Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống cá Chép

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.57 MB, 45 trang )

MỞ ĐẦU
Cá ngày càng có vị trí quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân của một số nước. Tại các
nước này, bình quân sản lượng cá tính theo đầu người ngày càng tăng.
Xét về mặt dinh dưỡng, cá được coi là nguồn thực phẩm có đầy đủ các thành phần chất vô cơ,
vi lượng, các acidamin, các vitamin A, B 1, B2, B12, C, D3, D6, E. So với các loại thực phẩm có nguồn
gốc động vật khác, cá thuộc loại thực phẩm khá toàn diện, hàm lượng mỡ thấp nên dễ tiêu hóa.
Tuy nhiên để có được những giá trị kinh tế và những giá trị dinh dưỡng ngày càng cao thì cá
ngoài tự nhiên không thể nào đáp ứng đầy đủ cả hai mặt. Vấn đề đã và đang đặt ra ở đây là canh tác
thủy sản. Hiện nay, canh tác thủy sản đang diễn ra với nhiều phương thức canh tác khác nhau: từ kỹ
thuật thấp đến kỹ thuật cao, từ nuôi thả tự nhiên đến nuôi thả trong lồng
Cùng với các loại giống cá nói trên, giống cá Chép cũng được coi là một trong những giống
đứng đầu về nhu cầu tiêu thụ tại các trạm giống cơ sở hay các trạm tập trung với quy mô lớn.
Cá Chép được coi là loài cá nuôi lâu đời nhất và phổ biến nhất trên toàn thế giới. Thịt cá dày
và béo, ít xương dăm, thớ thịt trắng mịn, mùi vị thơm ngon. Không những là món ăn ngon mà còn
chứa nhiều chất dinh dưỡng, có tác dụng chữa trị bệnh tốt, đặc biệt là các bệnh phụ nữ. Cá Chép
trong dân gian Trung Quốc thường được gọi là "Ích mẫu hà tiêu" (Thuốc tiên chữa bệnh phụ khoa) vì
nó có tác dụng nổi bật trong lĩnh vực này: tác dụng làm an thai, chữa nôn mửa, chữa bệnh phù thũng,
giúp làm tăng lượng sữa, chữa bệnh ứ huyết, làm tăng công năng dạ dày…
Ở nước ta, độ thích nghi với loài cá này rất cao và phát triển rất tốt với vùng khí hậu mà thiên
nhiên ưu ái này. Cá Chép đẻ trứng ngay trong vực nước nó sống, nhưng con mẹ có thể sử dụng trứng
đó để làm thức ăn, vì vậy tỷ lệ cá con nở ra ngoài rất ít. Có thể nói rằng, để bảo vệ nguồn lợi dồi dào
này thì phương pháp hữu hiệu là cho đẻ nhân tạo. Nhằm có những hiểu biết cơ sở về loài cá rất quen
thuộc này và góp phần gìn giữ những giống cá truyền thống như cá Chép, cũng như gìn giữ phương
thuốc vô giá ấy, vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu về đối tượng này với đề tài:
“Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống cá Chép (Cyprinus carpio)”.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.



GIỚI THIỆU VỀ CÁ CHÉP VÀ SẢN XUẤT GIỐNG CÁ NHÂN TẠO

1.1.1. Một số đặc điểm sinh thái của cá Chép
1.1.1.1. Phân loại
 Giới (regnum): Animalia
 Ngành (phylum): Chordata
 Lớp (class): Actinopterygii
 Siêu bộ (superordo): Ostariophysi
 Bộ (ordo): Cypriniformes

Hình 1.1. Cá Chép

1.1.1.2. Phân bố
Cá chép (Cyprinus Carpio (Linnacus)) được coi là loài cá nuôi ở ao hồ nước ngọt lâu đời nhất
trên thế giới (khoảng 2.000 AC). Theo Ginther (1868), cá Chép là loài sống tự nhiên ở vùng cận nhiệt
đới, đặc biệt là Trung Quốc. Chúng có thể phân bố ở châu Âu, Á, Mỹ, Phi…Cá phân bố trong hầu hết
các thủy vực nước ngọt và cả vùng nước lợ có độ mặn đến 12 %o.


1.1.1.3. Hình thái
Do quá trình chọn giống, cá Chép ở Việt Nam tồn tại nhiều dạng hình khác nhau như: Chép
Bạc, Chép Kính, Chép Trần, Chép Đen, Chép Hồng, Chép Hoa, Chép Lưng Gù, Chép Cẩm…
Ở nhiều nước trên thế giới còn phát hiện ra nhiều dạng hình cá Chép khác như: Chép Vây
Ngắn, Chép Vây Nhỏ, Chép Không Râu, Chép Cola…
1.1.1.4. Đặc điểm sinh thái
Cá chép thuộc loại cá sống tầng đáy cho nên ngưỡng oxy tương đối thấp.


Bảng 1.2. Một số ngưỡng môi trường chịu đựng của cá chép

Chỉ Tiêu Môi Trường

Max

Min

Đơn Vị Tính

OXY

2

0,2 – 0,3

Mg/lit

NHIỆT ĐỘ

37

20 - 27

o

PH

5

9


C

1.1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Thời gian Kích thước
Sau

3

Dinh dưỡng
Khối noãn hoàn tiêu hóa hết, cá sử dụng các loại thức ăn

ngày

bên ngoài: động vật phù du, luân trùng, ấu trùng của
Daphnia, cám, bột…
9 – 10mm

Cá sống ở tầng giữa và tầng đáy, thức ăn chủ yếu là ấu
trùng, côn trùng và động vật phù du.

14 – 19 mm

Sống ở tầng đáy, ăn sinh vật đáy và mùn bã hữu cơ, ít ăn
động vật phù du.

Trưởng thành

Sinh vật đáy: giun, ốc, trai, mùn bã hữu cơ, hạt thực vật,
mầm non thực vật, thức ăn công nghiệp.


1.1.1.6. Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục

Kích thước thành thục

Khối lượng

8 tháng

19 – 23cm

1,05 – 1,30 kg

Cá đực thường có tỷ lệ “Depth” cao hơn cá cái khi cùng tuổi và khối lượng. (Tỷ lệ “Depth” là
tỷ số giữa chiều dài thân và chiều cao thân của cá). Đến mùa sinh sản, bụng cá cái lớn và mềm, bụng
cá đực cứng và nhỏ, khi vuốt nhẹ lỗ sinh dục có tinh dịch màu trắng chảy ra ngoài.
1.1.1.7. Mùa vụ và tập tính sinh sản
Trứng cá chép thuộc loại trứng dính, cá càng nhỏ đường kính trứng càng bé và ngược lại.
Đường kính trứng biến thiên từ 1,2 ÷ 1,8mm. Trong điều kiện tự nhiên, mùa vụ sinh sản tập trung vào
mùa Xuân và mùa Thu. Nhưng trong điều kiện sinh sản nhân tạo, cá chép có thể sinh sản quanh năm
(đặc biệt là ở miền Trung và miền Nam Việt Nam).
Ở miền Bắc, cá đẻ nhiều lần trong năm nhưng tập trung vào hai vụ chính là vụ Xuân (tháng 3
÷ 4), khi nhiệt độ nước 180C trở lên, vụ Thu đẻ vào tháng 9 ÷10.


Các tỉnh miền Nam, cá chép đẻ quanh năm nhưng tập trung vào mùa mưa. Cá thành thục ngay
trong vực nước nó sống. Với điều kiện tự nhiên, cá thường đẻ vào sáng sớm và có thể kéo dài đến
8÷9 giờ sáng.
Nhiệt độ sinh sản thích hợp từ 20÷22 OC, có nước mới kích thích hoặc thời tiết từ lạnh chuyển
sang ấm, có mưa, có vật bám (giá thể) cho trứng.

1.1.1.8. Sức sinh sản
Sinh sản là một khâu của chu trình sống của cá, đảm bảo cho sự tái sản xuất của chủng quần
và bảo vệ loài.
Số lượng trứng đếm được trong toàn bộ noãn sào cá cái trong sinh thái học được gọi là sức
sinh sản tuyệt đối hay sức sinh sản cá thể. Còn số lượng trứng được tính trên một đơn vị trọng lượng
cơ thể được gọi là sức sinh sản tương đối.
Sức sinh sản là sự thích nghi đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài. Sức sinh sản của cá
chép phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như:


Tuổi cá.



Cỡ cá.



Chế độ dinh dưỡng.
Chế độ dinh dưỡng gây ra biến đổi rất lớn. Với cá Chép Việt, lượng trứng tăng nhanh từ tuổi

thứ 3 đến tuổi thứ 5, sau đó tăng lên không đáng kể. Trung bình 1kg cá cái đẻ được 10 vạn trứng.


Bảng 1.3. Sức sinh sản của cá chép
Trọng lượng cá (Kg)

Số lượng trứng

0,3


30.000 – 40.000

0,5

60.000 – 80.000

0,7

80.000 – 90.000

1,0

120.000 – 140.000

2,5

320.000 – 600.000

(Theo Nguyễn Duy Hoan, 2006)
Cá Chép có lượng chứa trứng cao khi vùng nước có nguồn dinh dưỡng tốt và ngược lại dinh
dưỡng không tốt, không những ít trứng mà thậm chí cá bố mẹ không thành thục.

1.1.2. Khái niệm sản xuất giống cá nhân tạo
Khi cá cái đã có trứng, cá đực có tinh, vào đầu mùa mưa, chúng thường cùng nhau lên thượng
nguồn của các con sông, vào các dòng suối…
Vào những ngày mưa, khi nước sông, suối chảy mạnh, cá cái đẻ trứng, cá đực thụ tinh trên suối hay
thượng nguồn. Trứng sẽ theo nước về suối, nở ra cá bột và phát triển thành cá con. Tùy vào mỗi loại
cá mà chúng có nhiều phương thức đẻ trứng và bảo vệ con của mình.
Tuy nhiên, ở ngoài tự nhiên, cá con hay trứng đều gặp rất nhiều yếu tố rủi ro, nên tỷ lệ tồn tại

rất thấp. Ưu điểm của cá đẻ ngoài tự nhiên là con sinh ra khá khẻo mạnh, vì sự khắc khe của chọn lọc
tự nhiên. Tuy nhiên nhược điểm của hiện tượng này là con người không kiểm soát được, việc thu hồi
cá con với số lượng đủ lớn là rất khó khăn.
Để khắc phục tình trạng trên con người đã tìm ra phương pháp đó là “sinh sản nhân tạo”, tức là
cho cá đẻ dưới sự kiểm soát của con người.
Nguyên lý của phương pháp này là: Cá trưởng thành được nuôi trong chế độ nuôi đặc biệt (gọi
là nuôi vỗ) để có trứng, sau đó trứng được tạo điều kiện để chín (thành thục), khi đã có cá bố mẹ với
trứng đủ chín và cá bố tương tự, người ta tiêm một số hormone sinh dục để cá cái đẻ trứng, lấy tinh
trùng (sẹ) của cá đực gieo tinh trong điều kiện kiểm soát. Như vậy, trứng và các con có thể thu được
với một số lượng lớn.
Trong một số hoàn cảnh, người ta chọn cá bố mẹ, sau khi tiêm kích dục tố xong, người ta cho
chúng đẻ trong các dụng cụ đặc biệt gọi là bể đẻ, chúng sẽ tự đẻ và tự thụ tinh, người ta thu trứng và
ấp nở trong các dụng cụ chuyên dụng (gọi là bể ấp). Đó là sự cho đẻ bán nhân tạo.


1.2.

GIỚI THIỆU TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁ CHÉP

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cá Chép thông thường hay cá Chép châu Âu (Cyprinus carpio) là một loài cá nước ngọt phổ
biến rộng khắp có quan hệ họ hàng xa với cá vàng thông thường và chúng có khả năng lai giống với
nhau.
Cá Chép có nguồn gốc ở châu Âu và châu Á, loài cá này đã được đưa vào các môi trường khác
trên toàn thế giới. Nó có thể lớn tới độ dài tối đa khoảng 1,2 mét (4 ft) và cân nặng tối đa 37,3 kg
(82,2 pao) và có khi lên đến 43 kg, cũng như tuổi thọ cao nhất được ghi lại là 47 năm.
Koi là giống cá Chép được nuôi làm cá cảnh có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng được thế giới
phương Tây biết đến thông qua con đường Nhật Bản.
Tại Australia có các chứng cứ mang tính giai thoại và các chứng cứ khoa học cho thấy việc
đưa cá Chép vào đây là nguyên nhân gây ra nước đục vĩnh cửu và giảm sút thảm thực vật ngầm trong

hệ thống sông Murray-Darling, với hậu quả nghiêm trọng cho hệ sinh thái của sông, chất lượng nước
và các loài cá bản địa. Do điều này, nó được những người đánh cá trong những khu vực này gọi là
'pig' (lợn) của cá nước ngọt.
Tuy nhiên, ở những nơi khác nó được những người câu cá đánh giá cao do kích thước và chất
lượng thịt. Loài cá này được dùng rộng khắp trên thế giới như một loại thực phẩm. Người ta hiện nay
đánh bắt chúng cả trong tự nhiên lẫn trong môi trường nuôi thả. Tại Cộng hòa Czech, cá Chép là một
món ăn truyền thống trong bữa ăn tối vào dịp lễ Nô en.
Cá Chép được đưa vào Bắc Mỹ năm 1877. Chuyến đầu tiên chở 345 cá Chép sống được thả
xuống ao hồ ở công viên đồi Druid thuộc Baltimore, Maryland.
Sau này, lượng cá dư thừa được thả ở các hồ Babcock tại Công viên Đài tưởng niệm
Washington, D.C.. Đây là dự án của Rudolf Hessel, một người nuôi cá cho chính quyền Mỹ.

1.2.

Tình hình nghiên cứu đối tượng trong nước
Cá Chép vốn đã được nuôi lâu đời tại các lưu vực nước ngọt của Việt Nam. Cá chép ở ta phân

bố không quá các tỉnh miền Trung. Tại Quảng Nam, cá Chép có các loại như: Chép Vẩy, Chép Kính,
Chép Trần, Chép Đỏ, Chép Gù…Trong số đó Chép Vẩy được nuôi phổ biến nhất.
Vùng Nam bộ không có cá Chép gốc địa phương mà là các nhập vào từ ngoài Bắc vào.


Thoạt tiên cá được nuôi và thả một cách tự nhiên. Và hiện nay cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ, loài cá Chép này cùng với các loài cá khác đã và đang tiến hành nuôi nhân tạo, cho ăn
thức ăn tổng hợp, cho đẻ bằng phương pháp vuốt trứng…
Trong các loài Chép hiện nay, các loài có tốc độ phát triển nhanh là dòng F1 được lai giữa
Chép Việt và chép Hung, cá sau 1 tuổi đạt trọng lượng 1kg.
Năm 1995 đã tạo ra được một loại hình các Chép ở thế hệ thứ 6 có nhiều phẩm chất tốt phù hợp với
điều kiện ở Việt Nam.
Vừa qua Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (Bộ Thủy sản) đã chọn tạo thành công cá

Chép giống V1 (cá chép lai 3 máu) là kết quả lai ghép 3 dòng (cá Chép trắng VN, cá Chép vẩy
Hungari với cá chép vàng Indonesia). Đây là kết quả của chương trình chọn giống cá Chép và lưu giữ
nguồn gen thuỷ sản, do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Mai Thiên, nguyên Viện trưởng chủ trì và tập thể
cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I Bắc Ninh thực hiện. Cá chép V1 đã tập
hợp được những đặc điểm di truyền quý: Chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt
của cá Chép Việt Nam, thân ngắn và cao, cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá Chép Hungary , đẻ
sớm và trứng ít dính của cá Chép Inđônêxia.


1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN HẠN CHẾ
Trong những năm 70 ÷ 80 của thế kỷ XX, khi các trại cá giống lần lượt xây dựng và đưa vào
hoạt động, hầu hết các tỉnh (phía Bắc) ở nước ta đều có trại cá giống. Nguồn nhân lực kỹ thuật cũng
như công tác giống bố mẹ đều được chuẩn bị lựa chọn tốt. Tuy nhiên, khi cơ chế thay đổi, nhiều cơ
sở sản xuất cá giống không đủ sức trụ lại, vì thua lỗ do quản lý kém, trong khi nghề sản xuất cá giống
lại cho thu nhập đáng kể, lại không phải đầu tư quá lớn. Phong trào “Nhà nhà làm cá giống” đã phát
triển một cách tự phát, trong khi cơ quan quản lý chất lượng chưa lường được mặt trái của tình trạng
này. Thực tế đó dẫn đến việc sử dụng cá bố mẹ trong cùng cơ sở sản xuất làm giống trong nhiều năm
liên tục, hậu quả tất yếu sẽ là hiện tượng cận huyết và thoái hóa chất lượng giống. Hiện tượng này đã
xảy ra ở các loại giống cá truyền thống và đang dần lập lại ở các đối tượng mang giá trị kinh tế cao.
Trao đổi cá bố mẹ giữa các cơ sở và bổ sung nguồn cá giống ngoài tự nhiên là những giải
pháp cơ bản để khắc phục tình trạng trên.


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN THỰC TẬP
2.1.1. Thời gian thực tập
Thời gian thực tập kéo dài từ ngày…08/03/2010 đến ngày…02/05/2010.


2.1.2. Địa điểm thực tập
Đề tài được thực hiện tại “Trạm giống Thủy sản Nước ngọt Phú Ninh” thuộc thôn Trung
Đàn, xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
Trạm giống Thủy sản Nước ngọt Phú Ninh được thành lập năm 1978, và được xem là trạm sản
xuất giống lớn nhất của tỉnh Quảng Nam. Với diện tích khoảng 6 ha mặt nước và địa thế gần hồ Phú
Ninh, nên được thiên nhiên nơi đây ưu đãi rất thuận lợi cho sản xuất nuôi trồng. Nguồn nước cung
cấp cho sản xuất ở đây rất sạch và hầu như công tác nuôi trồng ở đây rất ít sử dụng hóa chất, nếu
không muốn nói là không có. Đây là một trong những tiêu chuẩn lý tưởng của sản xuất giống sạch
cần.

2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống cá Chép bằng phương pháp bán nhân tạo, tức là cho cá đẻ
bằng giá thể bèo.


2.3.

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Nội dung nghiên cứu
2.3.1.1. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và các dụng cụ phục vụ sinh sản cho cá Chép
a) Cơ sở vật chất, trang thiết bị


Mương dẫn nước có độ dốc cao.



Hệ thống bể: hệ thống bể chứa lọc nước để cung cấp vào bể đẻ và bể ấp.




Bể ấp = bể đẻ.



Ao nuôi vỗ cá bố mẹ.



Ao ương cá giống.

b) Dụng cụ phục vụ sinh sản cho cá Chép


Vợt lọc nước để lấy cá bột sau khi đẻ



Lưới kéo cá bố mẹ



Băng ca giữ cá



Cân trọng lượng (dùng cân đòn 50kg)




Que thăm trứng, chén dùng xem trứng



Cối và chày sứ dùng nghiền thuốc kích dục tố, xi lanh và kim tiêm



Sổ ghi chép

2.3.1.2. Bố trí thí nghiệm


Ao nuôi vỗ cá bố mẹ



Ao ương



Bể ấp + bể đẻ



Một số dụng cụ khác

1 bể



Sơ đồ bố trí thí nghiệm
AO NUÔI VỖ CÁ BỐ
MẸ ( 1 )

AO ƯƠNG CÁ BỘT
LÊN CÁ GIỐNG
(4)

BỂ ĐẺ
(2)

BỂ ẤP TRỨNG
(3)


2.3.1.3. Quy trình sản xuất
Cá mẹ
bố mẹ
trong
Cá bố
trong
aoao
nuôi vỗ

Kéo bắt cá,
Kéothăm
bắt cá
trứng
và cân

và sẹ,
trọng
cânlượng
trọng lượng

Mang vào bể đẻ (Thả riêng đực và cái)
Pha
kích dục
tố

Tiêm kích dục tố và thả vào bể đẻ

Thả bèo

Khoảng 10 tiếng sau tiêm
Cá đẻ trứng dính vào giá thể

Vớt bèo – Bắt cá ra ao nuôi vỗ trở lại – Thả bèo trở lại

Ấp trứng (Trứng bám vào giá thể)
1 ngày sau
Trứng bắt đầu nở
2 ngày sau
Lòng đỏ
trứng

Cá bột (trứng đã nở hoàn toàn)
2 ngày sau

Cải tạo ao


Ra ao

Ương cá bột lên cá hương
Thức ăn,
Phân bón

Quản lý,
chăm sóc
Ương cá hương lên cá giống

Cá giống


2.3.1.4. Thuyết minh quy trình
a) Nuôi vỗ


Điều kiện ao nuôi vỗ cá bố mẹ

Loại cá
Cá cái

Diện

Mức

tích

nước


2.000m2

sâu

Hàm
Lớp bùn

Bờ

pH

oxy
dày 0,15÷0,2m

Cao

1.000m2 sâu

Cao

độ

6,5÷8.

2
25÷270C 0m
15kg/10

0m2


1,5m



Mật độ
10kg/10

2mg/l
dày 0,15÷0,2m

Nhiệt

6,5 ÷8.

1,5m
Cá đực

lượng

Quy trình nuôi vỗ

Đối với loài cá chép, cá đực và cá cái được nuôi riêng, vì cá chép có thể đẻ ngay trong vực nước nó
sống khi có điều kiện thuận lợi.
Bảng 2.1. Tỷ lệ nuôi (%) nuôi ghép cá Chép
Loài cá ghép
Loài

Trôi Ấn


Mè trắng

Mè hoa

Chép

Trắm cỏ

Trôi Ấn

50

15

5

5

5

Trắm cỏ

20

15

15

5


10

Mè trắng

15

60

5

7

3

cá chính

Thời gian nuôi vỗ: kéo dài khoảng 5 tháng. Được chia làm 2 giai đoạn:


Nuôi vỗ tích cực



Nuôi vỗ thành thục



Nuôi vỗ tích cực



Thời gian nuôi vỗ tích cực
Tên

3 tháng
Hàm lượng

Cách thức áp dụng
Cho ăn 2 lần/ngày, vào lúc trời mát.

Thức
ăn

Cám gạo

0,35 kg/m2 ao

+ buổi sáng: 8 -9 h
+ buổi chiều: 3- 4h

Phân gà đã ủ hoai

12kg/100m2

Bổ sung khi cần. Bón khi màu nước

Phân
bón

Rãi đều quanh ao, 2 lần/ tuần


Đạm, lân

Tỷ lệ: 2/1

chưa lên. Không được bón chung,
vì dễ gây phản ứng mất đạm.



Các loại lá cây có tính

xanh

chất nhanh mục

15kg/ao/tuần

Bó thành từng bó 5÷7kg, 1 lần/tuần.
Rãi đều quanh ao, cách bờ 1,5m.
Thường xuyên kiểm tra màu nước,
đảo lá dầm, và vớt xác khi đã rục

Kiểm tra, chăm sóc

hết. Cuối giai đoạn nuôi vỗ, cần kéo
lưới kiểm tra cá đã đạt yêu cầu nuôi
vỗ tích cực chưa.





Nuôi vỗ thành thục

Thời gian nuôi vỗ thành
thục
Tên

2 tháng
Hàm lượng

Cách thức áp dụng
Cho ăn 2 lần/ngày, vào lúc trời mát.

Thức ăn

Thóc mầm

1 % trọng lượng cá

+ buổi sáng: 8 -9 h
+ buổi chiều: 3- 4h

Phân gà đã ủ

Rãi đều quanh ao, 2 lần/ tuần

hoai
Bổ sung khi cần. Bón khi màu nước

Phân bón

Đạm, lân
Các
Lá xanh

loại

Giảm ½ so với nuôi


vỗ tích cực

chưa lên. Không được bón chung,
vì dễ gây phản ứng mất đạm.
Bó thành từng bó 5 -7kg, 1

cây có tính

lần/tuần. Rãi đều quanh ao, cách bờ

chất

1,5m.

nhanh

mục
Giống như nuôi vỗ tích cực. Chú ý
Kiểm tra,

kéo lưới kiểm tra định kỳ:


chăm sóc

+ Tháng đầu: 15 ngày/lần.
+ Tháng thứ hai: 7 ngày/lần.
+ Tháng đầu: 15 ngày thay nước/

Chế

lần. Mỗi lần bằng 1/3 lượng nước

độ

ao.

kích nước

+ Tháng thứ hai: 7 ngày/ lần. 1/3
lượng nước ao.

b) Chọn cá, thăm trứng và sẹ



Chọn cá cái:
Chọn những cá thể khỏe mạnh, bụng to, mềm, nếu ngửa bụng cá lên, buồng trứng xệ sang hai

bên, lỗ sinh dục đỏ hồng. Lúc này sử dụng que thăm trứng để thử trứng. Tính đàn hồi của bụng cá mẹ
là một trong những tiêu chuẩn đáng chú ý để chọn cá đẻ.




Chọn cá đực:


Chọn những cá thể khỏe mạnh. Khi vuốt nhẹ bụng cá gần phần phụ sinh dục có sẹ đặc quánh
như sữa đặc trong lon chảy ra là được.
Trước khi cho cá đẻ, rất hạn chế tiếp xúc lâu với cá bố mẹ để tránh stress cho cá. Bởi nếu cá bị stress,
cá có thể không đẻ hoặc dẫn đến kết quả đẻ không cao.



Thăm trứng
Sử dụng que thăm trứng có độ dài 45 cm, dạng ống dài, một đầu bịt kín và một đầu hở. Bắt

ngửa cá nằm trong băng ca. Dùng que thăm trứng đưa vào lỗ sinh dục. Lấy trứng từ hai bên buồng
trứng cho ra chén có nước sạch. Quan sát thấy trứng tròn căng, rời nhau và có màu trắng xanh là
đươc.
c) Tiêm kích dục tố cho cá



Lý thuyết về kích dục tố
Khi tuyến sinh dục của các loài cá nuôi đã đạt được mức độ thành thục hoàn toàn, trứng chín

thì sẽ diễn ra hai quá trình tiếp theo, đó là rụng trứng và đẻ trứng.
Theo Sakem và ctv (1975), khi tế bào trứng đã phát dục thành thục và tách khỏi màng follicle
rơi vào xoang buồng trứng gọi là quá trình rụng trứng. Lúc này trứng ở trạng thái lưu động tự do. Sau
khi trứng rụng, trứng từ xoang buồng trứng được đưa ra ngoài qua lỗ sinh dục của cá cái gọi là sự đẻ
trứng.

Khi tuyến sinh dục của cá bố mẹ phát triển đến cuối giai đoạn IV, nếu bị kích thích bởi một
lượng hormone sinh dục có nồng độ nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định, khi đó sẽ xảy
ra những chuyển biến về sinh lý trong cơ thể cá. Lúc này, dưới tác dụng của thần kinh thể dịch, đặc
Cơ quan
ngoại
biệt cảnh
là tác dụng của hormone
sinh
dục, tế bào follicle nhanh
thành
thục. Tế bào lớp trong của
Ngoại
Thầnchóng
kinh trung
ương
cảm
(Hypothalamus)

follicle trở thành hình lập phương, phình to và nhanh chóng tiết ra dịch thể (noãn dịch) nhiều trong
kinh buồng trứng tăng lên
xoang buồng trứng, về sau các nang trứng thường tách ra và vỡ. Tiếp đóThần
thể tích

Kích dục tố

chi tiết

Hệ tuần hoàn

rõ rệt, khoảng 35% (Vương Nghĩa Cường 1978).


Tuyến yên
(Hypophysis)

Hướng tác động:

Tuyến sinh dục

Hướng phản hồi ngược lại:
Rụng trứng,
tiết tinh


Hình 2.2. Nguyên lý sinh sản của cá nuôi trong điều kiện nhân tạo



Các loại kích dục tố dùng cho sinh sản cá Chép



LH –RH A (Luteotropin Releasing Hormoned Ala Analog)
Đây là một loại kích dục tố tổng hợp, có tác động vào não thùy cá để chúng có thể tự sinh sản

ra hormon sinh dục.
Hormone LH-RHA còn gọi là Prolan A. Từ lâu các nhà nghiên cứu kích dục tố sinh sản đã
biết rằng Hypothalamus (vùng dưới đồi) điều khiển sự làm việc của tuyến yên thong qua thần kinh
thể dịch. Trong đó bao gồm hai hormone quan trọng là FSH – RH (Follicle Stimulating Hormone –
Releasing Hormone) và LH – RHA (Luteotropin Releasing Hormoned Ala Analog). Theo các nhà
khoa học Trung Quốc, hormone này là một decapeptid gồm những acidamin như: Glutamine,

Histidine, Trytophan, Serine, Tyrosine, Glycine, Leucine, Arginine, Proline và Lyzine.
LH-RHa được chiết xuất từ hormon sinh dục các loài động vật. Chúng có nhiều nhiều nhóm
tương tự : LH-RHa1, LH-RHa2, LH-RHa3. Sau khi tiêm LH – RHA cho cá chép thì hàm lượng kích
dục tố trong máu tăng lên.


DOM
Trong tuyến yên của cá, ngoài các hormone sinh dục, còn tiết ra một chất quan trọng khác có

tác dụng ức chế quá trình tiết kích dục tố cơ bản (sản ra kích dục tố tự phát) mà còn ức chế cả sự tiết
kích dục tố dưới ảnh hưởng của LH – GHA, đó là chất Dophamin. Để làm giảm tác dụng của chất ức
chế, người ta tiêm thêm chất kháng Dopamin là Doperidom (DOM).


Liều dùng
Bảng 2.2. Liều lượng kích dục tố tiêm cho cá chép
Loại kích dục tố

Liều lượng

Đơn Vị Tính

DOM

5

mg/kg


LRH – A


10

mcg/kg

mg = miligam (phần nghàn gam); mcg = microgam (phần triệu gam)
(Nguyễn Tường Anh (1999))



Kỹ thuật tiêm
Đặt cá vào trong băng ca (đối với cá lớn) chìm dưới nước, lật ngửa cá và tiêm vào xoang gốc

vây ngực ở phần da, kim tiêm tạo thành một gốc 45 0 so với thân cá. Tránh tiêm vào cơ vây, vì sẽ làm
thối vây.

Hình 2.3. Kỹ thuật tiêm cá

d) Cho cá đẻ
Sau khi tiêm kích dục tố cho cá xong, thả chung cá đực và cá cái vào một bể. Sau thời gian
khoảng 9 – 10 tiếng, cá động hớn và rượt đuổi nhau. Cá cái đẻ trứng, cá đực phóng tinh trùng. Trứng
đẻ ra bám vào rễ bèo. Những trứng được thụ tinh sẽ được ấp nở và phát triển. Những trứng không
được thụ tinh sẽ bị phân hủy trong môi trường.
e) Ấp nở
Nguyên lý ấp nở: Trứng sau khi thụ tinh, được chứa ngay trong bể ấp để ấp nở. Đặc điểm sinh
lý hô hấp của trứng là tự động, theo nguyên lý: O 2 từ môi trường sẽ trao đổi với O2 trong trứng do có
hàm lượng cao hơn, ngược lại CO2 từ trứng sẽ thoát ra môi trường nước do nồng độ CO 2 trong nước
thấp hơn.



“Tạo môi trường (nước ấp) có nồng độ O 2 cao và CO2 thấp, các chất thải của trứng và cá con
sau khi nở (chủ yếu CO2) được dẫn khỏi môi trường bằng cách tạo dòng nước sạch chảy qua các hạt
trứng. Như vậy về nguyên tắc, không cần khối lượng nước chảy nhiều mà cần nước giàu O 2”.




Một số yếu tố sinh thái có quan hệ đến quá trình phát triển của phôi
Hàm lượng oxy hòa tan
Lượng tiêu hao oxy của phôi cá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong

cùng một cơ thể tiêu hao oxy ở các giai đoạn khác nhau thì khác nhau. Hoạt động này cũng khác nhau
khi ở điều kiện nhiệt độ khác nhau.
Lượng tiêu hao oxy của phôi cá thường cao ở giai đoạn trước và sau khi nở, đặc biệt là giai
đoạn cá bột, sau đó giảm dần.


Nhiệt độ nước
Phạm vi thích ứng nhiệt độ nuôi đối với các loài cá khác nhau thì khác nhau. Tốc độ phát dục

của phôi thai cá nuôi chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ. Nhiệt độ nước cao thì quá trình phát triển
của phôi cá nhanh và ngược lại. Khi ấp trứng cá ở nhiệt độ thích hợp sẽ thu được tỷ lệ nở cao và cá
bột có chất lượng tốt.
Nhiệt độ nước ấp còn là nguyên nhân của hiện tượng dị hình ở cá. Hiện tượng dị hình xuất hiện vào
giai đoạn cuối của quá trình phát triển phôi, thai phôi cong và các bộ phận đầu và đuôi bị cong. Khi
nhiệt độ nước vượt quá ngưỡng thích ứng của phôi cá, phôi sẽ xảy ra hiện tượng dị hình. Đặc biệt khi
nhiệt độ nước ấp càng cao, tỷ lệ dị hình càng tăng.
Trong quá trình ấp trứng, nếu nhiệt độ tăng lên một cách từ từ trong phạm vi thích hợp, phôi
cá phát triển tốt hơn ở nhiệt độ thích hợp ổn định.


 Dụng cụ ấp trứng


Bể vòng
Nguyên mẫu, dụng cụ ấp trứng, bể vòng được xây dựng đầu tiên tại trung quốc, vào thập kỷ

60 của thế kỷ XX


Hình dạng, kích thước
Xây bằng gạch, hình vành khăn, đường kính trong từ 0,8÷1m, khoảng vành khăn công tác ấp

trứng rộng khoảng 0,3÷0,5m và đường kính ngoài rộng khoảng 4÷5m.
Nước ấp để ấp trứng được cấp vào phần vành khăn qua van điều tiết và hệ thống vòi phun (10
cái) đặt ở đáy vành khăn. Nước tiêu từ vành khăn được chọn lọc qua lưới, chảy vào lõi bể (hình trụ)


rồi thoát ra ngoài theo ống tiêu đặt ngầm dưới đáy bể. Nhờ cấu tạo như vậy, nước trong vành khăn
luôn chảy thành dòng liên tục, quay tròn.

Hình 2.4. Bể vòng lúc có nước và lúc không thả nước




Ưu điểm
Có thể ấp trứng từ lúc thụ tinh đến khi tiêu hết noãn hoàng (sau khi nở 3 ngày) mà

không phải di chuyển như khi ấp bằng bình Weis.



Không cần tốn nhiều thời gian.



Nước để ấp không cần phải xử lý kỹ như khi ấp bằng bình Weis.



Nhược điểm



Không di chuyển được khi cần thiết.



Thu cá bột khó, tốn thời gian.
Bảng 2.3. Các thông số kỹ thuật như sau
Đặc điểm

Lưu tốc

Từ lúc cá đẻ trứng vào đến khi vỏ trứng mềm (2 -3 ngày)

0,15 ÷ 0,20m/giây

Từ lúc vỏ trứng mềm đến 3 giờ sau khi nở

0,3 ÷0,4m/giây


Sau khi nở 3 tiếng đến khi cá bơi ngang, ngược dòng nước

0,15 ÷0,20 m/giây

(Nguyễn Tường Anh, 2005)


Trong suốt thời gian ấp, không lúc nào được ngừng cấp nước, vì nếu nước đứng, cá sẽ chui
ngược vào hệ thống ống tiêu nước.
f) Ao ương



Ra ao ương

Sau khi cá nở một thời gian dinh dưỡng hết noãn hoàn thì được mang ra ao ương.
Thả cá ra ao: Chọn lúc trời mát, nhiệt độ nước từ 25 0 - 280C, thả cá xuống nước từ từ để cá quen dần
với môi trường ao rồi mới đưa hết ra ao khỏi dụng cụ đựng cá, tránh cá bị sốc và nhiễm bệnh.



Lựa chọn ao ương

Trước khi ương phải lựa chọn những ao tốt, đạt những tiêu chuẩn sau:


Nguồn nước phải chủ động dẫn và tiêu dễ dàng




Chất đáy phải thích hợp



Diện tích và độ sâu vừa phải



Bờ ao chắc chắn không bị rò rỉ



Ánh sáng đầy đủ - Thuận tiện cho việc quản lý chăm sóc

Mô phỏng một ao nuôi

Hình 2.5. Ao ương nuôi cá giống

Cống cấp
nước

Bờ ao


Cơ ao

Độ sâu ao
Lối lên, xuống ao
Cống thoát nước


Hình 2.6. Mặt cắt và kết cấu ao

 Ý nghĩa của công tác tẩy dọn ao
Ao là môi trường sống của cá nuôi, nên điều kiện ao nuôi tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp đến
sự sống của cá nuôi, tức là ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá, cho nên khi ương nuôi
cá con, biện pháp cải tạo ao nuôi được đặt lên vị trí hàng đầu, được xem là một biện pháp quan trọng
để nâng cao hiệu suất nuôi.
Thông thường sau mỗi vụ nuôi, các chất cặn bã, thức ăn dư thừa, phân bón…lắng xuống và
tích tụ rất nhiều ở đáy ao và đây là nơi ẩn nấu của các loại vi khuẩn và ký sinh trùng gây bệnh. Đồng
thời khi lấy nước vào ao cũng có thể đưa các loại địch hại, cá dữ và các sinh vật gây bệnh cho cá. Ao
có nhiều chất hữu cơ lắng tụ, khi thời tiết thay đổi, nhiệt độ nước nâng cao, hàm lượng oxy giảm đi,
trong quá trình phân giải vật chất hữu cơ, sẽ sinh ra nhiều chất độc hại như: H 2S,CH4…rất có hại cho
sức khỏe của cá.
Nếu ở đợt nuôi trước, cá đã bị các bệnh truyền nhiễm, nếu không tẩy dọn đúng kỹ thuật thì
bệnh sẽ tiếp tục phát triển ở đợt nuôi sau. Như vậy có nhiều vấn đề liên quan đến chất lượng ao và
nước có ảnh hưởng xấu đến khả năng sống sót và sinh trưởng của cá. Nếu không diệt cá tạp và cá dữ


thì cá nuôi sẽ là mồi cho các loại địch hại này hoặc chúng có thể cạnh tranh một phần lượng thức ăn
của cá nuôi.
Thao tác tẩy dọn ao nuôi mang lại những lợi ích sau :


Tăng thêm nguồn vật chất dinh dưỡng cho cá



Tăng thêm phạm vi hoạt động và thêm lượng cá thả




Diệt trừ các sinh vật địch hại

g) Ương nuôi cá Chép giống
Bao gồm hai khâu công tác đó là:


Ương nuôi cá bột lên cá hương.



Ương nuôi cá hương lên cá giống.

 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cá
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cá bao gồm:


Thức ăn



Nhiệt độ



Oxy




Bệnh tật



Khoảng không gian sống của cá



Sự vận động của nước



Thức ăn
Là yếu tố ngoại cảnh quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cá cả về mặt số lượng

và chất lượng. Cá chỉ có thể lớn được khi khẩu phần thức ăn đưa vào lớn hơn khẩu phần duy trì. Qua
thực nghiệm cho thấy, nhịp điệu ăn thưa thì cá ăn nhiều hơn, nếu cho ăn thừa thãi thì cá cũng chỉ ăn
đến một mức độ nhất định. Lượng thức ăn cá sử dụng còn phụ thuộc vào ngoại cảnh như nhiệt độ,
nồng độ oxy, mật độ cá…Chất lượng thức ăn cũng quyết định đến sinh trưởng của cá, mỗi loại thức
ăn có một hệ số chuyển hóa khác và ở các loài khác nhau cũng khác.
Thức ăn của cá bao gồm hai loại:


Thức ăn tự nhiên



Thức ăn nhân tạo




Thức ăn tự nhiên


Thức ăn tự nhiên của cá chủ yếu được tạo ra bằng cách bón phân hữu cơ và phân vô cơ vào môi
trường nước nuôi.

Phân hữu cơ + muối vô cơ
hòa tan
Quang hợp

Vi khuẩn

Tảo phù du

Động vật phù du

Động vật đáy



Xác chết và chất thải của động vật
và thực vật + vi khuẩn phân hủy


×