xúc động trước tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực của người thầy vĩ đại:
“… Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh
thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc Châu Á và đã khiến
cho trái tim của họ hướng về người, không gì ngăn cản nổi…”. Còn trong “Đường
Cách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của những người cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã dành chương đầu tiên để bàn về tư cách người cách mạng, sau đó mới
nói về lý luận và đường lối cách mạng. Với Hồ Chí Minh, “Đức là gốc” cho nên,
ĐĐCM không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người
cách mạng không ngừng cầu tiến bộ và hoàn thiện bản thân mình.
Người có ĐĐCM thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời... cũng
không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở
thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “Đức là gốc” cho nên ĐĐCM
là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,

trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi người có công
việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng bất cứ

13


ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Ở mỗi giai đoạn nhất định
của tiến trình cách mạng, quan niệm về phẩm chất đạo đức, tư cách của người cán
bộ, đảng viên lại có những yêu cầu cụ thể. Song nhất quán và xuyên suốt trong
TTHCM thì, đó phải là những con người dám xả thân cho cách mạng, đi tiên phong
trong phong trào quần chúng, phải biết “làm việc”, biết “sửa đổi lối làm việc” và
luôn luôn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Như
sông có nguồn thì mới có nước, như cây phải có gốc, vì nếu không có gốc thì cây
chết, người cán bộ, đảng viên phải có ĐĐCM, vì nếu không có ĐĐCM, thì “dù tài
giỏi đến đâu cũng không thể lãnh đạo được nhân dân”. ĐĐCM, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh là đạo đức hành động vì nhân dân, thể hiện bản lĩnh chính trị, phẩm chất
cách mạng vững vàng, tự tin và dám chịu trách nhiệm trước bất kỳ khó khăn nào.
Người cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, để lòng mình hướng đến “chí công, vô tư”, để “khi đi thì dân
tiếc, sắp đến thì dân mong”.
Thứ hai: Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì “Đức là gốc” nhưng đức và
tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Hồ Chí Minh
yêu cầu: Tài lớn thì Đức càng phải cao, vì khi đã có trí thì cái đức chính là cái đảm
bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp
nhận và lựa chọn tin theo. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức
mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước.
Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn
luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Và khi đã thấy sức không
vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và ủng hộ người tài đức hơn
mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, rèn luyện

người cán bộ, đảng viên có đủ đức và đủ tài, vừa hồng và vừa chuyên. Thời chiến
cũng như thời bình, nơi chiến trường hay tại hậu phương, trong học tập, lao động,
sản xuất hay khi chiến đấu, Người luôn quan tâm, động viên và dìu dắt đội ngũ cán
bộ, đảng viên để họ thấm nhuần ĐĐCM, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Theo Người, chừng nào chủ nghĩa cá nhân với những căn bệnh thường mắc như

14


cậy quyền và cậy thế, kiêu ngạo và xa hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự
kiêu và không muốn học tập, không thực hiện tốt phê bình và tự phê bình vẫn còn
hiện hữu, thì chừng đó cán bộ, đảng viên sẽ không thể hết lòng, hết sức phục vụ
nhân dân, hoàn thành những trọng trách mà nhân dân tin tưởng giao phó.
Vì vậy, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao tư cách người cách
mạng. Người đã dày công đào luyện đội ngũ cán bộ vừa biết trọn đời hy sinh cho lý
tưởng cao đẹp, vừa biết gắn bó máu thịt với nhân dân và hòa mình vào cuộc đấu
tranh vì nhân loại tiến bộ; đồng thời biết sống một cuộc sống giản dị và trong sạch.
TTHCM về đạo đức và ĐĐCM đã đóng góp làm phong phú thêm tư tưởng ĐĐCM
của đạo đức học Mác-Lênin, được biểu hiện vận dụng nhuần nhuyễn giữa tính nhân
văn của các dân tộc Việt Nam với ĐĐCM của giai cấp công nhân.
Xét về lý luận, quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh có nội dung phong
phú, bao trùm và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng ĐĐCM của Người.
1.1.4.2. Những yêu cầu cơ bản của đạo đức cán bộ
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có những
lời dạy với những phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người nêu cái
đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ ra cái sai, cái xấu, cái dở để giáo dục đạo
đức cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật những phẩm chất
đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là những
phẩm chất của nền đạo đức mới, ĐĐCM Việt Nam và cũng là đạo đức cán bộ. Đó là
những phẩm chất đạo đức sau:

- Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất
khác. Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới,
phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là
một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. “Trung với nước hiếu với dân, suốt
đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì CNXH và hạnh phúc của nhân
dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

15


đánh thắng” [18, tr.350]. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa
là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong
cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đề cập đến yêu nước, Hồ Chí Minh đề cập khái niệm yêu nước, yêu nước là
tình cảm tự nhiên, yêu nước và yêu dân tộc, vai trò của yêu nước, tính giai cấp của
yêu nước, chủ nghĩa yêu nước, yêu nước ở Việt Nam ngày nay. Nội dung của chủ
nghĩa yêu nước theo Bác là trung thành với lý tưởng XHCN; quan niệm về trung
khác với trong xã hội phong kiến, TTHCM về trung với nước, hiếu với dân thể hiện
quan điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng,
đất nước. Nội dung chủ yếu của trung với nước là: Trong mối quan hệ giữa cá nhân
với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách
mạng lên trên hết, trước hết; quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng;
thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
“Trung” và “Hiếu” là hai khái niệm cơ bản, là trung tâm của tư tưởng đạo
đức Nho giáo. Theo đó, “trung” và “hiếu” chỉ tồn tại trong một phạm vi nhỏ hẹp là
trung đối với vua, hiếu đối với cha mẹ. Ở tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, “trung”
và “hiếu” đã được mở rộng ra phạm vi xã hội: trung với nước, hiếu với dân thì nước
ở đây là nước của dân và dân là chủ của nước, “trung”, “hiếu” đã mang một chất

lượng mới với ý nghĩa cách mạng, hết sức sâu sắc, vượt xa những giá trị đạo đức
truyền thống Nho giáo. Người nói:
Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, trung là trung với vua, hiếu là
hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay nước ta là một nước dân chủ cộng
hòa (…), trung là trung với nước, hiếu là hiếu với dân [20, tr.640]. Và
người cách mạng hiếu với nhân dân nên tích cực tham gia chiến đấu để
giải phóng nước nhà, như thế không những cứu bố mẹ mình mà còn cứu
bố mẹ người khác, bố mẹ cả nước nữa [19, tr.640, 94-95].
Trung - Hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới:
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước,

16


phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là
của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân
dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân,
lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ
đất nước. Yêu nước và trung thành với lý tưởng XHCN.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức
bao trùm quan trọng nhất, đó chính là tiêu chuẩn số một của người cách mạng, là
tiêu chí để phân biệt những kẻ cơ hội, những kẻ giả danh cách mạng chỉ tìm mọi

cách thu vén lợi ích cá nhân, “trung với nước, hiếu với dân” thể hiện phẩm chất đạo
đức hàng đầu của người cách mạng, là giá trị văn hóa cao đẹp nhất, điển hình của
người cán bộ, đảng viên và còn là mối quan hệ rộng lớn của mỗi con người với Tổ
quốc, với dân tộc, với toàn thể nhân dân. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này
quyết định đến giải quyết các mối quan hệ khác và phẩm chất đạo đức khác. Có
“trung với nước, hiếu với dân” thì người cách mạng mới cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Hồ Chí Minh khẳng định “ĐĐCM có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải,
trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân” [23, tr.480]. Người
còn chỉ rõ, ĐĐCM là, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng đó là
điều chủ chốt nhất, ĐĐCM là tuyệt đối trung thành với Đảng với dân. Đây chính là
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của chúng ta. Từ “trung”, “hiếu” của đạo đức truyền
thống đã được Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới, đưa vào nội dung mới,
phản ánh ĐĐCM cao hơn, rộng hơn. Người khắc phục triệt để tư tưởng “trung,
hiếu” phong kiến là chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Người làm một cuộc cách

17


mạng trong quan niệm đạo đức “trung” “hiếu”, Hồ Chí Minh gạt bỏ cái hạn chế cốt
lõi trong đạo đức cũ là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến mà ông vua
là đại diện theo kiểu “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Người không chấp
nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân đối với kẻ áp bức, thống trị mình là
giai cấp phong kiến đã lỗi thời phản động, đó là điều cần phải thay đổi. Đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Người đã dạy, ĐĐCM là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Như vậy, trung với nước, trung với Đảng là yêu cầu hàng đầu trong phẩm chất
ĐĐCM của người cán bộ, đảng viên, là biểu hiện cao nhất thể hiện sự trung thành
tuyệt đối với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc, trung thành với
chế độ XHCN, trung thành với lợi ích của nhân dân.
Hiếu với dân trong xã hội phong kiến chỉ bó hẹp trong khuôn khổ, phạm vi

gia đình, cụ thể là đối với cha mẹ “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”, nghĩa là:
cha bảo con chết, con không chết là bất hiếu, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Hồ Chí
Minh đã khắc phục những hạn chế đó, Người đưa vào đạo “hiếu” một nội dung mới,
rộng lớn hơn. Đó là hiếu với nhân dân lao động, là chủ nhân của đất nước, không
phải là thần dân, con dân của vua như đạo đức phong kiến. Hiếu với dân theo Hồ
Chí Minh là biết dựa vào dân, tin ở dân, lấy dân làm gốc, tôn trọng và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực và lợi ích thuộc về nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích của nhân dân, luôn gần dân, học
hỏi nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh không chỉ làm cuộc cách
mạng trong quan niệm “trung”, “hiếu” mà bản thân Người còn là tấm gương đạo
đức cách mạng mẫu mực về “trung với nước, hiếu với dân”. “Suốt đời tôi hết lòng
hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ
biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” [18, tr. 512]. Tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh soi chiếu, tỏa sáng trong sự nghiệp của chúng ta. Suy nghĩ, học tập về Người
chúng ta nhìn lại những thành quả đã đạt được và nghiêm khắc nhận ra những tồn
tại yếu kém, mà Đảng ta đã chỉ rõ, là vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng

18


viên sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, làm
giảm lòng tin trong nhân dân. Vì vậy, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân” xây
dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng hiện nay chính là luôn trung thành vô hạn với
Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức
cảnh giác, tinh thần trách nhiệm cao, chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
Người đã dạy: Mỗi người có ba trách nhiệm trước Đảng, trước dân, trước
công việc. Trong đó, trước hết cần có ý thức trách nhiệm cao trước công việc, trước
nhân dân làm cho thật tốt rồi đem kết quả đó báo cáo với Đảng, với cấp trên. Theo

Người, xây dựng Tổ quốc là một cuộc chiến đấu khổng lồ cần phải dựa vào sức
mạnh của nhân dân, sự nghiệp xây dựng Tổ quốc muốn thành công thì nhân tố hàng
đầu là phải phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tập thể, đẩy mạnh tu dưỡng rèn
luyện ĐĐCM, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, cục bộ địa phương. Đó
là tinh thần trách nhiệm, ý thức chính trị của chúng ta trước yêu cầu mới của cách
mạng. Đồng thời, phải đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên, công chức có phẩm chất ĐĐCM, trong giai đoạn cách mạng mới,
làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh vĩ đại là lãnh đạo
nhân dân, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Đây là mục
đích cao cả, lợi ích thiêng liêng của Đảng và của nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải theo đạo đức công dân, đó là tuân theo
pháp luật của Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung. Phục vụ nhân dân
trên cơ sở nhân dân là chủ, dân làm chủ. Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì sự
nghiệp cách mạng ấy là của nhân dân, nhân dân là sức mạnh vô địch.
Người còn chỉ rõ, ý thức trách nhiệm của mỗi người trước hết thể hiện
trong quan hệ với nhiệm vụ được giao và công việc phải làm, ý thức trách nhiệm
còn được biểu hiện trong việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, của
Chính phủ, thực hiện đúng đường lối quần chúng, không quan liêu mệnh lệnh chủ
quan. Hồ Chí Minh chỉ rõ, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân là phải đặt lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết, luôn quan tâm chăm lo mọi mặt

19


×