Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái ở việt nam và những biến động của nó từ năm 2007 đến tháng11/2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.39 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Hiện nay, xu hướng quốc tế hóa đang diễn ra một cách sâu sắc, toàn diện trên
phạm vi toàn thế giới và là quy luật khách quan mà Việt Nam cần sớm nắm bắt và vận
dụng. Việc tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007 tạo cơ hội tốt
cho Việt Nam tham gia vào thị trường kinh tế thế giới đồng thời cũng đặt ra những
thách thức không nhỏ. Trước những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới do cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bùng nổ vào cuối năm 2008 mang lại, Việt
Nam đã phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn như: Lạm phát tăng cao ở mức hai
chữ số trong năm 2007 (12.6 % / năm) và năm 2008 (19.89%) chủ yếu là do dòng vốn
nước ngoài chảy vào sau khi Việt Nam gia nhập vào WTO, mà chiếm phần lớn là dòng
FII tạo áp lực mất giá VND. Cán cân thương mại thì luôn trong tình trạng thâm hụt kể
từ năm 1990 đến nay, nhất là giai đoạn 2007- 2009. Nguyên nhân của tình trạng bất ổn
trên ngoài các yếu tố khách quan, phải kể đến các yếu tố chủ quan thuộc về chính sách
vĩ mô, trong đó có chính sách tỷ giá của Việt Nam.
Vấn đề tỷ giá do đó mà trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Nó có vai trò vô
cùng quan trọng đối với sự phát triển và ổn định kinh té vĩ mô của nước có độ mở kinh
tế lớn như Việt Nam. Là một nước đi những bước đầu tiên vào sự hội nhập với thế giới
thì hơn bao giờ hết việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái đang trở thành vấn đề cấp bách đặt
ra cho chúng ta. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, nhóm chúng em đã chọn nghiên
cứu đề tài : “ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM VÀ
NHỮNG BIỄN ĐỘNG CỦA NÓ TỪ NĂM 2007 ĐẾN THÁNG 11/2010”
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu:

3.
1.
2.
3.

Mục tiêu nghiên cứu: Nhận thức được tầm ảnh hưởng sâu sắc của các yếu tố vĩ


mô cũng như tâm lý ảnh hưởng đến biến động tỷ giá, từ đó đưa ra các kiến nghị giải
pháp phù hợp để có thể điều chỉnh tỷ giá có lợi cho phát triển kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu: Bài tiểu luận của nhóm chỉ tập trung nghiên cứu tình hình
tỷ giá Việt Nam đối với Đô la Mỹ (VND/USD), giai đoạn từ năm 2007 đến quý
3/2010.
Nội dung nghiên cứu:
Cấu trúc bài tiểu luận gồm 4 phần lớn:
Tổng quan về tỷ giá hối đoái.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá ở Việt Nam.
Những biến động của tỷ giá USD ở Việt Nam từ năm 2007 đến nay và những nguyên
nhân tác động đến tỷ giá .
Page 1


4. Những kiến nghị về giải pháp cho vấn đề tỷ giá ở Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện đề tài còn nhiều khiếm khuyết và không thể tránh
được những thiếu sót, chúng em mong cô và các bạn góp ý để đề tài chúng em được
hoàn thiện hơn.
Qua đây, chúng em cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Hồng
Vinh đã giảng dạy tận tình, cung cấp những kiến thức bổ ích để chúng em có thể hoàn
thành đề tài này

Nhận xét của giảng viên
................................................................................................................................................................
Page 2


................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................

................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................

MỤC LỤC
I : TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI......................................................3
1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái ...........................................................................................3
1.2 Phân loại tỷ giá.............................................................................................................3
1.3 Chế độ tỷ giá Việt Nam................................................................................................5
Page 3



II : CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT
NAM 6
2.1 Tác động của lãi suất đến tỷ giá..............................................................
2.3 Tác động của cán cân thương mại.........................................................
2.3 Tác động của cán cân thương mại .........................................................
2.4 Tác động của thu nhập ...........................................................................
2.5 Tác động của chính sách của chính phủ ..............................................
2.6 Tác động từ các yếu tố khác ...................................................................
III : NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
2007 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ .....
3.1 Năm 2007..................................................................................................
3.2 Năm 2008..................................................................................................
3.3 Năm 2009..................................................................................................
3.4 Năm 2010..................................................................................................
IV : NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM

...

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................

Page 4


1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái :

Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa
hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một

đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
Ví dụ : Tỷ giá bán ra của ngân hàng ngoại thương Việt Nam ngày 09/10/2010 là
1USD=19.58157VND.
Như vậy, bản chất của tỷ giá hối đoái là loại giá cả nhưng là giá cả của một loại
hàng hóa đặc biệt đó là tiền tệ.
1.2 Phân loại tỷ giá :

Có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại khác
nhau.


Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm :

-

Tỷ giá chính thức : là một loại tỷ giá do ngân hàng trung ương của mỗi nước công bố.
Tỷ giá này đươc công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của ngân hàng trung ương.
Dựa vào tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá
mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi. Ở một số nước như Pháp, tỷ giá hối
đoái chính thức được ấn định thông qua nhiều giao dịch vào thời điểm xác định trong
ngày.

-

Tỷ giá kinh doanh : là tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ. Tỷ giá này do các
ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá nầy là tỷ giá
chính thức do ngân hàng trung ước công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp
đến kinh doanh như : quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người
giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Tỷ giá kinh doanh bao gồm tỷ giá mua, tỷ
giá bán.


-

Tỷ giá chợ đen : tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ chính thức.



Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán :

Page 5


-

Tỷ giá giao nhận ngay là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực
hiện ngay trong ngàu hôm đó hoặc vài ngày sau.

-

Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết giá hoặc do hai
bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đám bảo trong
biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của ngân hàng nhà nước tại thời điểm kí
hợp đồng.

-

Tỷ giá mở cửa : tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.

-


Tỷ giá đóng cửa : tỷ giá mua bán ngoại của hợp đồng ký kết cuối tuần trong ngày.



Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá :

-

Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền mà không đề
cập đến tương quan sức mua giữa chúng.

-

Tỷ giá thực là tỷ giá được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương quan giá của của
nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định giá.



Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối :

-

Tỷ giá điện hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là cơ sở để xác định các
loại tỷ giá khác.

-

Tỷ giá thư hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.




Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế :

-

Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.

-

Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền ngay bằng
ngoại tệ.

-

Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại
tệ.

-

Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng các chuyển khoản qua ngân
hàng.

Page 6


-

Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt.

1.3 Chế độ tỷ giá ở Việt Nam :


Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình
liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối. Chế độ tỷ giá
hối đoái của mỗi nước tại mỗi thời kỳ có thể khác nhau nhưng về cơ bản là có chế độ
tỷ giá thả nổi theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá và chế độ tỷ giá
cố định theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước mình
với đồng tiền của các nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp
gốc đó. Việt Nam là một nước mới hội nhập và cũng là nước có thị trường ngoại hối
chưa phát triển vì vậy việc chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của NHTW là một
sự lựa chọn có thể nói là đúng đắn, chế độ tỷ giá này đã vận dụng được ưu điểm và hạn
chế nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định.
Với chế độ tỷ giá cố định, chính phủ khó có thể định giá chính xác giá trị của
đồng tiền Việt Nam so với các đồng tiền khác. Nếu đồng tiền Việt Nam được định
giá cao làm cho hoạt động xuất khẩu khó khăn, thâm hụt cán cân thương mại, do đó
chính phủ sẽ tiến hành phá giá đồng tiền, làm cho hàng hóa xuất khẩu trở nên rẻ
hơn, hàng nhập khẩu đắt hơn. Nếu đồng tiền Việt Nam được định giá thấp làm cho
xuất khẩu nhiều hơn, thặng dư cán cân thương mại, nhưng nhập khẩu trở nên đắt
hơn, chính phủ nâng giá đồng nội tệ làm nhập khẩu rẻ hơn. Việc theo đuổi một chế
độ tỷ giá cố định sẽ tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn, tạo điều kiện cho giới đầu cơ tấn
công khi biết rằng NHTW của nước đó sẽ cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ
không chịu để nó mất giá và NHTW sẽ phải sử dụng một khoảng dự trữ ngoại tệ
nhằm can thiệp vào thị trường khi cần thiết đã gây một sự lãng phí lớn cho tài
nguyên vốn, nếu khoản dự trữ này được đem đầu tư sẽ mang lại những lợi ích đáng
kể cho nền kinh tế.
Với chế độ tỷ giá thả nổi, đồng tiền sẽ xuống giá hoặc lên giá cùng với những
biến động của thị trường làm cho cán cân thanh toán ở trạng thái cân bằng nhưng
gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xác định tỷ giá do đó ảnh hưởng đến
hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu. Vì vậy, từ năm 2000 trở đi, Việt Nam chuyển từ chế độ tỷ giá cố
định sang thả nổi nhưng có điều tiết của nhà nước đã có tác động tích cực đối với

nền kinh tế. Tuy nhiên biên độ dao động chưa đủ mạnh do đó hạn chế tác động với
nền kinh tế. Nếu mở rộng biên độ dao động sẽ giúp gia tăng tính linh hoạt của thị
trường giúp hạn chế tình trạng lạm phát trong, đồng thời giúp Việt Nam theo kịp
phản ứng của thị trường khi đồng USD mất gía.
Page 7


2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT
NAM
2.1 Tác động của lãi suất đến tỷ giá
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lí
vĩ mô nền kinh tế. Nó kích thích tập trung nguồn lực tài chính, thúc đẩy kinh tế phát
triển, ổn định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đặc biệt lãi suất còn là công cụ
được sủ dụng để điểu chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điểu chỉnh giá trị đối ngoại
của tiền tệ.
Lãi suất cao có xu hướng bổ trợ sự lên giá của nội tệ. bởi vì nó hấp dẫn các
nguồn vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất
nước ngoài sẽ dẫn đến chuyển lượng ngoại tệ trong nền kinh tế sang nội tệ để hưởng
lãi suất cao hơn. Điều này làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường, từ đó đồng ngoại tệ
có xu hướng giảm giá, làm tỷ giá giảm. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong
nước thấp hơn lãi suất nước ngoài, ngoại tệ có xu hướng tăng giá làm cho tỷ giá tăng.
Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là công cụ hữu
hiệu của chính sách tiều tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ chặt chẽ vói nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau. Sự khập khiễng giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra
những hậu quả bất lợi như: nội tệ bị mất giá gây lạm phát, đầu cơ tiền tệ, hạn chế
nguồn vốn đầu tư nước ngoài… Vì vậy trong quản lí vĩ mô chính sách lãi suất và tỷ giá
phải được xử lý một cách đồng bộ, phù hợp với thức trạng của nền kinh tế trong từng
thời kì nhất định.
2.1 Tác động của lạm phát đến tỷ giá
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, hàng hoá dịch vụ trong

nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn
trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang
dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, do đó tỷ
giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu
hơn, hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái
tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá
ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng
tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản
nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp
Page 8


các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát
tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc
gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
2.3 Tác động của cán cân thương mại
Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để
tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua
hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài.
+ Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm.
+ Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ
để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường.
Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai
hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái
cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân
tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung
ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm
hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
2.4 Tác động của thu nhập
Khi thu nhập của một nước tăng đáng kể đối với đối tác thương mại của nó thì

nhu cầu về hàng nhập khẩu của nước có thu nhập tăng cao hơn sẽ tăng lên, từ đó làm
tăng cầu ngoại tệ của nước đó, tạo áp lực tăng tỷ giá và ngược lại.
2.5 Tác động của chính sách của chính phủ
Mỗi nước có một cơ quan của Chính phủ có thể can thiệp vào thị trường ngoại
hối để khống chế giá trị của một đồng tiền. Thường thì có 3 lý do chính để Chính phủ
can thiệp vào thị trường ngoại hối là:
-

Làm dịu bớt các biến động tỷ giá.

-

Thiết lập các biên độ tỷ giá ẩn.

-

Ứng phó với các xáo trộn tạm thời.
Nếu lo ngại rằng nề kinh tế sẽ bị ảnh hưởng bởi các biến động đột ngột trong
giá trị đồng nội tệ, Chính phủ có thể cố gắng làm dịu bớt các biến động tiền tệ. Các
hành động của Chính phủ có thể giúp nền kinh tế ít bị rơi vào các cú sốc. Ngoài ra các

Page 9


can thiệp này có thể làm giảm bớt những tâm lí sợ hãi trên các thị trường tài chính và
hoạt động đầu cơ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, sự can thiệp của Chính phủ không có tác động lâu
dài đối với các biến động tỷ giá. Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp này bị các lực
lượng thị trường áp đảo. Tuy nhiên thường thì các NHTW hoạt động dựa trên lý thuyết
là tỷ giá sẽ biến động nhiều hơn nếu không có can thiệp nào cả.

Khi can thiệp vào tỷ giá hối đoái, Chính phủ có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua các chính sách, các hàng rào của chính phủ.
Can thiệp trực tiếp : NHTW có thể mua vào hay bán ra ngoại tệ để tác động lên

-

tỷ giá.
-

Can thiệp gián tiếp thông qua các chính sách của Chính phủ: NHTW có thể tác
động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp bằng cách tác động đến các yếu tố có ảnh
hưởng đến đồng tiền nước mình. Thí dụ các NHTW có thể hạ thấp lãi suất đồng nội tệ
để làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào các trái phiếu Chính
phủ, do đó tạo áp lực giảm giá đồng nội tệ. Hay để tăng giá đồng nội tệ, NHTW có thể
tìm cách nâng lãi suất.
Can thiệp gián tiếp qua các hàng rào của Chính phủ : Chính phủ có thể tác động
gián tiếp đến tỷ giá bằng cách đặt các hàng rào đối với tài chính và thương mại quốc tế
hay áp dụng các hạn ngạch để hạn chế hàng nhập khẩu hay cũng có thể miễn thuế đánh
trên bất kỳ thu nhập nào do đầu tư vào nội địa từ các nhà đầu tư nước ngoài. Biện pháp
này sẽ làm gia tăng nhu cầu của nước ngoài đối với đồng nội tệ.
Nhiều hàng rào khác có thể được Chính phủ áp dụng để làm thay đổi tỷ giá.
2.6 Tác động từ các yếu tố khác :
+ Yếu tố tâm lý :
Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các
tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán ngoại tệ của
họ trên thị trường tạo nên cung cầu ngoại tệ. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu
tố tâm lý, tin đồn cũng như kì vọng vào tương lai. Tức giá ngoại tệ hiện tại phản ánh kì
vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi người kì vọng tỷ giá sẽ tăng trong tương
lai, đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại. Giá ngoại tệ cũng rất
nhạy cảm với thông tin, chính sách của Chính phủ. Nếu có tin đồn Chính phủ sẽ hỗ trợ

xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại. Mọi người sẽ đồng loạt
bán ngoại tệ, tỷ giá hối đoái giảm nhanh chóng.
Page 10


Ví dụ như ngay từ chiều 23/3/2009 tuyên bố nới lỏng biên độ tỷ giá thì cuối
chiều 23/3, dân chúng đã ồ ạt mua USD (dù ngày 24/3 mới chính thức áp dụng biên độ
tỷ giá mới), đẩy tỷ giá tăng cao liên tục. sau đó NHNN đã điều chỉnh giảm tg BQLNH,
tỷ giá niêm yết tại các NHTM luôn ở mức trần. Hay ngày 11/11/2009, đỉnh điểm giá
vàng trên thị trường tự do lên đến 29,3 triệu đồng /lượng, USD lên gần 20.000
VND/USD. Chỉ khi NHNN cho phép nhập khẩu vàng thì vàng và USD mới giảm và
giảm rất nhanh ngay từ lúc vàng chưa nhập về.
+ Ứng xử của công chúng:
Sự ưa thích hàng nội hay hàng ngoại. Nếu sự ưa thích hàng ngoại tăng thì nhu
cầu về hàng nhập khẩu tăng làm cho ngoại tệ tăng giá. Nếu cầu về hàng xuất khẩu của
một nước tăng lên về lâu dài làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá tức tỷ giá giảm.
3. NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ USD Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
2007 ĐẾN NAY VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
3.1 Năm 2007 :

Năm 2007 là năm đánh dấu sự gia nhập WTO của Việt Nam, giúp cho quá trình
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của Việt Nam có tốc độ nhanh hơn, mức độ lớn hơn.
Tình hình quốc tế :
Trong năm 2007, cục dự trữ liên bang Mỹ- FED thực hiện 3 lần điều chỉnh giảm
mạnh lãi suất chủ đạo USD từ 5,25%/năm cuối năm 2006 giảm xuống còn 4,25%/năm
cuối năm 2007.
Đồng USD mất giá mạnh so với các loại ngoại tệ chủ chốt trên thị trường hối
đoái quốc tế. Giá vàng tăng mạnh tới hơn 30%. Cuộc khủng hoảng tín dụng cho vay
thế chấp nhà tại Mỹ ảnh hưởng đến hàng loạt nền kinh tế lớn trên thế giới và thị trường
chứng khoán toàn cầu sụt giảm, buộc NHTW nhiều nước phải bơm hàng trăm tỷ USD

và Euro cho các ngân hàng, giá xăng dầu, sắt thép tăng mạnh…
Tình hình trong nước
Năm 2007 là năm mà Việt Nam phải đối mặt với vấn đề xử lý các nguồn
vốn ngoại tệ chuyển vào trong nước với khối lượng rất lớn, tăng đột biến, chủ yếu từ
các nguồn:
-

Vốn đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoáng năm 2007 ước tính đạt từ 5,5- 6,5 tỷ
USD.
Nguồn kiều hối chuyển về nước tăng mạnh, năm 2007 tăng đột biến, ước tính đã vượt
con số 7,5 tỷ USD
Page 11


-

-

-

Các nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI và vốn ODA tăng mạnh. Năm 2007, lượng vốn
FDI đổ vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD. Vốn ODA cam kết 4,46 tỷ USD của năm 2007,
mặc dù số thực tế giải ngân chỉ 2 tỷ USD.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu thì riêng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD,
tăng 20,5% so với năm 2006, kim ngạch nhập khẩu đạt 60,33 tỷ USD, tăng 33,1% so
với năm trước,nâng mức nhập siêu lên mức kỷ lục tới 12,4 tỷ USD.
Lượng khách du lịch đổ vào Việt Nam tăng…
Nền kinh tế mở cửa mạnh mẽ và hội nhập nhanh với thế giới dẫn đến luồng
vốn ngoại tệ đổ vào trong nước nhiều hơn. Đó là điều rất đáng mừng, tuy nhiên vấn đề
đặt ra đó là nó cũng tác động không nhỏ đối với chính sách của NHNN Việt Nam về

việc điều hành tỷ giá.

Nhìn chung về cơ bản tỷ giá VND/USD ổn định và thuyên giảm trong suốt cả
năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát cả năm 2007 là 12,6%). Tỷ giá
VND/USD trên các thị trường từ tháng 1 đến tháng 7 tương đối ổn định nhưng biến
động khá nhiều trong tháng 8 và tháng 9. Vào thời điểm giữa tháng 8 tỷ giá mua – bán
VND/USD của NHTM và trên thị trường tự do tăng nhanh do nguồn cung về ngoại tệ
giảm sút, trong khi cầu về ngoại tệ lại tăng mạnh làm VND mất giá khá mạnh. Từ
tháng 9, nguồn cung ngoại tệ trên thị trường đã có chiều hướng tăng mạnh, thị trường
lại có biểu hiện dư thừa ngoại tệ1.
Thực hiện mục tiêu điều hành CSTT và tránh tình trạng đôla hóa, NHNN đã
mua vào một khối lượng ngoại tệ rất lớn. Tính đến hết năm 2007 NHNN đã tung
1 Số liệu từ phòng chuyên viên đặc biệt - vụ quàn lý ngân hàng - NHNN)

Page 12


khoảng 150.000 tỷ đến 160.000 tỷ Đồng Việt Nam ra lưu thông để mua khoảng 9 – 10
tỷ USD.

Lượng cung ngoại tệ những tháng đầu năm tăng mạnh dẫn đến tỷ giá có xu
hướng giảm. Ngay từ đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên
độ giao dịch từ +/-0,25% lên +/-0,5%, đồng Việt Nam đã đảo chiều và tăng giá khiến
tỷ giá giảm 0.3%. Trong điều kiện bình thường, việc điều chỉnh biên độ tỷ giá tăng lên
thường được hiểu là sẽ mở rộng tốc độ giảm giá của VND so với USD. Đây là lần đầu
tiên tỷ giá không tăng lên thậm chí tiếp tục giảm khi NHNN công bố tăng biên độ tỷ
giá. Tỷ giá giao dịch ở các NHTM cũng như ở thị trường tự do đều thấp hơn tỷ giá
giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố.
Tuy nhiên, xu hướng tăng giá nội tệ đã được chặn đứng vào những tháng tiếp đó
và bắt đầu từ tháng 5/2007 đồng Việt Nam đã giảm giá trở lại 0.6% so với USD. Lực

hút mạnh của NHNN ở 5 tháng đầu năm bắt đầu có tác dụng mạnh khi tỷ giá những
tháng sau đó bắt đầu tăng.
Trong thời gian đó, NHNN đã làm theo chỉ đạo của Chính phủ là tích cực mua
ngoại tệ vào để tỷ giá không giảm xuống nữa. Trên thực tế, tỷ giá hối đoái danh nghĩa
đã được tăng lên để không có sự chênh lệch so với tỷ giá chính thức do NHNN công
bố, làm như vậy nhằm có lợi cho xuất khẩu và ổn định vĩ mô. Thời điểm đó, Thống
đốc Lê Đức Thúy cũng cho biết: “NHNN vẫn đang tiếp tục phải mua ngoại tệ vào mặc
Page 13


dù lượng ngoại tệ chào bán đến giờ đã ít hơn 5 tháng vừa qua”. ( 5 tháng qua, NHNN
đã mua được một lượng ngoại tệ dự trữ tăng khoảng 7 tỷ USD). Tới đây, lượng cung
ngoại tệ sẽ tiếp tục đổ vào qua con đường đầu tư trực tiếp, gián tiếp, qua con đường
chuyển tiền... Do đó không có sự căng thẳng về cung – cầu ngoại tệ.
Lượng dư thừa ngoại tệ không nhiều, tỷ giá tăng lên nhưng mức tăng vẫn nằm
trong ý đồ điều chỉnh tỷ giá mà NHNN thực hiện hàng năm, với mức biến động xoay
quanh 1%”.2
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 15/8 của Sở giao dịch NHNN là
16.213VND/USD và các NHTM cũng bán ra với mức 1USD = 16.213VND. Còn trên
thị trường tự do để mua 1USD phải cần tới 16.290VND. So với thời điểm đầu năm, tỷ
giá của các NHTM vào thời điểm ngày 15/8/2007 đã tăng khoảng 0,98% sát với mức
1% mà MHNN dự kiến cho cả năm.
Nguyên nhân nguồn cung được chú ý hơn cả, trước hết là từ tác động mua vào
mạnh mẽ của Ngân hàng Nhà nước, kế đến là nhu cầu của doanh nghiệp. Trong các
quyết định tăng lãi suất thời điểm này, các ngân hàng đều có cùng nhận định nhu cầu
vay ngoại tệ của doanh nghiệp đang tăng mạnh.
Theo nhận định của một lãnh đạo Sở Giao dịch NHNN, vay ngoại tệ, cụ thể là
USD, lúc này lợi hơn vay VND, bởi không phải đối mặt với lạm phát đang tăng cao và
có lãi suất thấp hơn. Ghi nhận của Sở Giao dịch tại thời điểm đó là “hiện cầu cao
nhưng hầu hết các ngân hàng đều khá chủ động được nguồn vốn; hiện chưa có nhu cầu

xin mua ngoại tệ gửi về Ngân hàng Nhà nước ”3.
Về nguyên nhân từ lạm phát, theo ước tính của một số chuyên gia, với mức tăng
của giá tiêu dùng 7 tháng đầu năm 6,19%, tỷ giá có thể lên đến 17.000 VND. Tuy
nhiên, do chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước được “trung hòa” theo một rổ các
đồng tiền trong thanh toán xuất nhập khẩu, do chính đồng USD đã mất giá mạnh trên
thị trường thế giới nên tỷ giá VND/USD được giữ ở mức hiện tại.

2 />
3 Bài “đột biến tỷ giá VN-USD” />
Page 14


Còn về một nguyên nhân khá quan trọng là lượng vốn đầu từ gián tiếp nước
ngoài vào thị trường chứng khoán đã cơ cấu lại danh mục đầu tư. Một số rút khỏi thị
trường vì giá cổ phiếu cao, thị trường chứng khoán ảm đạm. Một số hạch toán lợi
nhuận chuyển về chính quốc. Những nhu cầu này làm cho lượng ngoại tệ quy đổi sẽ rất
lớn, gây áp lực cầu tăng, tỷ giá tăng.
Sau khi tăng lên cao vào tháng 8 thì tỷ giá VND/USD đã quay đầu giảm giá. Có
thể nói tỷ giá giảm mạnh vào cuối tháng 9 là do có nhiều nguồn vốn lớn nước ngoài đổ
vào thị trường Việt Nam khi mà thị trường chứng khoáng đang nóng lên. Tỷ giá hối
đoái sụt giảm chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND trong lưu thông để kiềm chế
lạm phát (NHNN đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi, cụ thể mức dự trữ bắt buộc
tiền gửi nội tệ dưới 12 tháng của hầu hết các NHTM tăng từ 5% lên 10%, của Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tăng từ 4% lên 8%, của Quỹ tín
dụng từ 2% lên 4%. Tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ kỳ hạn dưới 12 tháng tăng
từ 8% lên 10%; kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng tăng từ 2% lên 4%.)
FED cắt giảm mạnh lãi suất chủ đạo đồng đô la, từ mức 5,25%/năm thời điểm
đầu năm 2007. Qua 3 đợt cắt giảm, từ giữa tháng 12/2007 đến cuối năm lãi suất chủ
đạo USD chỉ còn 4,25%/năm. Do đó lãi suất huy động vốn USD của các NHTM trong
nước cũng phải giảm xuống dưới mức 4%/năm, giảm gần 1%/năm so với thời điểm

cao nhất. Nhiều người gửi USD cảm thấy thiệt vì tỷ giá giảm mạnh trong khi đó lãi
suất gửi USD thấp chỉ bằng dưới 40% so với gửi tiết kiệm đồng Việt Nam cùng kỳ
hạn. Bởi vậy nhiều người có nguồn USD đã bán đi lấy VND gửi tiết kiệm. Các doanh
nghiệp cũng bán USD không để gửi trên tài khoản. Bên cạnh đó do lãi suất vay vốn
USD thấp, chỉ bằng dưới 1/2 lãi suất vay vốn nội tệ. Do đó nhiều doanh nghiệp vay
USD sau đó bán đi lấy VND sử dụng. Tất cả các nguyên nhân đó càng làm cho cung
ngoại tệ tăng mạnh. Dẫn đến điều không thể tránh khỏi là tỷ giá giảm vào cuối năm.
NHNN khép lại một năm điều hành chính sách tiền tệ bằng quyết định nới rộng
biên độ tỷ giá VND/USD (từ +/-0,5% lên +/-0,75%). Đây là lần điều chỉnh thứ 3 từ
đầu năm 2007, thể hiện chủ trương tạo điều kiện kinh tế Việt Nam thích nghi dần với
mức độ mở cửa, đưa tỷ giá sát hơn với thị trường. Trước đó, sức ép từ cung ngoại tệ đã
đẩy tỷ giá của các NHTM xuống sàn biên độ trong thời gian dài. Tính chung cả năm,
tỷ giá VND/USD tương đối ổn định, chỉ tăng bình quân 0,62% so với năm 2006.
Năm 2007, lãi suất huy động USD chứng kiến 3 đợt tăng phổ biến, ngược với
diễn biến trên thị trường thế giới. Trong khi đó, lãi suất VND tương đối ổn định, cân
bằng từ xu hướng giảm nhẹ đầu năm và tăng nhẹ cuối năm. Sự ổn định này đã góp
phần tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đáng chú ý là những
Page 15


tháng cuối năm, lãi suất trên thị trường mở có những thời điểm tăng đột biến, phản ánh
cầu nội tệ khá căng thẳng ở một số NHTM.
3.2 Năm 2008
Năm 2008 có thể được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những
biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô,
cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ
giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử.
Quý I/2008 (1/1/2008 – 31/3/2008): Tỷ giá USD/VND giảm, sau đó
đảo chiều vào cuối tháng 3/2008
Đầu năm 2008, tỷ giá còn dao động quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, thì

đến giữa tháng 3/2008, tỷ giá giảm xuống còn 15.400 VND/USD. Sự sụt giảm này bắt
nguồn từ các nguyên nhân chính:
+ Sự cải thiện của cán cân vãng lai do chuyển giao một chiều (kiều hối) tăng:
Nguyên nhân là thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều
hối chuyển về nước khá lớn.
+ Các biện pháp can thiệp của chính phủ : NHNN thông báo điều chỉnh các lãi
suất: lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm tăng lên 8,75%/năm, tăng 0,5%/năm; lãi suất tái cấp
vốn từ 6,5%/năm tăng lên 7,5%/năm, tăng 1,0%/năm; lãi suất chiết khấu từ 4,5%/năm
tăng lên 6,0%/năm, tăng 1,5%/năm… Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hành tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng VND ( ngày 17/3) dưới hình thức bắt buộc đối với 41
NHTM với tổng giá trị là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,80%/năm. .Sư
can thiệp này gây ra hiện tượng khan hiếm tiền mặt, thừa USD giữa các NHTM. Vào
thời điểm đó, VND/USD xuống rất thấp, tỷ giá của các NHTM luôn ở mức dưới tỷ giá
liên ngân hàng.
+ Chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc
bán USD chuyển qua VND : trong khi lãi suất ở Việt Nam tăng thì Cục dự trữ liên
bang Mỹ (Fed) tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người dân không còn giữ USD như
trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất
cao. Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại
được lợi nhuận hơn là gửi tiết kiệm ở trong nước. Các NHTM phải chạy đua lãi suất
với nhau nhằm thu hút lượng VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN. Sự
kết hợp của các nguyên nhân trên đã đẩy tỷ giá không ngừng sụt giảm.

Page 16


Diễn biến giá USD bán ra của Ngân hàng Ngoại thương tháng 3/2008
Tuy nhiên vào những ngày cuối tháng 3/2008, thị trường đảo chiều, trong 1 tuần
tính từ ngày 21/3 đến 28/3 tỷ giá đã tăng từ 15830 lên 16120. Nguyên nhân là do
NHNN áp đặt trần lãi suất huy động không vượt quá 12%/năm nhằm chấp dứt tình

trạng các NHTM đua lãi suất, ảnh hưởng đến tâm lý người dân khi giữ tiền đồng. Nhập
siêu quý I/2008 tới 7,3 tỷ USD do một phần nhiều nhà đầu tư chứng khoán chuyển vốn
sang vàng. Theo ước tính Việt Nam nhập trên 30 tấn vàng, gấp hơn 3 lần so với cùng
kỳ hằng năm, nhu cầu ngoại tệ đối với nhập khẩu tăng khá mạnh làm cho nguồn cung
USD bị sức ép lớn. Giá USD tăng làm cho những DN khác dù chưa đến hạn thanh toán
cũng yêu cầu mua USD để tránh rủi ro làm cho cầu USD tăng mạnh hơn.
Qúy II/2008 (1/4/2008 – 30/6/2008) : Tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Trong giai đọan này tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh vào
giữa tháng 6, đỉnh điểm là 19.400 VND/USD(ngày 18/6), sau đó dịu lại
khi NHNN nới rộng biên độ từ 1% lên +/-2%(ngày 27/6) và kiểm sóat chặt

các bàn thu đổi.
Page 17


Nguyên nhân:
+ Lạm phát trong nước tăng: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
4/2008 so với tháng 12/2007 đã tăng lên hai chữ số là 11,6%; gần bằng tốc
độ của cả năm 2007 (12,63%). Lạm phát tháng 5 tiếp tục tăng 3,91%, cao
nhất kể từ đầu năm đến nay, đẩy chỉ số tiêu dùng trong 5 tháng đầu năm
lên đến 15,96%. Với tốc độ tăng giá tiêu dùng đã lên đến 15,96% trong 5
tháng đầu năm, tức là tăng trên 3%/tháng, trong khi lãi suất tiết kiệm chỉ
khoảng trên dưới 1,2%/tháng, nghĩa là tốc độ tăng giá tiêu dùng cao gấp
2,5 lần lãi suất tiết kiệm dẫn đến lãi suất tiền gửi thực bị âm. Tâm lý lo sợ
VND ngày càng mất giá, người dân không muốn gửi tiền vào ngân hàng
mà dùng đồng tiền để mua sắm, dự trữ,… còn DN thì bị khóa van tín
dụng, do lãi suất huy động cao, kéo theo lãi suất cho vay cao đến chóng
mặt 21%/năm, nên không còn tiền phải rút tiền gửi về để mua hàng hóa,
dịch vụ, và trả nợ.
+ Cán cân thương mại thâm hụt do nhập khẩu tăng: Tổng kim ngạch nhập khẩu

tương ứng cũng đạt 37,8 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 61,2 tỷ đô la và
đã tạo ra một khoản thâm hụt cán cân thương mại 14,4 tỷ trong 5 tháng đầu năm 2008.
Lượng nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu đều tăng về lượng so với cùng kỳ năm 2007
như ôtô tăng 6 lần, linh kiện ôtô tăng hơn 3 lần, thép các loại tăng gần 2 lần…
+ Sự can thiệp của chính phủ: cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép
cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu( theo quyết định số 09/2008/QD,
NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu,vay để thực hiện dự
án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu đi vay để bán lại ngoại
tệ trên thị trường.
Quý III/2008 (1/7/2008 – 30/9/2008) Tỷ giá USD/VND ổn định và
có xu hướng giảm
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong tháng 7/2008 tương đối ổn
định và có xu hướng giảm nhẹ, từ ngày 16/7/2008, tỷ giá bán ra của các
NHTM luôn thấp hơn mức trần cho phép. Ngày 31/7, tỷ giá bình quân trên
thị trường liên ngân hàng ở mức 16.495đ/USD giảm 0,12% so với 30/6,
tăng 2,38% so với cuối năm 2007. Trên thị trường tự do, tỷ giá USD/VND
biến động tăng, giảm mạnh.
Nguyên nhân:

Page 18


+ Sự can thiệp của chính phủ: Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo
động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc
gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan
hiếm. Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị
trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ(cấm mua bán ngoại tệ
trên thị trườngtự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua
ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán
ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.

+ Do cung cầu ngoại tệ trên thị trường tương đối cân bằng nên mặc dù tỷ giá
bình quân trên thị trường liên ngân hàng ổn định (ngày 29/8 ở mức 16.495đ/USD, tăng
0,02% so với cuối tháng trước), nhưng tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại
có xu hướng giảm (tỷ giá giao dịch ngày 29/8 giảm 1% so với cuối tháng trước). Trên
thị trường tự do, tỷ giá USD/VND bám sát tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại
và ngày 29/8 dao động ở mức 16.520-16.560 đ/USD ở Hà Nội và 16.510-16.550
đ/USD ở TP.HCM.
+ Tỷ giá USD/VND trong tháng 9/2008 không có sự biến động nhiều, chỉ có gia
tăng mạnh từ 16.620 lên 16.740 (ngày 15/9 đến ngày 19/9), sau đó giảm xuống chỉ
còn 16.630 VND/USD trong ngày 24/9. Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tại Mỹ. Thị trường thế giới có những tín hiệu khả quan về các
biện pháp giải cứu ngành tài chính Mỹ trị giá 700 tỷ USD.
Quý IV/2008 (1/10/2008 – 31/12/2008)
Từ cuối tháng 9 cho đến 19/10 tỷ giá tiếp tục được ổn định quanh
mốc 16.610 VND/USD. Tuy nhiên, thời gian từ 15/9 đến 24/10 ở cả hai
sàn HASTC và HOSE, nhà đầu nước ngoài đã bán ròng hơn 12.500 tỷ
đồng (750 triệu USD) giá trị cổ phiếu và trái phiếu. Một phần trong số này
được dùng để mua USD đã gây sức ép lên tỷ giá trong thời gian qua.
Ngày 22/10 tỷ giá USD/VND ở các NHTM bất ngờ tăng vọt tới mốc 16.800
VND/USD, trong khi tỷ giá bình quân liên ngân hàng vẫn ổn định, thậm chí giảm nhẹ.
Ngày 23/10, giá bán ra đồng USD của các NHTM đồng loạt niêm yết ở mức 16.850
VND, sát trần biên độ +/-2% theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng, một phần là do
cũng trong ngày này NHNN đã quyết định giảm lãi suất cơ bản từ 14% xuống 13%.
Sau đó giá USD bán ra của các NHTM cũng giảm nhẹ, ngày 27/10 xuống còn 16.847
VND/USD và đang có xu hướng ổn định. Giá USD trên thị trường tự do cũng đã
Page 19


xuống dưới mốc 17.000 VND. Còn theo diễn biến trên thị trường thế giới, phần lớn tất
cả các ngoại tệ mạnh trên thế giới đều mất giá so với USD nhất là sau khi Chính phủ

Mỹ can thiệp vào thị trường tài chính, ngăn chặn khủng hoảng khiến USD lên giá.
Rõ ràng là tình trạng suy thoái kinh tế do khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra
kéo dài và sâu sắc hơn so với những dự đoán trước đây. Cuộc khủng hoảng toàn cầu đã
tác động đến nền kinh tế Việt Nam trong ít nhất năm lĩnh vực.
Thứ nhất, nhu cầu đối với hàng xuất khẩu sẽ suy giảm: kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam giảm liên tục từ tháng 8/2008 chủ yếu là dầu thô và các hàng hoá xuất khẩu
cơ bản.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài sẽ giảm trong ngắn và trung hạn vì các nhà đầu tư
gặp khó khăn về nguồn tài trợ và phải đánh giá lại triển vọng lợi nhuận năm 20092010, trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 11/2008, nhà đầu tư nước ngoài
đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu
(100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi
muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Tạp chí Financial Times hồi
đầu tháng 12/2008 đưa tin về dự báo cho rằng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) toàn cầu sẽ giảm 15% trong năm 2009. FDI đầu tư vào Việt Nam cũng nằm
trong số đó, vốn FDI đăng ký trong năm 2008 của Việt Nam là hơn 60 tỷ USD nhưng
chỉ một phần nhỏ trong số này thực sự được giải ngân.

Page 20


Thứ ba, lượng khách du lịch đến Việt Nam cũng sẽ giảm. Theo Bộ trưởng Bộ
Văn Hoá Thể Thao Du Lịch mới đây phát biểu rằng năm 2008 là năm đầu tiên kể từ
khi dịch SARS bùng phát vào năm 2003, ngành du lịch Việt Nam sẽ không đạt mục
tiêu đề ra. Du lịch là một nguồn thu ngoại tệ và nguồn tạo việc làm quan trọng của Việt
Nam.
Thứ tư, kiều hối có thể sẽ giảm. Rất có thể là Việt Kiều ở nước ngoài cũng đang
khó khăn về thu nhập, tài sản, và tín dụng như người dân ở Mỹ hay Châu Âu đang gặp
phải. Tình trạng này có thể làm dòng kiều hối giảm hàng tỷ USD.
Cuối cùng, giá hàng hoá cơ bản giảm sẽ tác động tiêu cực và ngay lập tức đến
ngân sách chính phủ. Các khoản thu từ xuất khẩu dầu thô, thuế VAT và thuế tiêu thụ

đặc biệt sẽ giảm đáng kể.
Chính sách từng bước giảm giá VND: Trong hai năm 2007-2008, Việt Nam tiếp
nhận một lượng vốn lớn từ nước ngoài. Đồng thời để thúc đẩy tăng trưởng Chính phủ
đã không ngừng đẩy mạnh đầu tư. Hệ quả là thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương mại

Giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài taih HaSTC từ 15/9 đến 24/10
(nguồn dữ liệu: UBCKNN)

nặng nề và nền kinh tế trở nên quá nóng. Để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ đã
từng bước giảm giá VND và chú trọng đúng mức tới xu thế và mức tỷ giá hiệu dụng
thực. Quyết định nới rộng biên độ tỷ giá thêm ±3% vào ngày 25/12/2008 là một sự
Page 21


khởi đầu đúng hướng trong chính sách tỷ giá (thực chất là giảm VND 3%). Theo thực
tế thì thị trường đã phản ứng tích cực với điều chỉnh của NHTW.
Nhìn chung chính sách tỷ giá của Việt Nam trong năm 2008 đã được nhiều
chuyên gia kinh tế đánh giá là hợp lý và kịp thời. Trong năm 2008 có nhiều ý kiến cho
rằng Việt Nam sẽ phá giá nội tệ và kịch bản khủng hoảng kinh tế 1997-1998 Thái Lan
sẽ lặp lại ở Việt Nam. Tuy nhiên kết thúc năm 2008 Việt Nam vẫn kiểm soát được tỷ
giá USD/VND không quá cao và không biến động nhiều. Tính đến ngày 20/12/2008 tỷ
giá USD/VND niêm yết tại NH Vietcombank là 16.990 không cao như các dự báo
trước đó.

3.3 Năm 2009
Năm 2009 là một năm Việt Nam đạt được khá nhiều thành tựu kinh tế vĩ mô
như tăng trưởng GDP đạt 5.32 %, lạm phát ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm trước đó
6,88%; đây có thể được coi là một cuộc phục hồi khá ấn tượng của Việt Nam sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008. Mặc dù vậy diễn biến tỷ giá giao dịch của
các NHTM cũng như thị trường tự do trong năm 2009 vẫn còn nhiều biến động mạnh,

khó lường, nhất là 2 tháng cuối năm 2009 tỷ giá tăng đột biến lên mốc gần 18.500
VND/USD gây không ít khó khăn cho nền kinh tế.

Tỷ giá VND/USD
niêm yết ở các
NHTM trung bình
năm 2009

Page 22


Tỷ
giá
VND/USD
trên
thị
trường tự do
năm 2008 –

2009

H
àng loạt các nhân tố kinh tế xảy ra tác động gây sức ép giảm giá VND gồm: cán cân
thương mại, dòng ngoại tệ, dự trữ ngoại hối, chính sách của NHNN, Chính phủ và tâm
lý.
Cán cân thương mại:
Cán cân thương mại tuy thặng dư trong tháng 2, tháng 3 đầu năm (chủ yếu nhờ
xuất khẩu vàng), nhưng 9 tháng còn lại thì liên tục bị thâm hụt do nhập siêu. Nhập siêu
2009 là 12,2 tỷ USD chiếm 21,6% kim ngạch xuất khẩu đã làm mất cân đối cung cầu
ngoại tệ, gây sức ép giảm giá VND.


Luồng ngoại tệ
Page 23


Trong năm 2009, luồng ngoại tệ đổ vào giảm đáng kể, ảnh hưởng đến cán cân
tổng thể, gây sức ép tỷ giá VND/USD.

a. Về FDI: Tác động kéo dài của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lớn nhất trong vòng

80 năm qua đã làm FDI toàn cầu trong năm 2009 giảm 38,7% so với năm 2008 và xấp
xỉ 50% so với năm 2007. Ở Việt Nam cũng vậy, vốn đầu tư trực tiếp FDI đăng ký vào
Việt Nam cả năm 2009 đạt 21,5 tỷ VND, vốn thực hiện 10 tỷ VND, chỉ bằng 30% so
với năm 2008
b. Về nguồn vốn FII: 3 tháng đầu năm khi mà nền kinh tế toàn cầu còn chao đảo thị
trường chứng khoán vẫn tụt dốc cũng là lúc các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh rút
vốn khỏi Việt Nam. Trên tổng quy mô vốn 8 tỷ USD, số vốn FII chảy ra khỏi thị
trường là 700 triệu USD, nhất là ở thị trưởng chứng khoán Việt Nam với tháng 9 bán
ròng kỷ lục với hơn 2.000 tỷ đồng trên HOSE. Mặc dù khối đầu tư nước ngoài đã trở
lại mua ròng liên tiếp trong 3 tháng cuối năm vì thị trường chứng khoán phục hổi mạnh
mẽ thời điểm này nhưng lượng vốn vào vẫn ở mức khá thấp, khoảng 3-5 triệu
USD/ngày. Do vậy nguồn vốn FII gồm chủ yếu chứng khoán cổ phần và chứng khoán
nợ giảm mạnh từ 8,6% GDP (năm 2007) xuống 2% GDP (năm 2009).
c. Kiều hối giảm 12,5 % (năm 2008: 7,2 tỷ USD, năm 2009: 6,3 tỷ USD).
Dự trữ ngoại hối:
Sau mức kỉ lục 26,4 tỷ USD vào tháng 3/2008, dự trữ ngoại hối của Việt Nam
giảm dần còn 23,8 tỷ USD vào cuối năm 2008 và còn 16 tỷ USD vào cuối tháng
10/2009, qua đó cũng làm tăng sức ép giảm giá VND.
Chính sách của NHNN:
Trước biến động của các yếu tố kinh tế vĩ mô trên, về phía NHNN cũng đã có

các động thái nhằm ổn định và điều chỉnh tỷ giá. Trong năm 2009, diễn biến tỷ giá
Page 24


VND/USD trên thị trường chính thức cũng như tự do được gắn với hai mốc thời gian
liên quan tới sự điều hành của NHNN, đó là: Ngày 24/3/2009, nới rộng biên độ dao
động tỷ giá từ ±3% lên ±5% ( Quyết định 622/QĐ-NHNN) và Ngày 26/11/2009, tỷ giá
BQLNH tăng từ 17.034 VND/USD lên 17.961 VND/USD (Quyết định 2666/QĐNHNN), đồng thời thu hẹp biên độ tỷ giá xuống còn ±3%. Nếu căn cứ vào 2 mốc thời
gian trên, chúng ta có thể chia diễn biến tỷ giá năm 2009 thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1( 1/1/2009 – 23/3/2009): đây là giai đoạn khá ổn định. Tỷ
giá BQLNH dao động ổn định quanh 16.970 – 16.980 VND/USD. Với biên độ quy
định là ± 3%, cộng vớicác nhân tố gây áp lực giảm giá VND, nên đó tỷ giá VND/USD
trong giai đoạn này thường xuyên giao dịch ở mức kịch trần 17.480 – 17.490
VND/USD. Tỷ giá trên thị trường tự do cũng khá ổn định với mức chênh lệch tương
đối thấp so với tỷ giá của NHTM khoảng 200 – 300 VND.
Giai đoạn 2 (24/3/2009 – 25/11/2009): tỷ giá tăng cao hơn dao động quanh
mốc 17.500 VND/USD. Nguyên nhân chủ yếu là do NHNN nới rộng biên độ dao động
tỷ giá từ ± 3% lên ± 5% (ngày 24/3/2009 Quyết định 622/QĐ-NHNN). Mặc dù tỷ giá
BQLNH liên tục được NHNN điều chỉnh giảm từ 16.980 VND/USD (cuối tháng 3)
xuống còn 16.940 VND/USD (giữa tháng 6). Nhưng bắt đầu từ giữa tháng 6, tỷ giá
BQLNH có xu hướng tăng trở lại và ngày 10/10/2009 đã vượt mốc 17.000 VND/USD
đạt mức 17.001 VND/USD, nhằm tạo cơ hội giúp giá giao dịch USD của ngân hàng
nhích gần hơn với giá USD trên thị trường tự do. Cùng thời điểm đó, trên thị trường tự
do giá nhích nhẹ so với ngày 9/10 hôm trước lên mức 18.920 VND/USD mua vào và
18.310 VND/USD bán ra. Tiếp đó tỷ giá BQLNH tiếp tục tăng đều đặn 1-3 VND một
ngày, ngày 25/11/2009 đạt mức 17.034 VND/USD. Tỷ giá của các NHTM luôn giao
dịch ở mức trần, và vì vậy mà tỷ giá của NHTM và NHNN biến động cùng nhau.
Giai đoạn 3 (26/11/2009 – 31/12/2009): tỷ giá VND/USD tại các NHTM bất
ngờ tăng vọt lên mức xấp xỉ 18.500 VND/USD, thời điểm ngày 27/11/2009, tỷ giá còn
lên đến 18.750 VND/USD.

Nguyên nhân chủ yếu của diễn biến bất thường này là ngày 26/11/2009, NHNN
điều chỉnh tỷ giá BQLNH tăng 5,16%, từ 17.034 lên 17.961 VND/USD (Quyết định
2666/QĐ-NHNN). Động thái điều chỉnh tỷ giá BQLNH của NHNN mục đích giảm
căng thẳng thực trạng tỷ giá xuất phát từ việc liên tục xuất hiện các nhân tố đã nói trên
gây sức ép giảm giá VND .
Cũng giống như các lần tăng tỷ giá trước đó (ngày 11/6/2008 và ngày
25/12/2008), sau ngày 26/11/2009, tỷ giá BQLNH có xu hướng giảm 1-3 VND mỗi
ngày, đặc biệt ngày 2/12 giảm tới 5 VND kéo theo tỷ giá giao dịch tại các NHTM cũng
giảm theo. Cộng với biên độ tỷ giá trong tháng 12 lại giảm còn ±3% cũng như các biện
Page 25


×