BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
………***………
NGUYỄN THU TRANG
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG QUANH RĂNG
VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ Ở PHỤ NỮ CÓ THAI
TẠI BỆNH VIỆN ĐỐNG ĐA – HÀ NỘI NĂM 2012
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
HÀ NỘI - 2012
1
BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
………***………
NGUYỄN THU TRANG
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG QUANH RĂNG
VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ Ở PHỤ NỮ CÓ THAI
TẠI BỆNH VIỆN ĐỐNG ĐA – HÀ NỘI NĂM 2012
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Người hướng dẫn: Thạc sĩ – Bác sĩ – Nguyễn Thị Thu Vân
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội ở nước ta trong những năm gần
đây, việc chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe răng miệng nói riêng là vấn
đề đang ngày càng được mọi người quan tâm. Trong những vấn đề răng miệng
thường được quan tâm thì bệnh vùng quanh răng đã và đang là một trong những
bệnh phổ biến ở Việt Nam cũng nhiều nước trên thế giới. Những tình trạng cần
quan tâm, được coi là có nhu cầu điều trị có tỉ lệ khá cao.
Gần đây theo những nghiên cứu về dịch tễ học của “Trung
tâm quốc gia về thống kê sức khoẻ” (National Centre for Health
Statistics-Mỹ), và những điều tra của “Viện quốc gia nghiên cứu
nha khoa” (National Institute of Dental Research-Mỹ) đáp ứng
của mỗi người đối với bệnh quanh răng là khác nhau. Tính mẫn
cảm của mỗi người đối với bệnh QR dường như thay đổi tuỳ
theo những yếu tố nguy cơ nào đang hoạt động.
Một đối tượng có nguy cơ đặc biệt đó là phụ nữ mang thai. Tuy nhiên,
hiện nay vấn đề chăm sóc răng miệng ở phụ nữ có thai vẫn chưa thực sự được
quan tâm và vẫn còn tồn tại những quan niệm có phần chưa đúng trong cộng
đồng. Đa số các thai phụ đều có xu hướng phớt lờ sức khỏe răng miệng hoặc rất
lo lắng, e ngại nếu phải can thiệp điều trị răng miệng trong khi đang mang thai
nên tình trạng quanh răng ở phụ nữ mang thai thường không được kiểm soát tốt.
Muốn đánh giá tình trạng vùng quanh răng thì chúng ta cần đánh giá
nhiều chỉ số khác nhau, trong đó chỉ số nhu cầu điều trị quanh răng cộng đồng
(CPITN) giúp đánh giá tình trạng quanh răng và nhu cầu điều trị quanh răng.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tình trạng quanh răng ở phụ nữ có thai,
tuy nhiên những nghiên cứu này lại chưa được được công bố nhiều ở Việt Nam.
3
Để có thông tin cụ thể và thực tế hơn về tình trạng quanh răng trên phụ nữ có
thai em xin được lập khảo sát “ Đánh giá chỉ số tình trạng quanh răng và nhu cầu
điều trị ở phụ nữ có thai tại bệnh viện Đống Đa – Hà Nội năm 2012”.
Khảo sát này nhằm các mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng quanh răng ở phụ nữ có thai tại bệnh viện Đống
Đa – Hà Nội theo chỉ số CPITN.
2. Xác định nhu cầu điều trị ở các nhóm đối tượng trên.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Giải phẫu vùng quanh răng
Vùng quanh răng bao gồm 4 thành phần: lợi, dây chằng quanh răng, xương
răng và xương ổ răng. Xương ổ răng gồm có mào xương ổ và lá sàng. Lá sàng là
phần liên tục với mào xương ổ, nó tạo nên vách xương mỏng lót huyệt ổ răng.
Hình 1.1. Minh họa cấu trúc giải phẫu vùng quanh răng
1.1. Lợi
Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng, được giới hạn bởi bờ lợi và
phía cuống răng bởi niêm mạc miệng, ở phía ngoài của cả hai hàm và phía trong
của hàm dưới. Ở phía ngoài cả hai hàm và phía trong hàm dưới lợi liên tục với
niêm mạc xương ổ răng ở đường ranh giới niêm mạc miệng – lợi. Ở phía khẩu
cái, lợi tiếp tục với niêm mạc khẩu cái cứng. Lợi được chia thành hai phần: lợi
tự do và lợi dính.
5
+ Lợi tự do là phần lợi không dính vào răng, ôm sát cổ răng và cùng với
cổ răng tạo nên một khe sâu khoảng 0.5 – 1 mm gọi là rãnh lợi. Lợi tự do gồm
hai phần: nhú lợi và lợi viền.
- Nhú lợi: Là lợi ở kẽ răng, che kín kẽ, có một nhú ở phía ngoài, một nhú
ở phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
- Lợi viền: không dính vào răng mà ôm sát cổ răng, cao khoảng 0.5 – 1
mm. Mặt trong của lợi viền là thành ngoài của rãnh lợi.
Lợi tự do tiếp nối với lợi dính tại lõm dưới lợi tự do.
+ Lợi dính là vùng lợi bám dính vào chân răng ở trên và mặt ngoài xương
ổ răng ở dưới. Mặt ngoài lợi dính cũng như mặt ngoài lợi tự do đều được phủ
bởi lớp biểu mô sừng hóa. Mặt trong của lợi dính có hai phần: phần bám vào
chân răng cao khoảng 1.5 mm được gọi là vùng bám dính và phần bám dính vào
mặt ngoài xương ổ răng.
Lợi khỏe mạnh có màu hồng, chắc với một bờ lợi mỏng hình rìa lưỡi dao
hay hình vỏ sò ôm xung quanh răng. Ở một vài chủng người, lợi có thể nhiễm
sắc tố đen. Bờ lợi cao khoảng vài mm, bắt đầu từ đường nối men – cement. Mô
lợi là biểu mô sừng hóa và có màu nhạt hơn so với niêm mạc miệng là biểu mô
không sừng hóa.
Hình 1.2. Cấu tạo giải phẫu lợi
6
Rãnh lợi
Đường viền lợi
Lợi tự do
Lõm dưới lợi tự do
Niêm mạc xương ổ răng
Đường nối niêm mạc miệng lợi
Lợi dính
Mạch máu và thần kinh
+ Mạch máu
Lợi có hệ thống mạch máu rất phong phú. Các nhánh của động mạch ổ
răng đến lợi xuyên qua dây chằng quanh răng và vách giữa các răng. Những
mạch khác băng qua mặt ngoài hay mặt trong, xuyên qua mô liên kết trên màng
xương vào lợi, nối với những động mạch khác từ xương ổ răng và dây chằng
quanh răng.
+ Thần kinh
Là những nhánh thần kinh không có bao myelin chạy trong mô liên kết,
chia nhánh tới tận lớp biểu mô.
1.2. Dây chằng quanh răng
Dây chằng quanh răng là cấu trúc liên kết giữa răng và xương ổ răng. Đây
là một mô liên kết mềm, giàu mạch máu và các bó sợi collagen.
Nó có nhiều chức năng như cấu tạo, nâng đỡ,bảo vệ, cảm giác và dinh
dưỡng. Dây chằng quanh răng có thể coi như một màng xương của lá sàng huyệt
ổ răng. Dây chằng quanh răng hoạt động để vô hiệu lực nhai truyền vào cấu trúc
xương ổ răng. Độ rộng, chiều cao và chất lượng của dây chằng quanh răng quyết
định sự di chuyển của răng.
Dây chằng quanh răng cấu tạo từ các sợi cơ bản, chúng có bản chất là các
sợi collagen được sắp xếp thành từng bó nối liền xương răng và lá sàng huyệt ổ
răng. Phần tận cùng của sợi cơ bản đâm xuyên vào xương răng được gọi là sợi
Sharpey.
Tùy theo sự sắp xếp và hướng đi của các bó sợi mà có những nhóm dây
chằng quanh răng sau :
- Nhóm mào ổ răng: gồm những bó sợi đi từ mào ổ răng đến xương răng
gần cổ răng.
- Nhóm ngang: gồm những bó chạy ngang giữa xương răng và xương ổ
răng.
7
- Nhóm chéo: gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chạy chếch xuống
dưới và vào trong để bám vào xương răng.
- Nhóm cuống răng: chạy từ xương răng, ở cuống răng đến xương ổ răng.
- Nhóm giữa các chân răng: các sợi này có ở vùng chẽ của các răng
nhiều chân.
- Nhóm liên vách: nhóm này có thể coi như một thành phần của lợi vì nó
không có sự liên kết vào xương. Các sợi chạy từ mặt bên của răng này sang răng
bên cạnh.
Hình 1.3: Các bó dây chằng quanh răng
1.3. Xương răng
Là một mô khoáng hóa phủ lên phần ngà ở chân răng. Trong các mô cứng
của răng, xương răng là mô có tính chất lý học và hóa học gần giống với các
xương khác nhưng nó cũng có nhiều khác biệt như không có mạch máu, mạch
bạch huyết, không có vai trò tạo khung nâng đỡ cơ thể, không trải qua quá trình
tiêu, tái cấu trúc sinh lý. Xương răng được khoáng hóa suốt đời.
Nhìn chung xương răng giới hạn trong bề mặt chân răng, đường ranh giới
men – xương răng là ranh giới phân chia thân và chân răng giải phẫu. Tuy nhiên
khoảng 30% trường hợp xương răng và men gặp nhau theo kiểu đối đầu, không
phủ lên nhau, 60% xương răng phủ lên men răng, khoảng 10% lộ ngà.
8
Xương răng mỏng nhất ở ranh giới men – xương răng (20 – 50 µm) và
chiều dày tăng dần về phía lỗ cuống răng (150 – 200 µm).
1.4. Xương ổ răng
Là một bộ phận của xương hàm tham gia nâng đỡ cho răng. Xương ổ răng
phát triển cùng quá trình hình thành và mọc răng. Nếu răng bị mất thì xương ổ
răng cũng dần dần tiêu đi.
Về giải phẫu, xương ổ răng gồm có:
+ Bản xương (có cấu tạo là xương đặc)
- Bản xương ngoài: là xương vỏ ở mặt ngoài và mặt trong của xương ổ
răng, được màng xương che phủ.
- Bản xương trong (lá sàng huyệt ổ răng): nằm liền kề với chân răng, có
nhiều lỗ thủng (lỗ sàng) qua đó mạch máu từ trong xương đi vào vùng quanh
răng và ngược lại. Trên Xquang, phần xương đặc này hiện lên là một dải trắng
đục được gọi là lá cứng.
Cấu trúc của xương vỏ nhìn chung giống như các xương đặc khác, nghĩa
là nó bao gồm các hệ thống Havers. Lớp xương vỏ hàm dưới dày hơn so với
xương vỏ hàm trên. Ở cả hai hàm, độ dày của lớp vỏ thay đổi theo vị trí của răng
nhưng nhìn chung mặt trong dày hơn mặt ngoài. Riêng ở mặt ngoài thì xương
đặc ở mặt ngoài răng cối lớn hàm dưới dày nhất và mỏng nhất ở mặt ngoài răng
cửa hàm dưới.
+ Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng. Xương
xốp bao gồm một mạng lưới bè xương mỏng, xem giữa là các khoang tủy, chủ
yếu lấp đầy tủy mỡ. Ở vùng lồi củ xương hàm trên và góc xương hàm dưới có
thể thấy tủy tạo máu, ngay cả ở người lớn.
2. Dịch tễ học bệnh quanh răng
Bệnh quanh răng là bệnh phá hủy tổ chức vùng quanh răng như lợi, dây
chằng quanh răng, xương răng. xương ổ răng.
9
2.1. Trên thế giới
Bệnh răng miệng là bệnh phổ biến và có tính toàn cầu. Năm
1986 tổ chức y tế thế giới đã xếp vào loại tai hoạ thứ 3 về bệnh
tật của loài người, sau bệnh tim mạch và ung thư.
Bệnh răng miệng nói chung và bệnh quanh răng nói riêng
cho tới nay vẫn rất phổ biến, có xu hướng lan rộng và tiến triển
rất phức tạp. Bệnh liên quan tới tuổi, giới, điều kiện kinh tế xã
hội, vùng địa lý
So với các châu lục trên thế giới thì các nước châu Á tỉ lệ
phần trăm người lành thấp khoảng 3% (qua kết quả điều tra ở
một số nước như Nhật Bản 1984, Nepan 1984, Srilanca 1984, và
Hồng Công 1984), còn ở các châu lục khác thì khả quan hơn
như châu Âu là 4.57% (thông qua kết quả điều tra tại Hà Lan
1981, Phần Lan 1984, Hungari 1984, Bồ Đào Nha 1984, Tây Ban
Nha 1984, Italia 1985 và Hylap 1985), còn châu Úc là 11% (kết
quả điều tra của đại diện Australia 1984). Tỉ lệ này ở các nước
Đông Nam Á có mức trung bình là 6% (qua điều tra tại Thái Lan
1982, Indonesia 1984) [6].
Ở châu Á tình hình bệnh quanh răng vẫn ở mức nghiêm
trọng. Theo kết quả các cuộc điều tra thì ở châu Á có trung bình
VLP lành/người (code 0) thấp, (chỉ chiếm khoảng 0.08) và số
trung bình VLP bệnh lý/người còn ở mức báo động [6].
Các nước Đông Nam Á cũng không nằm ngoài tình trạng
trên. Điển hình như Thái Lan là một nước có công tác chăm sóc
sức khỏe răng miệng cộng đồng tốt, nhưng theo kết quả điều
tra toàn quốc thì mới chỉ có 1% lợi hoàn toàn khoẻ mạnh, 58%
có túi lợi nông và 11% có túi lợi sâu.
2.2. Ở Việt Nam
10
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu điều tra về
bệnh quanh răng với các phương pháp, mục tiêu và qui mô khác
nhau. Các cuộc điều tra này đều cho kết quả là tỉ lệ mắc bệnh
quanh răng ở nước ta còn cao.
Theo kết quả điều tra cơ bản trong toàn quốc tiến hành từ
năm 1981 - 1983 của viện RHM Trung ương, Nguyễn Văn Cát và
cộng sự cho thấy tỉ lệ mắc bệnh ở miền Nam là 91.3%, còn ở
miền Bắc là 82.1% [6].
Trong một điều tra riêng rẽ về bệnh quanh răng ở các tỉnh phía
nam Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Cẩn và cộng sự
cho thấy tỉ lệ người có cao răng rất cao, gặp ở hầu hết các lứa tuổi,
viêm lợi luôn đi đôi với cao răng, 1/3 số viêm lợi sẽ tiến triển
sang viêm quanh răng [6].
Kết quả điều tra cơ bản SKRM các tỉnh phía Bắc năm 1995
cho thấy tỉ lệ người có tổ chức quanh răng hoàn toàn khoẻ
mạnh ở 3 nhóm tuổi 12, 15, 34-44 là rất thấp chưa quá 3%.
Chương trình điều tra SKRM toàn quốc năm 2000 do Việt Nam
và Úc hợp tác cũng cho kết quả là > 90% người được khám bị
viêm lợi và viêm quanh răng, chỉ số CPITN (1 – 4) > 97% [6].
Theo các tác giả Trần Văn Trường, Lâm Ngọc Ấn, Trịnh Đình
Hải trong báo cáo điều tra SKRM toàn quốc năm 2001 thì tỉ lệ
người có bệnh quanh răng rất cao ở mức 96.7% trong đó 31.8%
có túi lợi bệnh lý nông và sâu [3].
Ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ chảy máu lợi khi thăm khám
túi lợi bệnh lý ở lứa tuổi 15 -19 rất thấp (0-4%), tỉ lệ cao răng ở lứa tuổi này rất
cao (78-96%). Với kết quả này có thể xếp Việt Nam nằm trong 10% quốc gia
trên thế giới có tỉ lệ cao răng cao nhất ở thanh thiếu niên. Tỉ lệ cao răng ở người
trưởng thành Việt Nam cũng rất cao (97%-100%), xếp trong danh sách 20%
quốc gia trên thế giới có tỉ lệ cao răng cao nhất ở người trưởng thành [6].
11
3. Bệnh căn bệnh sinh bệnh vùng quanh răng
Các bệnh viêm lợi và viêm quanh răng đều do tác nhân vi khuẩn, virus
hoặc nấm gây ra, quá trình bệnh lý là do sự tương tác giữa các tác nhân tấn công
và hệ thống miễn dịch của cơ thể. Trong các tác nhân gây bệnh thì vi khuẩn ở
mảng bám răng là căn nguyên thường gặp.
Mảng bám răng có khả năng gây bệnh trực tiếp và gián tiếp.
Tác động trực tiếp là do vi khuẩn sản sinh ra các men, nội độc tố và sản
phẩm đào thải của vi khuẩn trong quá trình sống như NH3, ure, sulfur hydric.
Tác động gián tiếp là do tính chất kháng nguyên của mảng bám vi khuẩn,
kháng nguyên khởi động các phản ứng kháng nguyên – kháng thể, các chất
trung gian hóa học có thể gây hiện tượng tự phá hủy tổ chức ở vùng quanh răng.
Sự liên quan giữa hệ vi sinh ở mảng bám răng và bệnh viêm quanh răng:
so sánh tỉ lệ vi khuẩn ở mảng bám răng vùng bệnh và vùng lành thấy khối lượng
vi khuẩn ở mảng bám răng vùng viêm gấp đôi vùng lành. Vùng viêm có lượng
mảng bám răng nhiều hơn vùng lành, như vậy thì lượng vi khuẩn ở vùng bệnh
lớn hơn rất nhiều so với vùng lành. Nghiên cứu hình thái vi khuẩn cho thấy ít
cầu khuẩn, nhiều trực khuẩn di động và xoắn khuẩn ở vùng bệnh hơn vùng lành.
Nuôi cấy vi khuẩn mảng bám răng vùng lành thấy chủ yếu là cầu và trực khuẩn
Gr + (khoảng 75%), mảng bám răng ở vùng viêm lợi thì cầu khuẩn và trực
khuẩn Gr + chỉ chiếm 44%, vùng viêm quanh răng chiếm 10 – 13%. Sự giảm tỉ
lệ Gr + đồng hành với tăng tỉ lệ trực khuẩn Gr -: 13% ở mảng bám răng vùng
lành, 40% ở mảng bám răng vùng viêm lợi, 74% ở mảng bám răng vùng viêm
quanh răng tiến triển.
Một số lượng lớn loài vi khuẩn có thể là căn nguyên bệnh viêm quanh
răng. Tuy nhiên việc kết luận căn nguyên bệnh còn nhiều khó khăn[2].
Tóm lại bệnh quanh răng là bệnh nhiễm khuẩn đã được công nhận, song
bên cạnh đó ngày nay người ta cũng nhận thấy rằng con người không ngang
nhau trước bệnh quanh răng. Ngoài các yếu tố đã được biết đến như tuổi tác,
chủng tộc, giới tính, di truyền, tình trạng kinh tế xã hội có ảnh hưởng tới bệnh
12
quanh răng thì một số tình trạng toàn thân, đặc biệt là khi mang thai cũng được
biết đến như là yếu tố nguy cơ của bệnh quanh răng [11] [17].
4. Bệnh quanh răng ở phụ nữ mang thai
Phụ nữ có thai thường bị viêm lợi khu trú hoặc toàn thể. Bệnh thường bắt
đầu từ tháng thứ hai và tăng dần trong thai kỳ đến tháng thứ 8.
Viêm lợi thai nghén được xác định là phản ứng viêm ở lợi, khởi phát do mảng
bám và tăng nặng do hormone steroid nội tiết (Mariotti 1999). Đây là một bệnh
phổ biến, ảnh hưởng đến 36 - 100% thai phụ (Maier & Orban 1949, Loe &
Silness 1963, Jensen et al 1981). Ảnh hưởng của hormone nội tiết giới tính lên
mô nha chu đã được thừa nhận trong phân loại bệnh quanh răng, trong nhóm
“bệnh viêm lợi do mảng bám, thay đổi theo hệ nội tiết”, bao gồm viêm lợi có
liên quan với tuổi dậy thì, chu kỳ kinh nguyệt và thai nghén (Armitage 1999).
Trên mô nha chu, những ảnh hưởng của lượng hormone lên lợi có thể bị
tăng lên do sự tăng số lượng các loại vi khuẩn Bacteroides, Prevotella,
Porphyromonas [17]. Những dấu hiệu của viêm lợi (VD: chảy máu, đổi màu đỏ,
sưng nề, giảm trương lực) xuất hiện rõ ràng trong giai đoạn hai của thai kỳ và
cao điểm nhất là ở tháng thứ 8 của thai kỳ. Những răng ở vùng răng trước bị ảnh
hưởng nặng hơn những răng ở vùng răng sau [18]. Việc kiểm soát mảng bám
kém và thói quen thở miệng làm những dấu hiệu này nặng hơn [18]. Việc tăng
lung lay răng có mối liên quan với những sự thay đổi hệ vi khuẩn từ vi khuẩn
yếm khí sang vi khuẩn kị khí [18]. Những sự thay đổi hệ vi khuẩn này được bổ
sung thêm bởi tăng phản ứng viêm trong hệ thống bám dính cũng như sự rối
loạn khoáng chất trong lá cứng, là nguyên nhân gây lung lay răng [17].
Những thay đổi nội tiết trong suốt quá trình mang thai là một trong những
thay đổi đáng chú ý nhất. Trong suốt thời kỳ này cả progesterone và estrogen
đều tăng lên do thể vàng liên tục sản xuất ra những hormone này. Vào cuối giai
đoạn thứ 3 (3 tháng cuối), progesterone và estrogen đạt cực đỉnh 100 và 6ng/ml
(nanograms/ millilitre) trong tương bào, cao gấp 10 – 30 lần trong chu kỳ kinh.
Sự mẫn cảm với những nhiễm trùng (VD: nhiễm trùng nha chu) tăng trong suốt
13
thời kỳ nghén sớm do sự thay đổi trong hệ thống miễn dịch, [10], [11] và có thể
được giải thích là do sự thay đổi hormone quan sát thấy trong suốt thai kỳ [12],
sự ức chế hoạt động tế bào T, giảm hóa ứng động bạch cầu trung tính và thực
bào, đáp ứng lympho bào bị thay đổi và sản xuất kháng thể bị giảm [13], mẹ bị
stress thường xuyên và thậm chí thiếu hụt dinh dưỡng do nhu cầu về dinh dưỡng
của cả mẹ và thai nhi đều tăng. Những thay đổi này cũng có thể tạo nên điều
kiện thuận lợi cho bệnh nha chu tiến triển, được quan sát thấy trong suốt thai kỳ
như viêm lợi thai kỳ [14] [15], u hạt thai kỳ, viêm quanh răng. Sự tăng tổng hợp
Prostaglandin E2 được quan sát thấy khi estradiol và progesterone tập trung
nhiều hơn, như trong suốt thai kỳ, có thể góp phần làm tăng sự thay đổi bệnh lý
này [10]. Mặt khác, những tác nhân gây bệnh quanh răng cũng có thể sử dụng
hormone giới tính như progesterone hay estradiol như một nguồn cung cấp dinh
dưỡng. Những loại vi khuẩn này hầu như gia tăng trong dịch rãnh lợi của phụ nữ
mang thai, tình trạng này có tương quan rõ ràng với sự tăng nặng của viêm lợi
thai kỳ [10].
Những thay đổi về mặt lâm sàng và hệ vi sinh vật ở mô nha chu trong
suốt thai kỳ
Tăng độ sâu túi lợi khi thăm khám
Viêm lợi tăng
Tăng lưu lượng dịch rãnh lợi
Tăng chảy máu khi thăm khám
Tăng lung lay răng
Tăng tỉ lệ mắc u hạt
Tăng số lượng của những tác nhân gây bệnh, đặc biệt là P. gigivalis và P.
intermedia. [16]
Đã có báo cáo rằng bệnh viêm quanh răng trong suốt thời kỳ mang thai,
nếu không được điều trị sẽ góp phần làm tăng nguy cơ sinh non, trẻ sinh thiếu
cân [18]. Một nghiên cứu đã so sánh 74 thai phụ ở tuổi thanh thiếu niên có nhận
14
được chăm sóc nha chu trong suốt thời gian mang thai với 90 người không được
chăm sóc nha chu. Tỉ lệ sinh non/ sinh thiếu cân là 18.9% trong nhóm chứng và
13.5% trong nhóm điều trị [19]. Mối quan hệ này tiếp tục được điều tra trong
nghiên cứu lớn. Bệnh nha chu - như một yếu tố nguy cơ đối với việc sinh non có
thể có mối liên quan với sự có mặt của prostaglandins, certain cytokins và tumor
necrosis factor alpha (các chất chỉ thị ung thư). Những nghiên cứu trong tương
lai có thể sẽ cung cấp thêm nhiều bằng chứng trực tiếp về mối quan hệ này hơn
nữa. Một mối quan hệ khác đang được nghiên cứu là ảnh hưởng của bệnh nha
chu và sự phát triển của tiền sản giật, một tình trạng đang tiến triển nhanh, xuất
hiện ở sản phụ mà đặc trưng là chứng tăng huyết áp và sự có mặt của protein
niệu[20].
Đây chính là sự biến đổi về lợi do có thai gây nên. Ngoài ra, bệnh này còn
có thể do các nguyên nhân như không chú ý vệ sinh răng miệng, thức ăn tích
đọng tạo thành mảng bám trên răng, vi khuẩn trong mảng bám răng gây nên
viêm lợi,
5. Chỉ số nhu cầu điều trị quanh răng cộng đồng (CPITN)
A, Mục đích: Khám, phát hiện và hướng dẫn cá thể hoặc nhóm nhu cầu điều trị
quanh răng.
B, Lựa chọn răng
* Thanh niên, người lớn (>19 tuổi)
- Chia bộ răng thành 6 vùng, đánh giá tất cả các răng
+ Lục phân phía xa bắt đầu từ răng nanh.
+ Vùng lục phân còn ít nhất 2 răng hoặc hơn, còn chức năng. Khi vùng
lục phân chỉ còn một răng thì cho sang vùng răng bên cạnh. Nếu vùng lục phân
không còn răng nào thì gạch chéo X.
- Chỉ tính răng 8 khi nó thay thế cho chức năng răng 7.
* Trẻ em và thanh thiếu niên (7 – 19 tuổi)
- Chia thành 6 vùng lục phân
15
- Đánh giá mỗi vùng 1 răng, răng 6 ở phía sau, răng cửa giữa phải hàm
trên và răng cửa giữa trái hàm dưới.
- Khi răng chỉ định không còn thì lục phân đó đánh dấu chéo.
C, Cách tiến hành
* Dụng cụ: Cây đo túi lợi của Tổ chức y tế thế giới
- Đánh dấu: Đầu tròn với các khoảng 3.5; 2; 3.0 và 3.0 mm (tổng cộng là
11.5mm)
- Đầu làm việc hình tròn, đường kính 0.5mm giúp phát hiện cao răng, các
bề mặt ráp khác và giúp đo chính xác
* Sử dụng cây đo túi lợi
- Xác định độ sâu thăm khám, chảy máu và cao răng
- Đưa nhẹ cây đo túi lợi vào túi với lực từ 15 – 20g, giữ tiếp xúc với bề
mặt răng để phát hiện cao răng dưới lợi.
- Nhìn cột màu để phát hiện độ sâu < 3.5mm, 3.5 – 5.5mm, > 5.5 mm.
* Tiêu chuẩn đánh giá:
- Code 0: Tổ chức quanh răng bình thường
- Code 1: Chảy máu nhẹ khi thăm khám, không có cao răng, độ sâu thăm
khám < 3.5 mm
- Code 2: Có cao răng trên hoặc dưới lợi, độ sâu thăm khám < 3.5 mm
- Code 3: Độ sâu túi lợi 3.5 – 5.5 mm
- Code 4: Túi lợi sâu > 5.5 mm
* Ghi chép
- Sử dụng đồ hình quanh răng cho mỗi người
- Răng đại diện cho mỗi vùng có code cao nhất
- Không khám những răng còn lại khi đã khám răng có code 4
- Chỉ dùng code 0, 1, 2 cho bệnh nhân có tuổi 7 và 11
* Nhu cầu điều trị :
- TN 0 : Không cần điều trị (code 0)
- TN 1 : Hướng dẫn vệ sinh răng miệng (code 1)
16
- TN 2 : Hướng dẫn vệ sinh răng miệng, lấy cao răng và làm nhẵn mặt chân
răng loại trừ mảng bám răng, sửa lại sai sót trong hàn và chụp răng (code 2 và 3)
- TN 3 : Phức hợp điều trị lấy cao răng và làm nhẵn bề mặt chân răng,
hướng dẫn VSRM, phẫu thuật nha chu (code 4).
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Là phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Đống Đa - Y Hà Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn :
- Phụ nữ có thai.
- Tại Bệnh viện Đống Đa- Hà Nội.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Chưa từng điều trị chỉnh nha.
Tiêu chuẩn loại trừ :
- Không khám tại Bệnh viện Đống Đa - Hà Nội.
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Đã hoặc đang điều trị chỉnh nha.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1 Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứ mô tả cắt ngang.
2.2. Cỡ mẫu cho tỉ lệ hiện mắc bệnh quanh răng
n=
2
1 / 2
2
(1 )p p
Z
d
α
−
−
n : Cỡ mẫu của đối tượng phụ nữ mang thai
17
α : Mức ý nghĩa thống kê ; α =0.05 thì hệ số giới hạn tin cậy Z1- α/2 =
1.96
p : Tỉ lệ phụ nữ mang thai bị mắc bệnh viêm quanh răng. Ước tính p = 0.7
d : Mức dung sai, chọn d = 0.1
Từ công thức trên tính được số đối tượng nghiên cứu là 81, làm tròn số
ta được cỡ mẫu nghiên cứu là 85 phụ nữ mang thai.
2.3. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn theo tiêu chí lựa chọn. Tiến hành chọn cho đến
khi đủ 85 phụ nữ mang thai từ cho nghiên cứu.
2.4. Phương pháp thu thập thông tin
- Sử dụng bộ câu hỏi, bút ghi và phiếu khám để thu thập thông tin.
- Sử dụng dụng cụ khám để đánh giá tình trạng cao răng, chảy máu lợi và
túi lợi bao gồm:
+ Bộ khay khám răng: khay quả đậu, gương, thám trâm, cây thăm dò nha
chu,…
+ Dụng cụ để khử khuẩn.
+ Các dụng cụ khác như bông, cồn, găng tay, giấy lau tay.
+ Bộ câu hỏi về thói quen chăm sóc răng miệng
Hình 2.1. Bộ dụng cụ khám răng
18
Hình 2.2. Cây sonde nha chu thăm khám
2.5. Tiến hành nghiên cứu:
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1/2012 đến tháng 3/2012
- Đánh giá CPITN trên mỗi thai phụ theo các bước đã trình bày trong
chương 1. Đánh giá trên 6 răng 16, 11, 26, 36, 31, 46.
Hình 2.3. Xác định độ sâu thăm khám
- Sử dụng đồ hình nha chu để ghi lại kết quả thăm khám.
- Tặng kem đánh răng cho những thai phụ tham gia nghiên cứu.
- Hướng dẫn vệ sinh răng miệng đúng cách.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0
19
3. Các chỉ số sử dụng trong nghiên cứu
3.1. Chỉ số nhu cầu điều trị quanh răng cộng đồng (CPITN)
- Chia thành 6 vùng lục phân
- Đánh giá mỗi vùng 1 răng, răng 6 ở phía sau, răng cửa giữa phải hàm
trên và răng cửa giữa trái hàm dưới.
- Khi răng chỉ định không còn thì lục phân đó đánh dấu chéo.
* Sử dụng cây sonde nha chu
- Xác định độ sâu thăm khám, chảy máu và cao răng
- Đưa nhẹ cây sonde nha chu vào rãnh lợi với lực từ 15 – 20g, giữ tiếp xúc
với bề mặt răng để phát hiện cao răng dưới lợi.
- Nhìn cột màu để phát hiện độ sâu < 3.5mm, 3.5 – 5.5mm, > 5.5 mm.
* Tiêu chuẩn đánh giá:
- Code 0: Tổ chức quanh răng bình thường
- Code 1: Chảy máu nhẹ khi thăm khám, không có cao răng, độ sâu thăm
khám < 3.5 mm
- Code 2: Có cao răng trên hoặc dưới lợi, độ sâu thăm khám < 3.5 mm
- Code 3: Túi lợi sâu 3.5 – 5.5 mm
- Code 4: Túi lợi sâu > 5.5 mm
* Ghi chép
- Sử dụng đồ hình quanh răng cho mỗi người
- Không khám những răng còn lại khi đã khám răng có code 4
* Nhu cầu điều trị :
- TN 0 : Không cần điều trị (code 0)
- TN 1 : Hướng dẫn vệ sinh răng miệng (code 1)
20
- TN 2 : Hướng dẫn vệ sinh răng miệng, lấy cao răng và làm nhẵn mặt
chân răng loại trừ mảng bám răng, sửa lại sai sót trong hàn và chụp răng (code 2
và 3)
- TN 3 : Phức hợp điều trị lấy cao răng và làm nhẵn bề mặt chân răng,
hướng dẫn VSRM, phẫu thuật nha chu (code 4).
4. Sai số và biện pháp khống chế sai số
Sai số mắc phải:
- Sai số do kĩ thuật đo chưa chính xác, không đặt cây thăm dò nha chu
song song với trục răng, lực thăm dò không đúng.
- Sai số do dụng cụ đo có vạch chia lớn
Khắc phục sai số:
- Tập luyện trước để có kĩ thuật đo chính xác.
- Sử dụng cây thăm dò nha chu có vạch chia nhỏ 2 mm.
5. Y đức trong nghiên cứu
- Tôn trọng đối tượng nghiên cứu, mọi thông tin liên quan đến danh tính
cá nhân đều được bảo mật hoàn toàn và chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu.
Người nghiên cứu không được tiết lộ khi không có sự đồng ý và cho phép của
đối tượng phỏng vấn.
- Thai phụ được chọn vào nghiên cứu có thể từ chối tham gia nghiên cứu.
- Tất cả các đối tượng nghiên cứu trước khi tham gia đều được giải thích,
lựa chọn đúng với tiêu chuẩn đã đề ra.
- Các qui trình khám và lấy mẫu cũng như vấn đề vô khuẩn phải được
đảm bảo để không gây ra bất kỳ một ảnh hưởng xấu nào cho đối tượng tham gia.
Trong quá trình nghiên cứu không tiến hành thử nghiệm nào.
6. Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu chỉ tiến hành trên phạm vi Bệnh viện Đống Đa - Hà Nội nên
chưa thể khái quát và đại diện chính xác cho các bệnh viện khác tại thành phố
Hà Nội và trên phạm vi rộng hơn là trong cả nước.
21
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1.1. Đối tượng nghiên cứu phân chia theo tuổi thai
Nhóm Tuổi thai N Tỉ lệ (%)
1 1 – 3 tháng 21 24.7
2 4 – 6 tháng 24 28.2
3 7 – 9 tháng 40 47.1
Tổng 85 100
Hình 3.1. Biểu đồ tỉ lệ giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu phân chia theo
tuổi thai
Nhận xét : Trong nhóm đối tượng nghiên cứu, nhóm 3 chiếm tỉ lệ cao
nhất (47.1 %), nhóm 2 chiếm 28.2%, nhóm 3 chiếm 24.7%.
2. Tình trạng quanh răng và chỉ số CPITN của đối tượng nghiên cứu
22
Bảng 3.2.1. Tỉ lệ các nhóm đối tượng có chảy máu lợi khi thăm khám
Tiêu chí
Nhóm
Chảy máu lợi Không chảy máu lợi
Tổng
N Tỉ lệ % N Tỉ lệ
Nhóm 1
(n = 21)
11 52.4% 10 47.6% 100%
Nhóm 2
(n = 24)
15 62.5% 9 37.5% 100%
Nhóm 3
(n = 45)
34 85% 6 15% 100%
Tỉ lệ chung 60 70.6% 25 29.4%
100%
Hình 3.2. Biểu đồ tỉ lệ chảy máu tăng theo tuổi thai( α = 0.017)
Nhận xét : Kết quả trên cho thấy tỉ lệ đối tượng bị chảy máu lợi khi thăm
khám tăng dần theo tuổi thai. Kết quả kiểm định thống kê cho thấy sự khác biệt
về tỉ lệ chảy máu lợi ở các nhóm tuổi là có ý nghĩa thống kê (α< 0,05).
23
Bảng 3.2.2. Tỉ lệ đối tượng có cao răng theo tuổi thai (α = 0.276)
Tiêu chí
Nhóm
Có cao răng Không có cao răng
N Tỉ lệ n Tỉ lệ
Nhóm 1 (n =21) 21 100% 0 0%
Nhóm 2 (n =24) 23 95.8% 1 4.2%
Nhóm 3 (n =40) 40 100% 0 0%
Tổng = 85 84 97.7% 1 1.2%
Hình 3.3. Biểu đồ tỉ lệ đối tượng có cao răng theo các nhóm (α = 0.276)
Nhận xét: Kết quả trên cho thấy, gần như là 100% đối tượng nghiên cứu
có cao răng. Như vậy không có sự khác biệt về tình trạng cao răng giữa các
nhóm đối tượng.
Bảng 3.2.3. Tỉ lệ các đối tượng có độ sâu thăm khám ở các mức độ
khác nhau theo nhóm (α = 0.032)
24
Tiêu chí
Nhóm
Độ sâu thăm
khám
< 3.5 mm
Độ sâu thăm
khám
3.5 – 5.5 mm
Độ sâu thăm
khám
> 5.5 mm
n Tỉ lệ n Tỉ lệ N Tỉ lệ
Nhóm 1 (n = 21) 20 90.5% 1 9.5% 0 0%
Nhóm 2 (n = 24) 23 95.8% 1 4.2% 0 0%
Nhóm 3 (n = 40) 29 72.5% 11 27.5% 0 0%
Tổng 71 83.5% 14 16.5% 0 0%
Hình 3.4. Biểu đồ tỉ lệ đối tượng có độ sâu thăm khám ở các mức độ khác
nhau theo nhóm (α = 0.032)
Nhận xét : Từ bảng trên cho thấy tỉ lệ đối tượng có túi lợi sâu ở các
mức độ thay đổi không đồng nhất giữa các nhóm nhưng tỉ lệ đối tượng có túi
lợi sâu từ 3.5 – 5.5 mm đặc biệt cao ở nhóm thứ 3 (27.5%). Xét chung trên
cả 3 nhóm thì tỉ lệ đối tượng có túi lợi sâu dưới 3.5 mm chiếm đa số. Kết
quả kiểm định thống kê cho thấy sự thay đổi về độ sâu thăm khám này là có
ý nghĩa thống kê (α < 0.05).
25