Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các cơ sở sản xuất tại làng nghề khúc toại, xã khúc xuyên, thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

TRẦN LỆ XUÂN

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT TẠI LÀNG NGHỀ KHÚC TOẠI,
XÃ KHÚC XUYÊN, THÀNH PHỐ BẮC NINH,
TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

TRẦN LỆ XUÂN



GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT TẠI LÀNG NGHỀ KHÚC TOẠI,
XÃ KHÚC XUYÊN, THÀNH PHỐ BẮC NINH,
TỈNH BẮC NINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ HỮU ẢNH

HÀ NỘI, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Tất cả các nội dung và số liệu trong đề tài này do tôi tự tìm hiểu,
nghiên cứu và xây dựng, các số liệu thu thập là đúng và trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết quả của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào.

Tác giả luận văn

Trần lệ Xuân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page i



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình
của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo khoa Kế
toán và Quản trị kinh doanh Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại trường, đặc biệt
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Hữu Ảnh và các thầy cô
trong Bộ môn Tài chính đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thiện
luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo các sở, ban ngành, giám đốc
các công ty, chủ các cơ sở sản xuất trong làng nghề Khúc Toại đã tận tình
cung cấp tài liệu, giúp đỡ tôi trong quá trình điều tra số liệu phục vụ nghiên
cứu luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người thân,
bạn bè, các anh chị cùng khóa CH QTKD K21 đã giúp đỡ và động viên tôi
trong suốt quá trình học tập và rèn luyện.
Do thời gian có hạn, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo cũng như toàn thể bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn !
Người thực hiện luận văn

Trần Lệ Xuân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN


i

LỜI CẢM ƠN

ii

MỤC LỤC

iii

DANH MỤC BẢNG

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, sơ đỒ

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

vii

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài


1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

3

1.2.1 Mục tiêu chung

3

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

3


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

4

2.1

4

Cơ sở lý luận

2.1.1 Một số lý luận chung về làng nghề và hiệu quả kinh doanh

4

2.1.2 Nội dung nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của các cơ sở sản xuất trong
2.2

làng nghề

28

Cơ sở thực tiễn

33

2.2.1 Các công trình nghiên cứu có liên quan

33


2.2.2 Kinh nghiệm và bài học thực tiễn

36

PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

48

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

48

3.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển làng nghề Khúc Toại

48

3.1.2 Điều kiện tự nhiên

49

3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội – môi trường

50

3.2

58


Phương pháp nghiên cứu

3.2.1 Khung phân tích
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

58
Page iii


3.2.2 Thu thập số liệu

60

3.2.3 Phương pháp xử lý số liệu

61

3.2.4 Phương pháp phân tích

62

3.2.5 Chỉ tiêu phân tích

63

PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

65

4.1


Thông tin cơ bản và thực trạng sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản
xuất tại làng nghề

65

4.1.1 Loại hình kinh doanh của các cơ sở sản xuất

65

4.1.2 Một số thông tin về các cơ sở sản xuất

66

4.1.3 Những nguồn lực chính của các cơ sở sản xuất

68

4.1.4 Kết quả sản xuất một số sản phẩm chủ yếu của các cơ sở

74

4.1.5 Tình hình tiêu thụ sản phẩm tại làng nghề

78

4.2

82


Thực trạng hiệu quả kinh doanh của các cơ sở sản xuất tại làng nghề

4.2.1 Thực trạng hiệu quả kinh doanh theo các loại hình kinh doanh

82

4.2.2 Thực trạng hiệu quả kinh doanh theo quy mô sử dụng nguồn lực của các
cơ sở sản xuất

85

4.2.3 Thực trạng hiệu quả kinh doanh theo mức đầu tư vào máy móc, thiết bị
của các cơ sở tại làng nghề
4.3

91

Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các cơ sở sản
xuất của làng nghề

95

4.3.1 Định hướng phát triển

95

4.3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các cơ
sở sản xuất tại làng nghề

99


PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

114

PHỤ LỤC

116

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã Khúc Xuyên 2011-2013

Trang
51

Bảng 3.2 Tình hình biến động dân số và lao động của xã Khúc
Xuyên 2011-2013


54

Bảng 3.3: Giá trị sản xuất của toàn xã phân theo ngành sản xuất 20112013

57

Bảng 4.1: Loại hình kinh doanh của các cơ sở sản xuất tại làng nghề

65

Bảng 4.2: Thông tin chính về các cơ sở sản xuất tại làng nghề

66

Bảng 4.3: Nguồn lực của các cơ sở sản xuất tại làng nghề

68

Bảng 4.4: Kết quả sản xuất một số sản phẩm chủ yếu năm 2013

76

Bảng 4.5: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của các cơ sở tại làng nghề
năm 2013

81

Bảng 4.6: Hiệu quả kinh doanh theo loại hình sản xuất tại làng nghề
2011-2013

Bảng 4.7: Hiệu quả kinh doanh theo quy mô nguồn vốn của các cơ sở

83
86

Bảng 4.8: Hiệu quả kinh doanh theo mức độ sử dụng lao động của
các cơ sở sản xuất tại làng nghề

89

Bảng 4.9: Hiệu quả kinh doanh theo mức đầu tư vào máy móc, thiết bị
của các cơ sở sản xuất tại làng nghề

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

93

Page v


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Biểu đồ 2.1: Thị trường xuất khẩu của hàng gỗ mỹ nghệ Việt Nam

Trang
47


Biểu đồ 4.1: Cơ cấu sử dụng lao động bình quân theo loại hình kinh doanh 70
Biểu đồ 4.2: Cơ cấu trình độ lao động bình quân từng loại hình kinh doanh 72
Biểu đồ 4.3: Cơ cấu sử dụng vốn bình quân từng loại hình kinh doanh
STT
Sơ đồ 3.1:

Tên sơ đồ
Khung phân tích luận văn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

73
Trang
59

Page vi


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa

1

BQC


Bình quân chung

2

CC

Cơ cấu

3

CH QTKD K21

Cao học Quản trị kinh doanh khóa 21

4

CN – TTCN

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

5

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

6

DT


Diện tích

7

ĐVT

Đơn vị tính

8

HTX

Hợp tác xã

9

KD

Kinh doanh

10



Lao động

11

LN


Làng nghề

12

LNTT

Làng nghề truyền thống

13

NCS

Nghiên cứu sinh

14

NDT

Nhân dân tệ

15

NN

Nông nghiệp

16

NTTS


Nuôi trồng thủy sản

17

PPNC

Phương pháp nghiên cứu

18

SL

Số lượng

19

SXKD

Sản xuất kinh doanh

20

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

21

TP


Thành phố

22

TS

Tiến sĩ

23

UBND

Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì một trong
những vấn đề nóng bỏng cần được quan tâm lớn ở Việt Nam cũng như các
nước đang phát triển khác trên thế giới là công nghiệp hóa kinh tế nông thôn.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trên đòi hỏi phải thu hút được nguồn vốn
đầu tư, tiếp cận được những tiến bộ khoa học công nghệ, giải quyết việc làm...
Do ở nước ta hiện nay hơn 70% dân số ở nông thôn, trong quá trình ưu tiên
phát triển công nghệ thì cần phải chú trọng phát triển công nghiệp làng nghề,
đặc biệt là sự có mặt của các khu công nghiệp. Qua một thời gian dài kiểm
chứng thực tế cho thấy rằng bên cạnh các khu công nghiệp tập trung, thì các

khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề hoạt động khá hiệu quả, đóng
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển sản xuất trong nước. Đồng
thời góp phần to lớn nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường
quốc tế.
Từ khi Chính phủ ban hành Quyết định 132/2000/QĐ-TTG về “Một số
chính sách phát triển ngành nghề nông thôn”, ngành nghề ở nông thôn tại các
địa phương đã có nhiều bước phát triển rõ rệt. Sự phát triển của các ngành
nghề đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
giảm nhanh tỷ trọng và giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị sản
xuất tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn, góp phần giải
quyết việc làm cho nhiều người lao động. Sản xuất ngành nghề đã tạo ra
nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu liên tục trong
các năm. Nhiều cơ sở và các hộ dân sản xuất ngành nghề đã bước đầu khẳng
định được uy tín chất lượng và thương hiệu hàng hóa của mình đối với khách
hàng trong nước và thế giới.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1


Đồ gỗ nội thất là một trong những sản phẩm thủ công mỹ nghệ có
truyền thống lâu đời của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn. Hình thức tổ chức phổ biến ở các làng nghề sản xuất đồ gỗ nội thất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã và hộ gia đình.
Làng nghề Khúc Toại thuộc xã Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh (hay
còn gọi là làng Chọi) là một làng nghề Mộc truyền thống có từ lâu đời, đã
thành danh và nổi tiếng nhiều năm với thương hiệu dân gian không đăng ký,

đó là “Đồ gỗ làng Chọi” mà nhiều vùng biết tới. Việc sản xuất, kinh doanh đồ
gỗ nội thất đã giúp cải thiện đời sống của người dân nơi đây một cách đáng
kể, bộ mặt làng nghề dần dần được thay đổi. Bên cạnh đó vẫn tồn tại rất nhiều
vấn đề trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các cơ sở sản xuất đó là
sản xuất quy mô nhỏ lẻ, phân tán rải rác; Thiếu cơ sở trưng bày, giới thiệu sản
phẩm nên chưa tạo nên sức cạnh tranh trên thị trường; Khả năng đầu tư cho
máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp dẫn đến chất lượng sản phẩm và năng
suất lao động chưa thực sự cao. Tất cả những điều đó dẫn đến thị trường tiêu
thụ sản phẩm của làng nghề còn hạn hẹp, sức sản xuất kém, hiệu quả kinh
doanh chưa cao.
Nhiều câu hỏi đặt ra và cần có hướng giải quyết như: Thực trạng hiệu
quả kinh doanh của các cơ sở ở làng nghề trong những năm qua như thế nào?
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các cơ sở sản xuất, phát triển làng nghề
một cách bền vững thì cần có những giải pháp nào?
Xuất phát từ những lý do thực tiễn trên tôi đã lựa chọn và thực hiện
nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các cơ sở
sản xuất tại làng nghề Khúc Toại, xã Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh”.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1

Mục tiêu chung
Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu thực trạng hiệu


quả kinh doanh của các cơ sở sản xuất tại làng nghề gỗ Khúc Toại. Từ đó, đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các cơ sở sản xuất
tại làng nghề.
1.2.2

Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả kinh doanh của

doanh nghiệp.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả kinh doanh của các cơ sở sản xuất tại
làng nghề chuyên kinh doanh, sản xuất đồ gỗ Khúc Toại.
- Góp phần đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các cơ
sở sản xuất tại làng nghề chuyên kinh doanh, sản xuất đồ gỗ Khúc Toại.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các cơ sở sản xuất kinh doanh đồ gỗ tại làng nghề Khúc Toại và hiệu
quả kinh doanh của các cơ sở trong những năm gần đây.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Khúc Xuyên, TP Bắc Ninh, tỉnh
Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian
Để phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài chúng tôi sử dụng các số
liệu có sẵn được thu thập từ năm 2011 – 2013 và số liệu điều tra năm 2013, các
giải pháp dự kiến đến năm 2020.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3



PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số lý luận chung về làng nghề và hiệu quả kinh doanh
2.1.1.1 Khái niệm và phân loại làng nghề
a, Khái niệm làng nghề
Từ lịch sử phát triển lâu đời, Việt Nam vốn là đất nước của nông
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Khi điều kiện đất nước còn khó khăn, người
dân còn nghèo khổ, thì người nông dân đều phải tự làm hầu hết các sản phẩm
sử dụng hàng ngày với cách chế tác thủ công đơn giản như dệt vải, làm mộc,
rèn đúc kim loại, làm đồ gốm, đan mây tre... Đó là những việc làm lúc nông
nhàn của người dân và trở thành việc làm thường xuyên của một số hộ, dần
dần trở thành nghề phụ gắn bó mật thiết với đời sống của người dân nghèo.
Làng nghề xuất hiện và phát triển từ đó.
Làng nghề là một thiết chế gồm 2 yếu tố cấu thành là “làng” và “nghề”.
Xã hội nông thôn Việt Nam từ xưa tới nay, làng là một tế bào xã hội người
Việt. Nó là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một
địa vực, một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân cư
quần tụ lại cùng sinh sống và sản xuất. Sự khái quát chung về ruộng đất, việc
xây dựng những công trình trị thuỷ và thuỷ lợi nhỏ ở thời kỳ đầu đã gắn bó
những người không cùng huyết thống là một không gian xã hội ổn định.
Trong làng chồng xếp nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội – nhân văn phong
phú, phức tạp, như huyết thống, láng giềng, nghề nghiệp, hôn nhân, tín
ngưỡng và hợp tác v.v... (Dương Bá Phượng, 2001).
Sự xuất hiện các ngành nghề thủ công ở các làng quê lúc đầu chỉ là
ngành nghề phụ trong các gia đình tiểu nông, chủ yếu được tiến hành trong
những lúc “nông nhàn”. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, các ngành
nghề thủ công tách dần khỏi nông nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 4


nông nghiệp và khi đó có một số thợ thủ công không còn làm nông nghiệp
nữa, song họ vẫn gắn chặt với làng quê. Tiêu chí thường được dùng để xem
xét khi đưa ra khái niệm làng nghề gắn với số hộ (hoặc số người) chuyên làm
nghề và thu nhập từ nghề đó. Những làng được gọi là làng nghề khi người
chuyên làm nghề thủ công nghiệp sống bằng chính nguồn thu nhập từ nghề đó
chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong dân số (hoặc lao động) ở làng. Qua khảo sát
thực tiễn ở một số làng nghề cho thấy, các làng nghề này thường có từ 3540% số hộ (hoặc số lao động) chuyên làm nghề thủ công nghiệp trở lên (Trần
Văn Thảo, 2011).
Nếu xét ở góc độ rộng, làng nghề là những làng tạo ra thu nhập, tạo
việc làm, có thao tác riêng biệt nói chung. Xem xét ở góc độ này thì ở Việt
Nam có thể chia làm 4 loại như sau:
+ Làng nông nghiệp: là làng thuần nông.
+ Làng buôn: là làng nông nghiệp có thêm nghề buôn.
+ Làng chài: Là làng của vạn chài, kẻ chài ven sông, ven biển.
+ Làng nghề: là làng nông nghiệp có thêm nghề thủ công.
Như vậy, “nghề” nào cũng là nghề cả và làng nông nghiệp nào cũng là
làng nghề. Vậy từ cách tiếp cận đó ta có quan niệm về làng nghề như sau:
Làng nghề là cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số
nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập
từ các ngành đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
Các làng nghề truyền thống thường gắn liền với nghề truyền thống
nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Bởi vì, các làng nghề mới cũng chứa đựng
các ngành nghề truyền thống. Nghĩa là, các ngành nghề truyền thống được di
chuyển lan tỏa từ các làng nghề truyền thống sang các làng nghề mới. Mặt
khác, cũng có một số nghề mới xuất hiện hoặc du nhập từ nước ngoài vào các
làng nghề truyền thống (Dương Bá Phượng, 2001).


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về “Làng nghề”.
Trong cuốn “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp
hóa- Hiện đại hóa”, Mai Thế Hởn (2000) có viết: “Xung quanh vấn đề về các
quan điểm như thế nào là một làng nghề có rất nhiều cách khác nhau. Tuy
nhiên tựu chung lại có 3 quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất:
Làng nghề là nơi hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho nghề
ấy và nó là nghề sống chủ yếu.
Quan điểm thứ hai:
Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, nhưng không nhất thiết
toàn bộ dân làng đều làm nghề thủ công. Người thợ thủ công nhiều khi cũng
làm nghề nông nhưng do chuyên môn họ chuyển sang sản xuất thủ công ngay
tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác.
Quan điểm thứ ba:
Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và
nhiều hộ gia đình chuyên môn làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết
hỗ trợ trong sản xuất bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng có tổ nghề.”
Tuy nhiên, quan điểm như vậy xét trong điều kiện ngày nay là chưa đầy
đủ tính chất của làng nghề, nó không chỉ tồn tại và phát triển như một thực thể
sản xuất kinh doanh một cách lâu đời trong lịch sử mà nó có tác dụng to lớn
đối với đời sống văn hóa tinh thần đối với người dân.
Theo Trần Quốc Vượng (1996) thì “làng nghề (như làng gốm Bát
Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hương Canh..., làng đồng Bưởi, Vó, Hè Nôm,
Thiệu Lý, Phước Kiều..., làng giấy vùng Bưởi, Dương Ổ..., làng rèn sắt Canh

Diễn, Phù Đức, Đa Hội v.v...) là làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu
nông và chăn nuôi (lợn, gà...) cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm
nương, làm đậu phụ...) song đã nổi trội một số nghề cổ truyền, tinh xảo với
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


một tầng lớp thủ công nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ
chức), có ông trùm, ông phó cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm,
có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tư ư nghệ”, “nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt
hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tình mỹ nghệ, đã trở thành sản
phẩm hàng hoá có quan hệ tiếp thị với một thị trường và tiến tới mở rộng ra
cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài”. Định nghĩa này hàm ý về các
làng nghề truyền thống, đó là những làng nghề nổi tiếng, đã tồn tại từ hàng
nghìn năm nay.
Mới đây, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đưa
ra ý kiến đóng góp của mình vào bản Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện
một số nội dung Nghị định số 66/NĐ- CP về phát triển ngành nghề nông thôn.
Trong bản đóng góp ý kiến VCCI đã đề cập và đưa ra khái niệm về làng nghề
như sau:
“Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên một xã, thị trấn (được
gọi chung là làng), có hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc
nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
b, Những tiêu chí và phân loại làng nghề
Khi phân loại làng nghề ta thấy, có làng nghề truyền thống và làng
nghề mới, có làng một nghề và làng nhiều nghề.
- Làng một nghề: là những làng ngoài nghề nông ra chỉ còn thêm một

nghề thủ công duy nhất chiếm ưu thế tuyệt đối như the La Cả, lụa Vạn Phúc,
gốm Bát Tràng, chạm bạc Đồng Xâm, thêu Quất Động...
- Làng nhiều nghề: là những làng ngoài nghề nông còn có một số nghề
thủ công nghiệp như Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ, Trai Trang, Đình Bảng...
- Làng nghề truyền thống: là những thôn (làng) có một hay nhiều nghề
thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7


và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ
công được truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế hệ nối tiếp
nhau. Cùng với sự thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này thường
là nổi trội, một nghề cổ truyền tinh xảo, một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất có quy trình sản xuất
nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính nghệ thuật
và giá trị hiện trường (Mai Thế Hởn, 2000).
- Làng nghề mới: là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan tỏa của các nghề truyền thống, có những
điều kiện thuận lợi và phát triển.
Không phải bất kỳ làng nào có hoạt động ngành nghề cũng được gọi là
làng nghề mặc dù làng nào, nghề nào cũng mang bản sắc, mang nét tinh túy
riêng, mà chỉ có những nghề có khả năng đem lại cuộc sống no ấm, thu hút
được đông đảo người dân tham gia sản xuất, lâu dần tụ thành các làng cùng
sản xuất, cùng kinh doanh mới được coi là các làng nghề. Hiện nay, Chính
phủ cũng như các địa phương đã quy định các tiêu chí công nhận làng nghề để
tiện cho việc quản lý và phát triển. Các quy định này đã cụ thể hóa các tiêu
chuẩn xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề, nghề cổ truyền và nghề
mới trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, góp phần giải quyết

việc làm cho người lao động tại địa phương; Mặt khác góp phần khuyến
khích, động viên thợ thủ công có trình độ cao về kỹ thuật, tay nghề và kinh
nghiệm trong việc nghiên cứu, sáng tác, tập trung trí tuệ sản xuất ra nhiều sản
phẩm có giá trị kinh tế cao, mang bản sắc văn hóa dân tộc, có tính nghệ thuật
cao, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Theo Thông tư số 116/2006/TT- BNN, ngày 18 tháng 12 năm 2006
“Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ- CP
ngày 07/07/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn”, có quy
định cụ thể về tiêu chí công nhận làng nghề như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


Tiêu chí công nhận nghề truyền thống
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí như sau:
- Nghề đã xuất hiện tại địa phương được 50 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận;
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc;
- Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân, tên tuổi của LN.
Tiêu chí công nhận làng nghề
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận;
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống theo quy định tạo Thông tư.

Năm 1999, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có quyết định số 1492/199/QĐUB Quy định tạm thời về Tiêu chuẩn công nhận nghề truyền thống, làng
nghề, làng nghề truyền thống. Về cơ bản tiêu chuẩn công nhận mà UBND
tỉnh Bắc Ninh đưa ra giống so với Thông Tư mà Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đưa ra, tuy nhiên tỉnh có đưa thêm quy định khác trong tiêu
chí công nhận làng nghề như sau:
- Số hộ hoặc lao động làm nghề CN-TTCN ở làng đạt 50% trở lên so
với tổng số hộ hoặc lao động trong làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ CN-TTCN ở làng chiếm tỷ trọng trên
50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Đảm bảo vệ
sinh môi trường theo quy định hiện hành.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


- Có hình thức tổ chức phù hợp chịu sự quản lý của chính quyền địa
phương, gắn với mục tiêu kinh tế- xã hội và làng văn hóa của địa phương.
- Các tiêu chuẩn của làng được ổn định và đạt từ ba năm trở lên.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: Nếu là làng nghề truyền
thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của
làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì
lấy nghề đó đặt tên nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không phải
LNTT hay chưa có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì tên nghề của làng do nhân
dân bàn bạc thống nhất và chính quyền địa phương xem xét đề nghị.
2.1.1.2 Lý luận về hiệu quả kinh doanh
a, Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt
động trong nền kinh tế thị trường, với các cơ chế quản lý khác nhau, nhưng
trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác

nhau. Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp đều có
mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này
mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh và phát
triển doanh nghiệp thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện
việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế
hoạch hóa các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời tổ chức thực hiện
chúng một cách có hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động quản trị
trên, các doanh nghiệp phải luôn luôn kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của
chúng. Muốn kiểm tra đánh giá các hoạt động sản xuất kinh doanh chung của
doanh nghiệp cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp
thì doanh nghiệp không thể không thực hiện việc tính hiệu quả kinh tế của các
hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động
sản xuất kinh doanh hay hiệu quả sản xuất kinh doanh là gì?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10


"Hiệu quả sản xuất kinh doanh" là một phạm trù khoa học của kinh tế
vi mô cũng như nền kinh tế vĩ mô nói chung. Nó là mục tiêu mà tất cả các nhà
kinh tế đều hướng tới với mục đích rằng họ sẽ thu được lợi nhuận cao, sẽ mở
rộng được doanh nghiệp, sẽ chiếm lĩnh được thị trường và muốn nâng cao uy
tín của mình trên thương trường.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về hiệu quả kinh
doanh cụ thể như một vài quan điểm mang tính chất hiện đại.
- Theo P. Samuelson và W. Nordhaus (1985) thì "hiệu quả sản xuất
kinh doanh diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một cách hàng loạt
hàng hóa mà không cắt giảm một loạt hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu
quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó".

Thực chất của quan niệm này là đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các
nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền
kinh tế có hiệu quả cao. Có thể nói mức hiệu quả ở đây mà tác giả đưa ra là
cao nhất, là lý tưởng và không có mức hiệu quả cao hơn nữa.
- Hai tác giả Wohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh
tế. Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính
bằng đơn vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau:
"Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg…) và
lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu…)
được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật hay hiện vật", "Mối quan hệ tỷ
lệ giữa chi phí kinh doanh phải chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí
kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về mặt giá trị" và
"để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ giữa
sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền". Khái niệm
hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị của hai ông chính là năng suất lao động,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là
hiệu quả hoạt động quản trị chi phí (Lê Thanh Tùng, 2013).
- Theo các tác giả khác:
Có một số tác giả cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ
giữa tỷ lệ tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Các quan điểm này
mới chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ
phần tham gia vào quy trình kinh tế.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số

giữa kết quả nhận được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho
quan điểm này là tác giả Manfred Kuhu, theo ông: "Tính hiệu quả được xác định
bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh". Đây
là quan điểm được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính
hiệu quả kinh tế của các quá trình kinh tế (Lê Thanh Tùng, 2013).
Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm
chú ý và sử dụng phổ biến đó là: Hiệu quả kinh tế của một số hiện tượng
(hoặc một quá trình) kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt
được mục tiêu xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được
tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ các quan điểm về hiệu quả kinh tế đã trình bày trên có thể hiểu được
rằng hiệu quả kinh tế hay hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một
phạm trù kinh tế nó phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy
móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mong đợi
mà doanh nghiệp đã đặt ra.
b, Bản chất hiệu quả kinh doanh
Từ khái niệm về hiệu quả kinh tế nói chung cũng như hiệu quả kinh tế
hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã phản ánh hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy móc,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


thiết bị, khoa học công nghệ và vốn), để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - đó là mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận.
Để hiểu rõ được bản chất thực sự của hiệu quả kinh tế của hoạt động sản
xuất kinh doanh thì chúng ta phải phân biệt được ranh giới giữa hai khái niệm đó là

hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai khái niệm này nhiều
khi người ta hiểu như là một, thực ra chúng có điểm riêng biệt khá lớn. Ta có thể
hiểu kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những gì
doanh nghiệp đã đạt được sau một quá trình hoạt động mà họ bỏ công sức, tiền, của
vào. Kết quả đạt được hay không đạt được nó phản ánh đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, mục tiêu của doanh nghiệp đề ra chính là kết quả mà họ
cần đạt được. Kết quả đạt được có thể là đại lượng cân đo đong đếm được như số
sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, khối lượng sản xuất ra, doanh thu bán hàng, lợi nhuận,
thị phần... Và cũng có thể là những đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn
toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm. Còn khái
niệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thì sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết
quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Chi phí đầu vào càng nhỏ, đầu ra càng lớn, chất lượng tốt thì chứng tỏ hiệu quả kinh
tế cao. Cả 2 chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể đo bằng thước đo hiện vật và
thước đo giá trị. Trong thực tế vấn đề đặt ra là hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu
quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng chính là mục tiêu hay
phương tiện kinh doanh. Nhưng đôi khi người ta có thể sử dụng hiệu quả là mục
tiêu mà họ cần đạt, trong trường hợp khác chúng ta lại sử dụng chúng như công cụ
để nhận biết "khả năng" tiến tới mục tiêu mà ta cần đạt đó chính là kết quả (Lê
Thanh Tùng, 2013).
c, Phân loại hiệu quả kinh doanh
Có nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh khác nhau, tùy vào từng
tiêu chí mà ta có các cách phân loại hiệu quả kinh doanh như sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13


Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh
tế quốc dân.

Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ các
hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung
của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền
kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới
cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho
ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ
nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể
đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiêp. Mỗi doanh
nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Ngược lại, tính hiệu quả của
bộ máy kinh tế sẽ là tiền đề tích cực, là khung cơ sở cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả
của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền
kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và
ngày một phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải
thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo lợi ích riêng
hài hoà với lợi ích chung. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, với vai trò
định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần có các chính sách tạo điều
kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong
khả năng có thể của mình.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 14



Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường
kinh doanh của nó nhằm giải quyết những vấn đề then chốt trong kinh doanh
như: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh cho ai? Kinh doanh như thế nào và chi
phí bao nhiêu?...
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong
những điều kiện riêng về tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ
tổ chức, quản lý lao động, quản lý kinh doanh mà Paul Samuelson,1948 gọi
đó là "hộp đen" kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bằng khả năng của mình
họ cung ứng cho xã hội những sản phẩm với chi phí cá biệt nhất định và nhà
kinh doanh nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với số lượng nhiều
nhất. Tuy nhiên, thị trường hoạt động theo quy luật riêng của nó và mọi doanh
nghiệp khi tham gia vào thị trường là phải chấp nhận “luật chơi” đó. Một
trong những quy luật thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền
kinh tế là quy luật giá trị. Thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình xã
hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá sản phẩm. Quy luật giá trị đã
đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên một mặt
bằng trao đổi chung, đó là giá cả thị trường.
Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội, nhưng đối với
mỗi doanh nghiệp mà ta đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh thì chi phí
lao động xã hội đó lại được thể hiện dưới các dạng chi phí khác nhau: giá
thành sản xuất, chi phí sản xuất. Bản thân mỗi loại chi phí này lại được phân
chia một cánh tỷ mỷ hơn. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh không thể
không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên, đồng thời cần
thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí hay nói cánh khác là đánh
giá hiệu quả của chi phí bộ phận.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 15



Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản:
Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí khác
nhau trong hoạt động kinh doanh.
Hai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau
trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó.
Từ hai mục đích trên mà người ta phân chia hiệu quả kinh doanh ra làm
hai loại:
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương
án kinh doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được với lượng chi
phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu hiệu
quả tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức chênh lệch về
hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Việc xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả tương
đối (so sánh). Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả tương đối được xác định
không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn, việc so
sánh mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra phương án có chi
phí thấp nhất thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án chứ
không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án.
Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay ngắn
mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả
trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian ngắn. Hiệu quả lâu
dài là hiệu quả được xem xét trong một thời gian dài. Doanh nghiệp cần phải
tiến hành các hoạt động kinh doanh sao cho nó mang lại cả lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài cho doanh nghiệp. Phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 16


×