Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nghiên cứu tình hình viêm âm đạo và kết quả điều trị ở phụ nữ có chồng từ 18 – 49 tuổi tại huyện Chợ Mới, An Giang năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.26 KB, 87 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, viêm nhiễm sinh dục luôn là vấn đề quan trọng và đáng
quan tâm đối với sức khỏe của người phụ nữ vì nó là nguyên nhân gây ra
nhiều rối loạn sinh lý và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Viêm nhiễm
đường sinh dục nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng như viêm tiểu khung, thai ngoài tử cung, sẩy
thai, thai chết lưu, vô sinh và thậm chí là ung tử cổ tử cung.
Viêm nhiễm đường sinh dục dưới mà cụ thể là viêm âm đạo gây ra nhiều
hậu quả nặng nề hơn bất cứ bệnh phụ khoa nào [48]. Cùng với những vấn đề
về thể chất và tình cảm liên quan đến viêm âm đạo, sự tổn thất về kinh tế là
vô cùng to lớn [60].
Ở Việt Nam, tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cũng rất cao đặc biệt là
những dạng viêm thông thường như viêm âm hộ, viêm âm đạo, viêm cổ tử
cung. Tùy từng tác giả, từng vùng miền, trong các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
viêm nhiễm đường sinh dục dưới chiếm tỷ lệ từ 42 - 64%. Là một trong
những bệnh phổ biến và là lý do bệnh nhân đến khám phụ khoa nhiều nhất,
80% người đến khám bệnh phụ khoa là viêm nhiễm đường sinh dục mà viêm
âm đạo là bệnh hay gặp hơn cả, chiếm 90% [34].
Huyện Chợ Mới là huyện vùng sông nước, chủ yếu sống nghề nông tập
quán về sinh hoạt có những nét đặc thù riêng. Từ năm 2001, chương trình
quốc gia về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, hàng năm có 2 đợt truyền thông
lồng ghép với chăm sóc sức khỏe sinh sản tổ chức khám và điều trị bệnh phụ
khoa thông thường trên diện rộng toàn huyện đã và đang làm thay đổi kiến
thức thái độ hành vi về bệnh lý phụ khoa và khám chữa bệnh phụ khoa.
Theo kế hoạch 65/KH-UBND của Ủy ban Nhân Dân huyện Chợ Mới,
ngày 17/10/2012, Kế hoạch thực hiện kế hoạch hành động tỉnh An Giang về


2



thực hiện chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2015 và định
hướng đến năm 2020, theo đó mục tiêu số 7 đề ra chỉ tiêu giảm 15% vào năm
2015 và đến năm 2020 giảm 30% số trường hợp nhiễm khuẩn đường sinh sản.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu chính thức nào về tình hình
viêm nhiễm đường sinh dục ở phụ nữ cũng như đánh giá hiệu quả của các
phác đồ đã áp dụng trên phạm vi toàn huyện [38].
Vì thế, chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu tình hình viêm âm đạo và kết
quả điều trị ở phụ nữ có chồng từ 18 – 49 tuổi tại huyện Chợ Mới, An Giang
năm 2013”.
Với các mục tiêu như sau:
1. Xác định tỷ lệ viêm âm đạo ở phụ nữ có chồng từ 18 - 49 tuổi ở huyện
Chợ Mới, An Giang năm 2013.
2. Xác định tác nhân gây viêm âm đạo ở phụ nữ có chồng từ 18 – 49 tuổi ở
huyện Chợ Mới, An Giang năm 2013.
3. Đánh giá kết quả điều trị viêm âm đạo ở phụ nữ có chồng từ 18 – 49 tuổi
ở huyện Chợ Mới, An Giang năm 2013.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIÊM ÂM ĐẠO
Viêm nhiễm đường sinh dục là các viêm nhiễm tại cơ quan sinh dục bao
gồm cả viêm nhiễm do bệnh lây truyền qua đường tình dục và viêm nhiễm
khác không lây truyền qua quan hệ tình dục, cả phụ nữ và nam giới đều có thể
bị mắc.
Viêm sinh dục nữ là một bệnh phụ khoa thông thường, với một triệu
chứng chung trong hầu hết các trường hợp là huyết trắng (còn gọi là khí hư).

Tùy nguyên nhân gây bệnh và cơ quan mang bệnh mà viêm sinh dục nữ có thể
thể hiện dưới nhiều bệnh cảnh khác nhau.
Nếu phân chia theo cơ quan bị bệnh, viêm sinh dục nữ được phân thành
viêm sinh dục trên và viêm sinh dục dưới. Nếu tính theo tình huống mắc bệnh,
người ta phân biệt viêm sinh dục do giao hợp và viêm sinh dục không do giao
hợp. Ngoài ra, tùy theo tuổi tác, có viêm sinh dục ở trẻ em, viêm sinh dục ở
tuổi dậy thì, viêm sinh dục trong tuổi sinh đẻ và viêm sinh dục ở tuổi già .
Nhóm từ “viêm sinh dục dưới” để chỉ tình trạng viêm nhiễm các cơ quan
sinh dục nằm ngoài phúc mạc gồm: âm hộ, âm đạo, cổ tử cung. Trong nghiên
cứu nầy chỉ đề cập đến viêm âm đạo.
Viêm âm đạo là tình trạng viêm của niêm mạc âm đạo, thông thường
biểu biện bởi tình trạng viêm đỏ, kích ứng, ngứa và tăng tiết dịch âm đạo;
ngoài ra có thể có các triệu chứng ở vùng liên quan như âm hộ, vùng tầng
sinh môn [10].


4

1.2. TÌNH HÌNH VIÊM ÂM ĐẠO
Theo Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm có khoảng 330-390 triệu phụ nữ
mắc bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới (viêm âm đạo, cổ tử cung).
Ở Mỹ, hàng năm có khoảng 10 triệu phụ nữ đến khám vì viêm âm đạo.
Một số nước đưa ra tỷ lệ viêm âm đạo khá cao dao động từ 33 đến 65%.
Phụ nữ Việt Nam, trong độ tuổi sinh đẻ có tỷ lệ viêm âm đạo vào loại
cao so với các nước trên thế giới và khu vực.
Viêm âm đạo do vi trùng chiếm 40 - 50% các trường hợp viêm âm đạo.
Tỉ lệ viêm âm đạo do vi trùng thật khó xác định nhưng nhiều nghiên cứu cho
thấy khoảng 10 - 41% phụ nữ đã bị viêm âm đạo do vi trùng ít nhất một lần
gặp trong đời, viêm âm hộ, âm đạo gặp nhiều nhất ở những phụ nữ có nhiều
bạn tình và thấp nhất ở phụ nữ chưa quan hệ tình dục. Bệnh này không được

xem là một bệnh lây truyền qua dường tình dục cho dù người bệnh có thể mắc
qua quan hệ tình dục.
Viêm âm đạo do vi nấm: thường thấy từ 20 - 25% trường hợp. Khoảng
75% số phụ nữ bị nhiễm nấm âm đạo ít nhất một lần. 80 - 90% trường hợp
viêm âm hộ, âm đạo do nấm Candida là do sự phát triển quá mức của nấm
Candida albicans. Dùng kháng sinh bừa bãi sẽ diệt các vi khuẩn cộng sinh có
ích trong âm đạo và gây ra sự bùng phát của vi nấm Candida. Bệnh hiếm khi
gặp ở bé gái trước tuổi dậy thì và phụ nữ độc thân; viêm ÂH, ÂĐ do vi nấm
thường gặp ở phụ nữ có thai, đái tháo đường không kiểm soát, dùng thuốc
tránh thai hoặc dùng nhiều kháng sinh.
Viêm âm đạo do Trichomonas: chiếm 15 - 20% các trường hợp viêm âm
đạo. Ước tính có khoảng 120 triệu phụ nữ nhiễm Trichomonas trên toàn thế
giới. Khác với 2 loại viêm âm đạo mô tả ở trên, bệnh do Trichomonas được
xem là một bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bệnh xảy ra ở cả nam lẫn nữ
và nguyên nhân là do nhiễm ký sinh trùng đơn bào Trichomonas vaginalis.


5

Nhiễm Trichomonas vaginalis thường kết hợp với những bệnh lây truyền qua
đường tình dục khác bao gồm cả HIV/AIDS.
* Viêm âm đạo tái phát
Là tình trạng viêm âm đạo lập lại, thường do sự lây lan qua đường tình
dục, phải điều trị cả hai và cần sử dụng các hình thức phòng chống viêm
nhiễm khi quan hệ sinh lý trong quá trình điều trị.
* Di chứng
Viêm nhiễm âm đạo có nguy cơ lây lan đến cổ tử cung, đến lớp niêm
mạc tử cung và vòi trứng, gây nên viêm nhiễm vùng chậu, làm tắc vòi trứng
gây ra vô sinh…
* Khó khăn trong điều trị

Không giải quyết tận gốc: Các dung dịch vệ sinh hằng ngày chỉ mang
đến tác dụng “làm sạch” vùng kín, tác dụng diệt khuẩn thấp, không giải quyết
được tận gốc “ổ” viêm nhiễm phát sinh từ bên trong âm đạo.
Hạn chế của thuốc điều trị: Các loại thuốc kháng sinh đường uống hay
đặt điều trị theo nguyên nhân gây bệnh không đúng liều, không đủ thời gian,
hoặc không điều trị cả 2, hoặc điều trị lạm dụng kháng sinh, dùng kéo dài khả
năng diệt khuẩn mạnh có thể diệt hệ vi khuẩn có ích, làm mất cân bằng sinh lý
âm đạo.
Yếu tố tâm lý: Do ngại tốn kém, mất thời gian, nhất là tâm lý e ngại của
các phụ nữ trẻ, nên không khám ngay khi mới bắt đầu viêm nhiễm làm cho
các dấu hiệu viêm nhiễm trở nên trầm trọng hơn …


6

1.3. NGUYÊN NHÂN GÂY VIÊM ÂM ĐẠO
1.3.1. Sinh lý bệnh
∗ Tiết dịch sinh lý
Trong trạng thái bình thường, tiết dịch sinh lý lệ thuộc nội tiết của cơ thể,
có hai nguồn gốc:
-Bong biểu mô âm đạo:
Bình thường môi trường âm đạo là toan (pH từ 3,8 đến 4,6) có tác dụng
bảo vệ khỏi bị nhiễm khuẩn trừ nấm. Độ toan âm đạo là do glycogen tích lũy
trong tế bào biểu mô chuyển đổi thành acid lactic khi có trực khuẩn
Doderlein. Trữ lượng glycogen ở biểu mô phụ thuộc vào estrogen. Biểu mô
âm đạo bong nhiều làm cho khí hư giống như sữa, lượng ít, đặc, đục, bao gồm
các tế bào bề mặt không có bạch cầu đa nhân[4] [34],.
-Chất nhầy cổ tử cung:
Biểu mô trụ của ống cổ tử cung chế tiết ra chất nhầy trong, tương tự lòng
trắng trứng, kết tinh thành hình lá dương xỉ. Lượng chất nhầy tăng lên từ ngày

thứ 8 đến 15 ở người có vòng kinh đều. Ở thời điểm phóng noãn, chất nhầy cổ
tử cung rất nhiều, làm ẩm ướt quần lót.
Mọi tiết dịch sinh lý thường không bao giờ gây triệu chứng cơ năng, kích
thích, ngứa đau, đau khi giao hợp và không có mùi.
∗ Khí hư
Khí hư là dịch không có máu chảy ra từ cơ quan sinh dục bao gồm cổ tử
cung, âm đạo, tiền đình. Khí hư là lý do buộc người phụ nữ đi khám bệnh
nhiều nhất và hay bị bỏ qua vì nhận thức khí hư liên quan đến bệnh lý viêm
nhiễm đường sinh dục dưới chưa cao [11].
Khí hư có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào: bé gái, tuổi hoạt động sinh
dục, mãn kinh. Trong thực hành khám bệnh, thầy thuốc được huấn luyện là
cần chẩn đoán được khí hư và tìm ra được nguyên nhân [34].


7

1.3.2. Nguyên nhân gây viêm âm đạo
Bình thường, dịch âm đạo chứa 108 đến 1012 vi khuẩn/ml bao gồm trực
khuẩn doderlin, các cầu khuẩn, các trực khuẩn không gây bệnh, trong đó có
trực khuẩn doderlin chiếm 50% - 88%.
Ở phụ nữ bình thường, hệ vi sinh vật có trong âm đạo ở trạng thái cân
bằng động. Mất sự cân bằng này có thể dẫn tới tình trạng viêm nhiễm âm đạo.
Âm đạo có độ pH acid là môi trường không thuận lợi cho vi khuẩn gây bệnh
phát triển. Để có được môi trường âm đạo cân bằng cần phải nhờ đến sự có
mặt bình thường của vi khuẩn doderlin có sẵn trong âm đạo.
Khi môi trường âm đạo bị mất cân bằng, lượng vi khuẩn doderlin sụt
giảm và các vi khuẩn gây hại chiếm ưu thế hơn sẽ xảy ra viêm nhiễm âm
đạo.
Viêm âm đạo không chỉ là vấn đề vi khuẩn, đó là tương quan, kết hợp
của nhiều yếu tố.

∗ Vật chủ
Bình thường âm đạo dễ dàng tự vệ chống lại vi khuẩn bằng các cơ chế
như sau:
Biểu mô niêm mạc âm đạo chứa nhiều glycogen. Các tế bào biểu mô âm
đạo bẻ gãy glycogen thành các monosaccharid rồi sau đó được chuyển đổi
thành acid lactic bởi bản thân tế bào và lactobaccilli [43] (trực khuẩn
Doderlein) duy trì pH âm đạo dưới 5,5 không thuận lợi cho vi khuẩn phát
triển.
Mặt khác ở niêm mạc âm đạo có dịch thấm từ mạng tĩnh mạch, bạch
mạch có đặc điểm kháng vi khuẩn [34].


Vi khuẩn
Hệ vi sinh vật ở đường sinh dục của phụ nữ rất phức tạp. Ở phụ nữ khỏe

mạnh, có khoảng 109 tế bào vi khuẩn trong 1 gram dịch tiết âm đạo. Ở đường


8

sinh dục dưới, khi phân lập, người ta tìm thấy sự đa dạng của các vi khuẩn ưa
khí và kỵ khí, nấm, virus và ký sinh trùng.
Những yếu tố tác động lên những vi sinh vật nầy bao gồm các giai đoạn
của vòng kinh, hoạt động tình dục, sinh đẻ, phẫu thuật, điều trị kháng sinh và
dị vật. Đường sinh dục trên thì thường vô khuẩn, nhưng vi khuẩn ở đường
sinh dục dưới thường đi lên buồng tử cung, hai vòi trứng hoặc tiểu khung do
kinh nguyệt, dụng cụ, phẫu thuật, dị vật…
∗ Những sự thay đổi trong hệ vi khuẩn âm đạo
Có sự thay đổi rất lớn về hệ vi khuẩn âm đạo giữa các nhóm phụ nữ khác
nhau và trên cùng một phụ nữ ở những thời gian khác nhau.

Ở phụ nữ bình thường, trong độ tuổi sinh đẻ, lactobacilli là những vi sinh
vật chiếm ưu thế ở âm đạo
Tuổi: ở trẻ gái trước thời kỳ dậy thì, lactobacilli ít hơn so với ở phụ nữ
thời kỳ sinh đẻ. Ở những phụ nữ thời kỳ mãn kinh, lactobacilli cũng giảm
nhưng điều trị bằng estrogen làm tăng tỷ lệ hồi phục lactobacilli âm đạo và cả
diphtheroid.
Hoạt động tình dục: có thể dẫn đến những thay đổi như làm tăng
mycoplasma và các tác nhân lây truyền qua đường tình dục như: lậu,
chlamydia trachomatis, herpes virus.
Có thai và sinh đẻ: trong thời kỳ mang thai, một số nghiên cứu thấy rằng
có sự tăng mạnh lactobacilli. Tuy nhiên, sau khi đẻ, có những thay đổi đột
ngột ở hệ vi khuẩn âm đạo. Có sự tăng rõ rệt của những loài kỵ khí vào ngày
thứ ba của thời kỳ hậu sản. Những yếu tố ảnh hưởng bao gồm: chấn thương,
sản dịch, vật liệu khâu, thăm khám trong chuyển dạ, thay đổi về nồng độ
hormon. Vào khoảng tuần thứ sáu sau đẻ, hệ vi khuẩn âm đạo trở về trạng thái
bình thường.


9

Phẫu thuật: những thủ thuật lớn như cắt tử cung dẫn đến sự thay đổi lớn
ở hệ vi khuẩn âm đạo, bao gồm giảm lactobacilli và tăng những trực khuẩn
gram âm ưa khí và kỵ khí (E.coli và các loài Bacteroides chiếm ưu thế). Thêm
vào đó, việc dùng kháng sinh làm giảm các vi khuẩn nhạy cảm và tăng các vi
khuẩn đề kháng [74].
Quan hệ tình dục: là yếu tố thuận lợi cho nhiễm khuẩn đặc hiệu.
Đái tháo đường, thiếu hoặc cường estrogen, suy giảm miễn dịch, dùng
kháng sinh là những yếu tố làm thay đổi hệ vi khuẩn âm đạo [34].
1.3.3. Tác nhân gây bệnh
1.3.3.1. Viêm âm đạo do nấm:

∗ Đặc điểm vi sinh vật
Nấm Candida albicans gây 85% đến 90% viêm âm đạo do nấm. Các
chủng khác của Candida như C.glabrata và C.tropicalis có thể gây những
triệu chứng viêm âm hộ, âm đạo và có khuynh hướng kháng thuốc [59].
Nấm candida thuộc lớp Adelomycetes, là loại nấm hạt men với các tế
bào hạt men nảy chồi có kích thước 3-5 mm [3].
Candida là một loại nấm biến hình mà bình thường tồn tại dưới dạng
men nhưng, người ta thấy, trong những điều kiện thiếu oxy chúng biến thành
dạng bào tử [79].
Những vùng da và niêm mạc lan rộng bị ngứa và viêm thường liên quan
với sự xâm nhập vi thể của nấm với những tế bào biểu mô đường sinh dục
dưới. Điều đó gợi ý một độc tố hoặc enzym ngoại bào có thể đóng vai trò
trong sinh bệnh học của bệnh nầy. Những bệnh nhân bị nấm âm đạo mà có
triệu chứng thường có sự tập trung rất cao của những vi sinh vật nầy
(>104/ml) so với những bệnh nhân không có triệu chứng (<10 3/ml). Những
bệnh nhân bị viêm do nấm đặc biệt là nhiễm nấm mãn tính tái phát có thể có


10

hiện tượng tăng cảm giác da và niêm mạc [79] và có thể sau khi điều trị khỏi
nấm một thời gian vẫn còn ngứa [67].
∗ Yếu tố nguy cơ
Trong trạng thái bình thường, 15% phụ nữ có nấm trong âm đạo. Thay
đổi vi khuẩn chí và pH âm đạo có thể cho phép nấm phát triển và gây rối loạn.
Tùy thời kỳ trưởng thành, thai nghén... do thay đổi về tình trạng hormon,
biểu mô âm đạo quá sản và giải phóng nhiều glycogen. Lactobacilli chuyển
đổi glycogen thành acid lactic làm hạ pH âm đạo xuống 3,6 rất thuận lợi cho
nấm men [23], [34], [39].
Tránh thai nội tiết: nhất là loại viên tránh thai kết hợp chứa 50mcg

ethynylestradiol, tạo thuận lợi cho độ toan âm đạo và mất cân bằng hệ vi
khuẩn chí của âm đạo [34]. Nhưng ngày nay những công thức thuốc tránh thai
hiện đại đã có thể khắc phục được điều nầy [67].
Các kháng sinh: tiêu diệt các vi khuẩn ở âm đạo dẫn đến môi trường âm
đạo bị biến đổi, nấm dễ dàng phát triển.
Các thuốc corticoid và các hóa chất chống ung thư làm giảm sức đề
kháng của cơ thể.
Các loại xà phòng, thuốc sát khuẩn làm thay đổi độ pH của âm đạo.
Một số bệnh nhân đái tháo đường, lao, ung thư và tất cả các bệnh làm
rối loạn nặng tình trạng toàn thân làm người bệnh dễ bị mắc nấm [34].
∗ Triệu chứng lâm sàng
- Cơ năng
Ngứa âm hộ ở các mức độ khác nhau, kèm theo bỏng rát.
Khí hư nhiều, tăng lên trước lúc hành kinh.
Đau khi giao hợp kèm theo cảm giác bỏng rát sau giao hợp.
Đái khó, bỏng rát khi đái.
- Thực thể


11

Âm hộ đỏ, phù nề. Môi lớn có chất bựa trắng ngà bao phủ. Tổn thương
đỏ có xu hướng lan ra nếp bẹn, mông, có thể thấy sẩn mụn nước rải rác.
Qua mỏ vịt thấy niêm mạc âm đạo đỏ, dễ chảy máu, có lớp bựa trắng bao
phủ (như sữa đông).
Trong túi cùng sau, khí hư rất nhiều, vón cục giống như chất bã đậu.
Cổ tử cung đỏ, phù nề, đôi khi bị loét chợt.
∗ Cận lâm sàng
Soi tươi tìm nấm: nhỏ nước muối sinh lý vào khí hư rồi soi dưới kính
hiển vi sẽ thấy các bào tử nấm Candida có hình bầu dục hoặc tròn đường kính

3- 6 mcg, có chồi hoặc không có chồi, khi nẩy chồi tạo hình số 8. Ngoài tế
bào hạt men còn có cả sợi tơ nấm. Phải có ít nhất 3 bào tử nấm trong một vi
trường.
Soi tươi với dung dịch KOH 5%: lấy bệnh phẩm lên lam kính, nhỏ
dung dịch KOH 5%. Thành tế bào Candida kháng lại chất kiềm. Khi nhỏ
dung dịch KOH vào, tất cả các tế bào khác sẽ bị phá hủy, chỉ còn lại Candida.
Nhuộm Gram: xác định nấm khi thấy có từ 3 - 5 bào tử nấm ở dạng nảy
chồi trên 1 vi trường, bắt màu Gram dương. Phương pháp nầy tuy phức tạp
hơn soi tươi nhưng dễ phát hiện nấm hơn.
Nuôi cấy: Dùng tăm bông lấy bệnh phẩm nuôi cấy trong môi trường
thạch Sabouraud trong vài giờ và ủ ấm 2 ngày ở nhiệt độ 37 oC, sẽ mọc lên
những khuẩn lạc màu trắng đục như kem. Để xác định chủng Candida nào,
còn phải làm thêm một số thử nghiệm như cấy trong huyết thanh để xác đinh
C.albicans; lên men đường, hấp thu đường để xác định các chủng nấm
Candida khác [13], [18], [67].


12

1.3.3.2. Viêm âm đạo do Trichomonas
∗ Đặc điểm vi sinh vật
Trichomonas là sinh vật đơn bào có roi hình ô van và hơi lớn hơn tế bào
bạch cầu một chút. Con người là vật chủ duy nhất của Trichomonas. Sinh vật
nầy ưa thích môi trường mà độ pH = 5 hoặc hơi lớn hơn một chút [67].
Trichomonas là một sinh vật kỵ khí có khả năng tạo ra hydro để kết
hợp với oxy và tạo ra một môi trường yếm khí [59].
Ở phụ nữ, sinh vật nầy chỉ gây nhiễm chủ yếu âm đạo và cổ tử cung
nhưng niệu đạo và bàng quang có thể cũng liên quan [67].
∗ Triệu chứng lâm sàng
Âm hộ đỏ rực với các chấm đỏ, thậm chí xung huyết.

Khám mỏ vịt: dịch tiết nhiều, lỏng, xanh nhạt, có bọt. Âm đạo đỏ, đôi khi
có hạt.
Cổ tử cung đỏ, kém bắt màu lugol, tạo ra hình ảnh “đêm sao” khi soi cổ
tử cung [4].
Có thể có chảy máu rải rác dưới biểu mô và nhìn thấy những chấm viêm
đặc trưng của nhiễm trùng do trichomonas: cổ tử cung hình quả dâu tây
(strawberry cervix) [67].
Tiết dịch âm đạo kèm theo ngứa và giao hợp đau. Người bệnh rất đau khi
đặt mỏ vịt, khi thăm âm đạo [4].
∗ Cận lâm sàng
Soi tươi thấy trichomonas ở giữa các bạch cầu. Trichmonas trông
giống tế bào tròn hay bầu dục, nhân nhỏ, khó nhìn, bào tương sáng, to gấp
rưỡi bạch cầu đa nhân. Trichomonas di chuyển theo các hướng khác
nhau, màng tế bào lượn sóng.
Nếu soi tươi âm tính, có thể nhuộm phiến đồ theo phương pháp MayGrumwald Giemsa và nuôi cấy. Trichomonas có thể nuôi cấy nhưng phương


13

pháp nầy không được áp dụng rộng rãi. Nhuộm huỳnh quang miễn dịch hiện
nay đã được áp dụng và có thể có ích trong chẩn đoán ở những bệnh nhân
với các triệu chứng gợi ý viêm âm đạo do Trichomonas nhưng soi tươi âm
tính [67].
1.3.3.3. Viêm âm đạo do vi khuẩn
∗ Đặc điểm vi sinh vật
Viêm âm đạo do vi khuẩn (Bacterial vaginosis: B.vaginosis hoặc BV)
không phải là một nhiễm trùng theo nghĩa thông thường mà là sự mất cân đối
hệ vi khuẩn, trong đó có sự phát triển quá mức hoặc sự suy giảm của các
loại vi khuẩn bình thường vẫn cư trú ở âm đạo người. Sự thay đổi vi khuẩn
chí bình thường của âm đạo gây ra tình trạng thiếu vi khuẩn lactobacilli là

loại vi khuẩn sản xuất ra hydrogen peroxide (oxy già - H 2O2), dẫn đến tình
trạng phát triển quá mức của những vi khuẩn yếm khí, bao gồm Gardnerella
vaginalis (G. vaginalis), Mobiluncus (là những trực khuẩn Gram âm nhỏ và
gấp khúc) và một số loài Bacteroides [59], [67].
Vi khuẩn yếm khí có thể tìm thấy với tỷ lệ ít hơn 1% của vi khuẩn chí âm
đạo ở phụ nữ bình thường. ở phụ nữ bị BV, những vi khuẩn yếm khí gấp 100
đến 1000 lần ở phụ nữ bình thường. Lactobacilli thường không có mặt [59].
Những vi khuẩn kỵ khí nầy sản xuất ra các enzym phân hủy protein
thành các acid amin như putrescine, cadaverine và trimethylamine. Trong môi
trường kiềm, các acid amin nầy sẽ biến đổi thành dạng hơi và tạo nên mùi cá
ươn [56].
G.vaginalis được tìm thấy ở âm đạo của 40-50% bệnh nhân không có BV
và cũng tìm thấy ở những bệnh nhân đã được chữa khỏi BV. Thuật ngữ
Bacterial vaginosis được dùng để mô tả tình trạng tăng khí hư âm đạo mà
không có các triệu chứng viêm lâm sàng và một sự vắng mặt dễ thấy của bạch
cầu [64].


14

Bacterial vaginosis là một hình thái viêm âm đạo đã được nghiên cứu rất
nhiều. Nhưng có một hình thái viêm âm đạo khác cũng do vi khuẩn gây ra
nhưng có nhiều đặc điểm khác với BV.
Trong cuốn Sản Phụ khoa cơ bản (Mỹ 1993), Gant và Cunningham
phân biệt hai loại bệnh là Bacterial vaginosis và Bacterial vaginitis. Bacterial
vaginitis là một bệnh nhiễm khuẩn âm đạo thực sự thường đi kèm với viêm
đường tiết niệu hoặc không. Tính chất khí hư thường không đặc hiệu và
thường có mùi hôi. Thăm trong bệnh nhân thường đau. Chẩn đoán vi
sinh vật thường tương tự với BV nhưng có rất nhiều tế bào bạch cầu cùng
với Clue cells và vi khuẩn. Các vi khuẩn thường là dạng vi khuẩn đường ruột

và là một tình trạng nhiễm vi khuẩn từ trực tràng sang âm đạo.Việc điều trị
thường là dùng kháng sinh dựa trên kết quả nuôi cấy vi khuẩn từ dịch âm đạo
và làm kháng sinh đồ [67].
Nuôi cấy vi khuẩn trong hình thái viêm âm đạo nầy chủ yếu gặp liên cầu
nhóm B, Escheria coli, Staphylococcus aureus và Trichomonas vaginalis.
Nồng độ axit lactic thì giảm nặng nề, độ pH âm đạo > 6.
Cũng đối lập với BV, viêm âm đạo ưa khí gây ra đáp ứng miễn
dịch vật chủ mạnh mẽ, sản xuất ra các interleukin-6, interleukin-1- β và
các yếu tố ức chế leukaemia (Leukaemia inhibitory factor – L, 1 interleukin
6 thuộc lớp cytokin, là một protein trong tế bào, tác động đến sự trưởng thành
và phát triển của tế bào – wikipedia) trong dịch âm đạo. IL-6 đã được biết rõ
là dấu hiệu chỉ điểm của nhiễm trùng ối, dọa đẻ non và chuyển dạ đẻ non.
Theo một số nghiên cứu, IL-6 không đổi ở nhóm B. vaginosis so với nhóm có
vi khuẩn chí bình thường nhưng IL-6 tăng gấp 5 lần ở nhóm viêm âm đạo ưa
khí (p<0,0001) [47], [58], [77].
Vì vậy, viêm âm đạo ưa khí có nhiều khả năng hơn là BV gây ra các biến
chứng của thai nghén như nhiễm khuẩn ối từ dưới lên, vỡ ối non hoặc đẻ non.


15

Giống như BV, nguyên nhân của viêm âm đạo ưa khí còn chưa được
biết. Sự hiện diện của một tình trạng giống như viêm teo âm đạo với rất nhiều
tế bào cận đáy, dường như chỉ ra một sự thiếu kích thích bởi estrogen trong
âm đạo. Số lượng lớn các vi khuẩn đường tiêu hoá trong âm đạo gợi ý có sự
di chuyển của vi khuẩn từ trực tràng sang [49]. Ở Đức, Petersen nghiên cứu
về thử nghiệm Dequalinum chloride điều trị viêm âm đạo và có một số kết
luận về viêm âm đạo ưa khí: một nhiễm khuẩn âm đạo đi cùng với tăng độ pH
và một sự rối loạn cao của hệ vi khuẩn âm đạo khác với BV. Các tác nhân ưa
khí không bắt buộc liên quan đến tình trạng nầy là Staphylococci, Escherichia

coli, các vi khuẩn đường ruột khác và Mycoplasma spp. Mà vai trò sinh
bệnh còn chưa rõ. Chưa có phương pháp điều trị chuẩn nào cho loại viêm âm
đạo nầy [72].
Nghiên cứu của Peterson và cs [72] cũng không tìm thấy sự có mặt của
bạch cầu trong âm đạo của những bệnh nhân thuộc nhóm B.vaginosis.
∗ Triệu chứng lâm sàng
Đa số bệnh nhân phàn nàn ra khí hư nhiều, có thể kèm theo mùi khó
chịu. Khi khí hư có mùi khó chịu thường là sau giao hợp [59].
Khoảng 30- 50% phụ nữ mắc B. vaginosis không có các triệu chứng như
trên [53],[71].
Khám âm đạo: khí hư thường không đặc hiệu như khí hư được mô tả
trong bệnh gây ra bởi lậu, trichomonas hay nấm C. albicans mà nó thường
loãng, màu xám và không có đặc tính của nhiễm trùng [59].
∗ Cận lâm sàng
-pH dịch âm đạo
Độ pH âm đạo có thể được xác định bằng cách nhúng giấy quỳ vào trong
dịch tiết âm đạo hay áp giấy quỳ vào thành bên âm đạo. So sánh màu trên
giấy quỳ với bảng màu chuẩn. pH âm đạo bình thường từ 3,8 đến 4,6.


16

pH > 4,5 được tìm thấy ở 80-90% bệnh nhân bị B. vaginosis [45],
[46], [60]. pH âm đạo tiếp tục cao > 4,7 ở 59,6% bệnh nhân từ 4}7 ngày sau
điều trị và 26,3% bệnh nhân sau 1 tháng đã hết BV [61]. Vì vậy, độ pH AĐ có
giá trị tiên lượng tái phát hay không vẫn còn là một câu hỏi.
-Test sniff hay Whiff test: Nhỏ vài giọt KOH vào tiêu bản khí hư thấy bốc ra
mùi cá ươn. Test sniff dương tính gợi ý B. vaginosis [62].
-Clue cells: Nhỏ 1-2 giọt nước muối sinh lý vào dịch âm đạo, hòa tan rồi phết
lên 1 lam kính và đậy lamen. Hoặc dịch âm đạo được cho vào tube có 2ml

dung dịch nước muối sinh lý sau đó nhỏ lên lam kính. Xem dưới kính hiển vi
vật kính 10 và 40, clue cells là những tế bào biểu mô âm đạo mà bị bao phủ
bởi những cầu trực khuẩn (coccobacilli). Với người có kinh nghiệm, soi
tươi tìm clue cells có độ nhạy 60% và độ đặc hiệu 98% khi chẩn đoán
Bacterial vaginosis [43], [61].
-Các phương pháp đặc biệt chẩn đoán Bacterial vaginosis.
Papanicolaou smear (Pap smear): clue cells và những thay đổi trong hệ
vi khuẩn chí âm đạo có thể tìm thấy bằng Pap smear, thường là một phát hiện
tình cờ và có giá trị chẩn đoán giới hạn so sánh với các phương pháp khác.
Tuy nhiên, khi so sánh với chẩn đoán lâm sàng của B. vaginosis, Pap
smear có độ nhậy là 90% và độ đặc hiệu là 97%. Giá trị chẩn đoán dương tính
là 94% và giá trị chẩn đoán âm tính là 95% [73].
Nhuộm Gram (Gram stain): Theo Spiegel và Amsel, phương pháp
nhuộm Gram được cho là thích hợp để chẩn đoán B. vaginosis [20].
Phương pháp của Spiegel: lam kính được soi bằng vật kính dầu.
+ ít:

1+ = < 5 vi khuẩn trong một vi trường

+ Trung bình:
+ Nhiều:

2+ = 6- 30 vi khuẩn trong 1 vi trường.

3+ = > 30 vi khuẩn trong 1 vi trường


17

Bình thường: Điểm 3+ hoặc 2+ của những trực khuẩn gram dương

không có bào tử (Hình thái lactobacilli).
Bacterial vaginosis: vắng mặt hoặc giảm hình thái lactobacilli (1+) so
sánh với các vi khuẩn khác đặc biệt là trực khuẩn gram âm hoặc trực khuẩn
gram biến đổi (hình thái Gardnerella vaginalis).
Không định nghĩa được: Số lượng vi khuẩn ít (1+) hoặc vi khuẩn bao
gồm một hỗn hợp các hình thái khác nhau và không có loại nào chiếm ưu thế.
Nấm (2+) hoặc nhiều hơn cũng được bao gồm trong nhóm nầy [80].
Nugent đưa ra những tiêu chuẩn chẩn đoán dựa trên thang điểm từ 0 đến
10, trong đó điểm từ 0 đến 3 là bình thường, điểm 7 trở lên là BV và điểm từ
4 đến 6 được cho là trung gian [68].
Các hình thái VK được tính điểm như là số lượng trung bình được nhìn
thấy trên một vi trường. Tổng số điểm = Lactobacilli + G. vaginalis + trực
khuẩn gấp khúc.
0: không có hình thái vi khuẩn hiện diện.
+1: < 1 hình thái vi khuẩn hiện diện
+2: 1-4 hình thái vi khuẩn hiện diện
+3: 5-30 vi khuẩn hiện diện
+4: > 30 vi khuẩn hiện diện [68].
Có khá nhiều bệnh nhân được chẩn đoán ở trong hình thái trung gian
theo thang điểm trên. Những bệnh nhân nầy có thể tiến triển thành BV hoặc
khỏi tự phát. Thực sự yếu tố nào khởi động quá trình nầy còn chưa được
biết[74].
Sự hữu ích của phương pháp nhuộm gram được đánh giá bởi rất nhiều
tác giả. Đây là một phương pháp bổ sung có giá trị cho chẩn đoán lâm sàng.
Gram stain là phương pháp hữu ích để loại trừ BV bởi vì nó có giá
trị chẩn đoán âm tính cao [64]. Một số tác giả cho rằng phương pháp nhuộm


18


Gram cho chẩn đoán BV thì ít khách quan hơn tất cả các yếu tố khác ngoại
trừ độ pH âm đạo. Tuy nhiên, lam kính có thể kiểm tra lại được [64].
Nuôi cấy G. vaginalis: phương pháp nuôi cấy được khuyên là không nên
làm thường quy vì vi khuẩn nầy là một trong những thành phần phổ biến của
vi khuẩn chí nội sinh âm đạo [51]. Mặc dù 95% phụ nữ bị B. vaginosis có kết
quả nuôi cấy dương tính với Vvi khuẩn nầy, có 40% phụ nữ bình thường cũng
có kết quả dương tính [74]. Thêm vào đó, khi nuôi cấy bằng những môi
trường thạch có lựa chọn sau khi điều trị thành công B.vaginosis, 50% bệnh
nhân vẫn còn G. vaginalis trong dịch tiết âm đạo [81].
Phương pháp nuôi cấy ưa khí và kỵ khí được làm trên những loại đĩa
thạch khác nhau và ủ ấm trong những môi trường khác nhau và được kiểm tra
sau những số ngày nhất định. Người ta nhận định về những loại vi khuẩn hoặc
nấm mọc trên những môi trường thích hợp và phân loại về mức độ (1+, 2+,
3+) dựa vào số lượng khuẩn lạc mọc lên.
Bình thường: vi khuẩn chí bao gồm số lượng trung bình hoặc nhiều vi
khuẩnlactobacilli và ít VK khác (1+), thậm chí G.vaginalis cũng được chấp
nhận nếu có sự chiếm ưu thế của lactobacilli.
Bacterial vaginosis: lactobacilli hoàn toàn vắng mặt hoặc 1+, và số
lượng vi khuẩn khác, đặc biệt trực khuẩn gram âm kỵ khí và G.vaginalis, 2+
hoặc hơn.
Không định nghĩa được: Lactobacilli 2+ hoặc ít hơn và những vi khuẩn
ưa khí (staphylococci, coli, liên cầu nhóm B, nấm) 3+ [82].
Tóm lại: Chẩn đoán BV chủ yếu dựa vào các yếu tố lâm sàng. Trong một
số trường hợp có lựa chọn hoặc ở những nơi có điều kiện, nhuộm Gram nên
được sử dụng để củng cố chẩn đoán lâm sàng.
∗ Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm âm đạo do vi khuẩn theo Tổ chức y tế Thế giới
[84]: cần có 2 trong 4 tiêu chuẩn sau:


19


-Khí hư loãng trắng đục, hoặc vàng [49], dính vào thành âm đạo.
-pH dịch âm đạo > 4,5.
-Tế bào Clue-cells > 20% tế bào biểu mô âm đạo.
-Test sniff (test amin) dương tính
1.4. ĐIỀU TRỊ VIÊM ÂM ĐẠO
1.4.1. Điều trị viêm âm đạo do nấm
∗ Điều trị mới
Điều trị trước tiên là tại chỗ. Luôn luôn sử dụng thuốc đặt âm đạo mỡ bôi
da vùng âm hộ, tầng sinh môn và mỡ bôi lên dương vật bao quy đầu cho
người chồng [75].
Các thuốc thuộc nhóm Imidazol có hiệu quả: Gynopevaryl (Econazol)
hoặc Miconazol, đặt âm đạo 3 ngày.
Phụ nữ có thai, điều trị tại chỗ là chủ yếu. Đặt âm đạo mỗi ngày 1 viên
Nystatin, Miconazol, Clotrimazol trong 15 ngày [34].
∗ Điều trị theo hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh
sản-Bộ Y tế năm 2009
Fluconazole 150mg uống 1 viên duy nhất.
∗ Điều trị tái phát
Tái nhiễm: xảy ra sau điều trị vài tháng hoặc là mới bị tái nhiễm hoặc là
vẫn còn yếu tố thuận lợi. Thay đổi các yếu tố thuận lợi: thay đổi viên tránh
thai hoặc biện pháp tránh thai và dùng thuốc chống nấm.
Tái phát thực sự: xảy ra sau khi ngừng điều trị một thời gian ngắn,
được coi là điều trị chưa đầy đủ. Chỉ định dùng thuốc dài ngày hơn, trung
bình là 15 ngày, bao gồm đặt âm đạo, bôi lên da, uống và điều trị cho người
chồng, [32], [40].
∗ Dược lý và cơ chế tác dụng của Fluconazole[5]


20


Fluconazole là thuốc đầu tiên của nhóm thuốc tổng hợp triazole chống
nấm mới.
Fluconazole có tác dụng chống nấm do làm biến đổi màng tế bào, làm
tăng tính thấm màng tế bào (thí dụ amino acid, kali), làm thoát các yếu tố thiết
yếu và làm giảm nhập các phân tử tiền chất (thí dụ purin và pyrimidin tiền
chất của DNA. Fluconazole tác động bằng cách ức chế cytochrom P 450 14 –
alpha – demethylase, ngăn chặn tổng hợp ergosterol là sterol chủ yếu ở màng
tế bào nấm.
Fluconazole và các triazole chống nấm khác (như itraconazole) có ái lực
mạnh với enzym P450 của nấm và chỉ có ái lực yếu với enzym P 450 của động
vật có vú (tuy nhiên cũng đủ để gay ra nhiều tương tác thuốc) và cũng là
những thuốc ức chế đặc hiệu của hệ thống cytochom P450 của nấm hơn nhiều
dẫn chất imidazol khác (như ketoconazole). Thuốc cũng không có tác dụng
trên sự tổng hợp cholesterol trong dịch đồng thể mô gan của động vật có vú.
Fluconazol có tác dụng trên Blastomyces dermatitidis, Candida spp.,
Coccidioides immitis, Cryptococcus neoformans, Epidermophyton spp.,
Hitsoplasma capsulatum, Microsporum spp., và Trichophyton spp.,
Fluconazol không có tác dụng kháng khuẩn.
Kháng thuốc đã phát triển trong một vài chủng Candida. Các chủng
Candida albicans kháng ketoconazol cũng kháng chéo với fluconazol
Dược động học
Fluconazol được hấp thu tốt qua đường uống và không bị ảnh hưởng bởi
thức ăn. Khả dụng sinh học theo đường uống bằng hoặc hơn 90% so với
đường tiêm tĩnh mạch. Nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được trong vòng
1 – 2 giờ, nồng độ ổn định đạt được trong vòng 5 – 7 ngày.
Thuốc phân bổ rộng rãi trong các mô và dịch cơ thể. Nồng độ trong sữa
mẹ, dịch khớp, nước bọt, đờm, dịch âm đạo và dịch màng bụng tương tự nồng



21

độ trong huyết tương. Nồng độ trong dịch não tủy đạt từ 50% đến 90% nồng
độ trong huyết tương ngay cả khi màng não không bị viêm. Tỉ lệ gắn với
protein khoảng 12%. Thuốc thải trừ qua nước tiểu ở dạng nguyên thể với tỉ lệ
80% hoặc cao hơn. Nửa đời thải trừ khoảng 30 giờ, và tăng ở người bệnh suy
thận. Thuốc cũng được loại bằng thẩm tách.
1.4.2. Điều trị viêm âm đạo do Trichomonas
Điều trị tấn công: sử dụng dẫn chất của NitroImidazol. Nasogyl
500mg liều duy nhất hoặc Metronidazol 500mg trong 10 ngày.
Đồng thời điều trị cho chồng hoặc bạn tình bằng Metronidazol uống.
Điều trị nhắc lại: Sau 3 tuần nhắc lại một đợt điều trị như trên [34].
∗ Dược lý và cơ chế tác dụng của Metronidazol [5]
Metronidazol là một dẫn chất 5 - nitro - imidazol, có phổ hoạt tính rộng
trên động vật nguyên sinh như amip, Giardia và trên vi khuẩn kị khí.
Cơ chế tác dụng của metronidazol còn chưa thật rõ. Trong ký sinh trùng,
nhóm 5 - nitro của thuốc bị khử thành các chất trung gian độc với tế bào. Các
chất này liên kết với cấu trúc xoắn của phân tử DNA làm vỡ các sợi này và
cuối cùng làm tế bào chết. Nồng độ trung bình có hiệu quả của metronidazol
là 8 microgam/ml hoặc thấp hơn đối với hầu hết các động vật nguyên sinh và
các vi khuẩn nhạy cảm. Nồng độ tối thiểu ức chế (MIC) các chủng nhạy cảm
khoảng 0,5 microgam/ml. Một chủng vi khuẩn khi phân lập được coi là nhạy
cảm với thuốc khi MIC không quá 16 microgam/ml.
Nhiễm Trichomonas vaginalis có thể điều trị bằng uống metronidazol
hoặc dùng tại chỗ. Cả phụ nữ và nam giới đều phải điều trị, vì nam giới có thể
mang mầm bệnh mà không có triệu chứng. Trong nhiều trường hợp cần điều
trị phối hợp đặt thuốc âm đạo và uống thuốc viên,


22


Khi bị viêm cổ tử cung/âm đạo do vi khuẩn, metronidazol sẽ làm cho hệ
vi khuẩn âm đạo trở lại bình thường ở đại đa số người bệnh dùng thuốc:
metronidazol không tác động trên hệ vi khuẩn bình thường ở âm đạo.
Dược động học
Metronidazol thường hấp thu nhanh và hoàn toàn sau khi uống, đạt tới
nồng độ trong huyết tương khoảng 10 microgam/ml khoảng 1 giờ sau khi
uống 500 mg. Mối tương quan tuyến tính giữa liều dùng và nồng độ trong
huyết tương diễn ra trong phạm vi liều từ 200 - 2000 mg. Liều dùng lặp lại cứ
6 - 8 giờ một lần sẽ gây tích lũy thuốc. Nửa đời của metronidazol trong huyết
tương khoảng 8 giờ và thể tích phân bố xấp xỉ thể tích nước trong cơ thể (0,6
- 0,8 lít/kg). Khoảng 10 - 20 % thuốc liên kết với protein huyết tương.
Metronidazol thâm nhập tốt vào các mô và dịch cơ thể, vào nước bọt và sữa
mẹ. Nồng độ điều trị cũng đạt được trong dịch não tủy.
Metronidazol chuyển hóa ở gan thành các chất chuyển hóa dạng
hydroxy và acid, và thải trừ qua nước tiểu một phần dưới dạng glucuronid.
Các chất chuyển hóa vẫn còn phần nào tác dụng dược lý.
Nửa đời thải trừ trung bình trong huyết tương khoảng 7 giờ. Nửa đời
của chất chuyển hóa hydroxy là 9,5 - 19,2 giờ ở người bệnh có chức năng
thận bình thường. Trên 90% liều uống được thải trừ qua thận trong 24 giờ,
chủ yếu là các chất chuyển hóa hydroxy (30 - 40%), và dạng acid (10 - 22%).
Dưới 10% thải trừ dưới dạng chất mẹ. Khoảng 14% liều dùng thải trừ qua
phân.
1.4.3. Điều trị viêm âm đạo do vi khuẩn
Metronidazole là thuốc được lựa chọn trong điều trị. Thuốc nầy có hiệu
lực chống lại những vi khuẩn kỵ khí gram âm, tuy nhiên nó kém tác dụng với
G. Vaginalis và pepto-streptococci [63]. Metronidazol không có tác dụng


23


chống lactobaccilli, vì vậy giúp cho quá trình tái định cư của các vi sinh vật
để khôi phục hệ vi khuẩn chí âm đạo sau đợt điều trị.
+ Metronidazole 500 mg, ngày uống 2 lần trong 7 ngày.
+ Hoặc Metronidazole 2g một lần duy nhất.
Liệu pháp 7 ngày có tỷ lệ khỏi cao hơn theo một số nghiên cứu
của Jerve, Hovik, Eschenbach, Alawattegama và Swedberg [50].
1.5.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

1.5.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Ước tính khoảng 75% phụ nữ bị viêm âm hộ âm đạo do nấm ít nhất một
lần trong đời [54]. Khoảng 45% phụ nữ sẽ bị mắc từ 2 lần trở nên. May mắn
là rất ít người bị bệnh nấm mạn tính tái phát [57].
Tỷ lệ mắc nấm AĐ đã tăng đáng kể. ở Anh, tỷ lệ dao động từ 28% đến
37%. ở Mỹ, từ 1980 đến 1990, tỷ lệ mắc nấm âm đạo đã gần tăng gấp đôi.
Thêm vào đó, tỷ lệ phần trăm của những chủng nấm không phải albicans cũng
tăng lên [55].
Tỷ lệ nhiễm trichomonas đã giảm rất nhiều ở cả Mỹ và châu Âu vùng
Scandinavia và cũng tương quan với khuynh hướng trên thế giới. Sự giảm nầy
phần lớn là do chẩn đoán tốt hơn và điều trị bằng Metronidazole [55].
Viêm âm đạo do trichomonas là bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Tỷ lệ lây truyền khá cao: 70% đàn ông bị nhiễm bệnh sau khi quan hệ 1
lần với những phụ nữ bị bệnh, điều đó gợi ý rằng tỷ lệ lây truyền từ nam sang
nữ còn cao hơn [59].
Bệnh phổ biến nhất trong viêm âm đạo ở Mỹ là B.vaginosis. Tỷ lệ mắc
BV ở các phòng khám STD dao động từ 33% đến 64% theo các tác giả khác
nhau.
Tỷ lệ nầy ở phòng khám phụ khoa là 15% đến 23%; ở các phòng khám

sản khoa từ 10% đến 26%; ở quần thể phụ nữ trong các trường đại học không


24

có triệu chứng là 4% và có triệu chứng là từ 15% đến 24%. Nói chung, bệnh
tác động đến những phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, điều đó chỉ ra vai trò của nội
tiết tố sinh dục trong cơ chế sinh bệnh học. Bệnh nầy được phát hiện ở phụ
nữ có thai và phụ nữ không có thai với tỷ lệ như nhau [83].
Ở Thụy Điển, trong một chương trình sàng lọc ung thư, Larson đã làm
8000 Pap smear cho những phụ nữ từ 30 tuổi trở lên. Tỷ lệ BV là 15% [66].
Một số nghiên cứu cho thấy, BV thì thường hay gặp (gấp hai - ba lần) ở
những phụ nữ dọa đẻ non hoặc đẻ non [52], [65]. BV là dấu hiệu khá vô hại
trong giai đoạn đầu của thai nghén, có thể làm khởi phát các cơn co tử cung
gây chuyển dạ đẻ non ở một số phụ nữ. Cơ chế của hiện tượng nầy có thể là
liên quan đến prostaglandins mà có khả năng là có nguồn gốc từ màng ối hoặc
màng rụng hoặc có thể do sự giải phóng photpholipase và một số chất khác
bởi các vi khuẩn vốn có trong BV. BV cũng liên quan đến vỡ ối non[82].
1.5.2. Các công trình nghiên cứu tại Việt nam
Tỷ lệ nhiễm nấm trong cộng đồng ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ là 6,6% và là
tác nhân có tỷ lệ gây NKSS cao nhất, trong đó tỷ lệ tại 8 tỉnh đại diện cho 8
vùng sinh thái khác nhau là Hà Nội 10%, Thái Nguyên 10,8%, Sơn La 3,6%,
Đắc Lắc 10,5%, Hà Tĩnh 3,7%, Khánh Hòa 4,6%, Vũng Tàu 6,1% và Kiên
Giang 3,2% [8].
Tỷ lệ nhiễm nấm ở phụ nữ có thai là 54,3% theo Lê Thị Oanh [26],
44,9% theo Nguyễn Thị Ngọc Khanh [17] và 50% theo Lê Lam Hương, Cao
Ngọc Thành [15]. Theo Phạm Bá Nha, nấm Candida là tác nhân có tỷ lệ
cao nhất trong viêm nhiễm đường sinh dục, 37,8% trong nhóm đẻ non và
43,4% trong nhóm không đẻ non [24].
Tỷ lệ nhiễm trichomonas là 1,4% với sự phân bố theo các tỉnh như

sau: Sơn La 2,1%, Thái Nguyên 1,3%, Hà Nội 0,4%, Hà Tĩnh 1,8%, Khánh
Hòa 1,0%, Đắc Lắc 2,4%, Vũng Tàu 0,7% và Kiên Giang 1,1%. (2004) [8].


25

Như vậy, tỷ lệ VAĐ do trichomonas ở các vùng nông thôn và miền núi cao
hơn ở các vùng thành thị. Tỷ lệ mắc trichomonas ở những phụ nữ ở Hà Nội và
vùng lân cận đến khám tại Viện Bảo vệ Bà mẹ trẻ sơ sinh năm 1994 là 5,8%.
ở phụ nữ có thai tại Hà nội, tỷ lệ nầy là 0% theo nghiên cứu của Nguyễn
Thị Ngọc Khanh năm 1998 -2000 [17] và ở phụ nữ có thai tại TP Huế là
7,1%, (2002-2003) [15].
Theo cuộc điều tra năm 2004 trên 8880 phụ nữ độ tuổi từ 15 đến 55,
dùng phương pháp Pap smear, tỷ lệ VAĐ do G. vaginalis là 4%. Trong
đó phân bố theo các vùng là: Sơn La 3,8%; Thái Nguyên 3,1%; Hà Nội 8,1%;
Hà Tĩnh 4,0%; Khánh Hòa 1,4%; Đắc Lắc 6,5%; Vũng Tàu 2,9% và Kiên
Giang 2,2% [8]. Theo Phan Thị Kim Anh, tỷ lệ mắc bệnh G.vaginalis trên các
phụ nữ đến khám phụ khoa tại Viện bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh là 3,8% [1].
Tỷ lệ mắc B. vaginosis ở phụ nữ có thai ở Hà Nội là 7,8% [17]. ở phụ nữ
có thai tại thành phố Huế, nhiễm G. vaginalis đơn thuần là 3,28%, kết hợp với
Candida spp. là 9,5% và kết hợp với trichomonas là 3,57% [15].
Theo nghiên cứu của Phạm Bá Nha, các căn nguyên vi khuẩn có tỷ lệ
nhiễm cao trong nhóm đẻ non. G. vaginalis trong nhóm không đẻ non
là 3,6% và trong nhóm đẻ non là 20,4%. Viêm nhiễm đường sinh dục dưới
do vi khuẩn trong nhóm đẻ non có nguy cơ rỉ ối, ối vỡ non cao hơn so với
nhóm không đẻ non. Nguy cơ nhiễm khuẩn sơ sinh trong nhóm đẻ non cao
hơn so với nhóm không đẻ non [24], [25].



×