Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Dạy học luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 theo quan điểm tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.89 KB, 23 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta, mục tiêu đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ, năng lực, sáng tạo có khả năng thích nghi với xu thế toàn
cầu hóa là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Đại hội Đảng khóa VIII
đã khẳng định mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn
minh của mọi quốc gia… Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt
Nam là: không ngừng gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức
mạnh bên trong cuả mỗi cá nhân kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng; con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của giáo dục trong giai đoạn mới cũng
không tách rời khỏi mục tiêu của Đảng, và sự đổi mới trong giáo dục chính là
góp phần đào tạo con người theo mục tiêu đó.
Trước tình hình nói trên, buộc phải xem xét lại chức năng truyền thống
của người giáo viên là: truyền đạt kiến thức, đặc biệt là các kiến thức của từng
môn học khoa học riêng rẽ. Giáo viên phải biết dạy học tích hợp các khoa học,
dạy cho học sinh cách thu thập, chọn lọc, xử lí các thông tin, biết vận dụng kiến
thức đã học vào các tình huống cụ thể của cuộc sống. Theo tư tưởng của định
hướng đổi mới: lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo và tổ chức nội
dung chương trình SGK và lựa chọn các phương pháp dạy học thì môn Tiếng
Việt nói chung và môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng cũng không xa rời xu thế
đổi mới chung đó.
Tiếng Việt là môn học quan trọng trong nhà trường phổ thông, nó góp
phần thực hiện những mục tiêu giáo dục đã đề ra trong việc đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có những cơ sở để
thực hiện tích hợp một cách thuận lợi bởi lẽ các phân môn của môn học này đều
là các phát ngôn hoàn chỉnh làm nên đơn vị hiểu được trong giao tiếp. Việc tích
hợp của các phân môn Tiếng Việt ở các kiến thức và các kĩ năng nhằm phát huy
các lợi thế của các phân môn, tiết kiệm thời gian học cũng như tránh bị trùng lặp


giữa các nội dung. Trong năm phân môn của Tiếng Việt , Luyện từ và câu có
một vị trí đặc biệt. Luyện từ và câu có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học
sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao tiếp và trong học tập. Bên cạnh đó,
còn có một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng của việc rèn luyện về
câu ở Tiểu học nói chung là thông qua các hoạt động thực hành, củng cố, ôn tập
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

1


Khóa luận tốt nghiệp
giúp học sinh hệ thống hóa lại những kiến thức sơ giản về ngữ pháp mà các em
đã được tích lũy trong vốn sống của mình cũng như từ các môn học khác để từ
đó dần hình thành các quy tắc dùng từ, đặt câu và tạo lập văn bản trong giao
tiếp.Vì vậy việc tìm ra một phương pháp dạy học hiệu quả cao là mong muốn
của tất cả các giáo viên.
Là một giáo viên tương lai, trăn trở lớn nhất của tôi là muốn tìm ra một
phương pháp dạy học hợp lí, làm cho giờ Luyện từ và câu trở nên hấp dẫn, thu
hút được hứng thú của các em thông qua việc khai thác mối quan hệ biện chứng
giữa các phân môn trong Tiếng Việt. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Dạy học Luyện từ
và câu cho học sinh lớp 4 theo quan điểm tích hợp” và mong muốn góp một
phần công sức của mình vào việc lựa chọn ra một phương pháp dạy học hợp lí
và có hiệu quả. Đối với tôi, lựa chọn đề tài này để tích lũy kiến thức, bước đầu
là tiền đề cho việc nghiên cứu khoa học chuẩn bị cho quá trình giảng dạy sau
này.
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm ra phương pháp dạy học mới là vấn đề đã được nhiều nhà khoa
học, nhà cải cách giáo dục quan tâm. Bàn về phương pháp dạy học theo quan
điểm tích hợp có rất nhiều nhà khoa học, nhà cải cách giáo dục đề cập đến vấn
đề này ở những mức độ khác nhau như:

Hướng thứ nhất:bàn về vấn đề dạy học theo quan điểm tích hợp một
cách khái quát, chỉ có tính chất định hướng.
Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống trong cuốn: “ Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ
văn ở THPT” (NXB Giáo dục-2006) đã đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích hợp và phát huy tính tích cực, chủ động của HS.
- Trong tài liệu “Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo đổi mới”
NXB Giáo dục - PGS.TS Nguyễn Trí đã chỉ rõ việc dạy học theo hướng tích
hợp, hướng tích cực, hướng giao tiếp là những nhiệm vụ cấp thiết trong dạy học
Tiếng Việt hiện nay.
- Đặc biệt trong “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên”- NXB Đại học sư phạm
và trong các tài liệu “Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt” từ lớp 2 đến lớp 5 các tác
giả đã trình bày rất rõ quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt theo quan
điểm tích hợp là như thế nào. Và cũng nêu đường hướng chỉ đạo hoạt động dạy
học theo quan điểm tích hợp cho từng phân môn.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

2


Khóa luận tốt nghiệp
Nhìn chung các công trình nêu trên đã đề cập đén một cách khái nhất
những yêu cầu quan trọng của hoạt động dạy học Tiếng Việt
Hướng thứ hai bàn về hoạt động dạy học tích hợp ở từng phân môn
Đó là hướng nghiên cứu của một số khóa luận tốt nghiệp đại học như:
- Đỗ Thị Kim Oanh- Đại học Sư phạm Hà Nội 2- Phương pháp dạy học theo
quan điểm tích hợp trong dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5 - khóa luận tốt
nghiệp.
-Nghiêm Thị Phượng - Đại học Sư phạm Hà Nội 2- Dạy học Tập đọc theo quan
điểm tích hợp - Khóa luận tốt nghiệp.
Như vậy có thể nói, tích hợp là quan điểm dạy học hiện đại. Nó được áp dụng

vào dạy học nói chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng và đã có nhiều công
trình, tài liệu nghiên cứu về quan điểm này. Tuy nhiên việc dạy học Luyện từ và
câu ở lớp 4 theo quan điểm tích hợp chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu
một cách cụ thể. Đề tài của chúng tôi sẽ đi vào khoảng trống còn để ngỏ đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy học theo quan
điểm tích hợp, khóa luận vân dụng vào hoạt động dạy học Luyện từ và câu với
các phân môn khác nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục bộ môn và tiết kiệm thời
gian học tập cho người học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đươc mục đích đề ra, khóa luận xác định cần triển khai các nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lí thuyết có liên quan, bản chất của dạy học tích hợp
và thực tiễn dạy học tích hợp môn Tiếng Việt ở một trường tiểu học cụ thể.
- Tìm ra cách thức , biện pháp dạy Luyện từ và câu tích hợp với các phân môn
khác.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động dạy học Luyện từ và câu
theo quan điểm tích hợp cho học sinh lớp 4.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

3


Khóa luận tốt nghiệp
Do thời gian có hạn nên tôi chỉ đặt trọng tâm nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các biện pháp đề xuất ở nội dung phân môn Luyện từ và câu lớp 4 trên đối
tượng học sinh lớp 4 trường tiểu học Uy nỗ, huyện Đông Anh ngoại thành Hà

Nội.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
6.2 Phương pháp hệ thống:
6.3 Phương pháp khảo sát:
6.4 Phương pháp thực nghiệm:
7. Kết cấu của khóa luận.
Khóa luận có kết cấu ba phần
– Phần Mở đầu
– Phần Nội dung
Phần nội dung bao gồm ba chương:
Chương một: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương hai : Một số biện pháp dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
theo quan điểm tích hợp
Chương ba: Thực nghiệm
– Phần Kết luận.
Nội dung
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DẠY HỌC LUYỆN
TỪ VÀ CÂU THEO QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP
1.Cơ sở lí luận
1.1 Quan điểm tích hợp trong dạy học Luyện từ và câu
1.1.1 Khái quát về quan điểm dạy học tích hợp
1.1.1.1 Khái niệm
Đã có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra cách hiểu của mình về quan điểm
tích hợp. Sau đây, tôi xin trích dẫn một số ý kiến của một số các nhà nghiên cứu:
“ Tích hợp trong dạy học là thống nhất liên kết giữa các phân môn trong
bộ môn, giữa các bộ môn có liên quan; giữa các bộ môn, giữa các phân môn có
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

4



Khóa luận tốt nghiệp
quan hệ hỗ trợ nhau tạo thành một thể thống nhất nhằm tránh tình trạng dạy tách
biệt. Qua đó rèn các kĩ năng liên môn để người học phát huy được khả năng
sáng tạo, tư duy tổng hợp ” - Nguyễn Hải Châu.
TS. Nguyễn Trọng Hoàn quan niệm : “tích hợp là thuật ngữ mà nội hàm
của nó chỉ hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai thác giá trị của các tri thức công
cụ thuộc từng phân môn, trên cơ sở một văn bản có vai trò là kiến thức nguồn ”.
Ngoài ra, còn có rất nhiều ý kiến của các tác giả, nhà nghiên cứu khác
nữa, như: TS. Đỗ Ngọc Thống, GS.TS Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị Thu
Trang… Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất với khái niệm tích hợp được nêu
trong chương trình dự thảo THPT năm 2002 của Bộ GD&ĐT.
1.1.1.2 Dạy học theo quan điểm tích hợp
a) Bản chất của dạy học tích hợp
Sư phạm tích hợp đề cập đến ba vấn đề của nhà trường:
Vấn đề thứ nhất đó là cách thức học tập: học như thế nào?
Vấn đề thứ hai: sư phạm tích hợp nhấn mạnh đồng thời việc phát triển các
mục tiêu học tập riêng lẻ, cần tích hợp trong qúa trình học tập này trong tình
huống có ý nghĩa đối với học sinh.
Vấn đề thứ ba: sư phạm tích hợp đã đưa ra bốn quan điểm về vai trò của
mỗi môn học và tương tác giữa các môn học:
b) Thế nào là dạy học tích hợp trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học
Theo quan điểm tích hợp , các phân môn trong môn Tiếng Việt như Tập
đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn trước đây ít gắn bó với
nhau, nay đãcó mối quan hệ chặt chẽ về nội dung, kĩ năng, phương pháp dạy
học. Cụ thể, ngữ liệu dùng để dạy phân môn này cũng đông thời được sử dụng
dạy các phân môn khác, kiến thức và kĩ năng của phần học này được vận dụng
để giải quyết nhiệm vụ ở phần học khác và các phân môn đều nhằmrèn luyện
bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cần hình thành ở học sinh như mục tiêu của

môn Tiếng Việt đã đề ra.
Tính tích hợp của SGK Tiếng Việt Tiểu học năm 2000 thể hiện ở hai
phương diện, đó là: tích hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

5


Khóa luận tốt nghiệp
+ Tích hợp theo chiều ngang: là tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng
kiến thức tự nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng quy.
+ Tích hợp theo chiều dọc: Là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới
với những kiến thức và kĩ năng trước đó theo nguyên tắc đồng tâm.
c) Mối quan hệ giữa quan điểm dạy học tích hợp và quan điểm dạy học tích
cực
Dạy học theo quan điểm tích hợp tạo điều kiện để phát triển tri thức, kĩ
năng tốt. Theo quan điểm tích hợp, các quá trình học tập không tách rời cuộc
sống hằng ngày mà được tiến hành trong mối liên hệ với các tình huống cụ thể.
Xu hướng tích hợp nhằm rèn luyện tư duy tổng hợp cho học sinh. Đó cũng là
con đường hình thành cho học sinhmột cách nhìn nhận, khái quát vấn đề tổng
hợp nhất, giúp học sinh thấy được các kiến thức lĩnh hội được có quan hệ hữu cơ
với nhau. Từ đó tư duy của học sinh sẽ nâng lên một bước phát triển mới. Mối
liên hệ giữa các kiến thức trong môn thì tích hợp là điều kiện đảm bảo cho học
sinh khả năng tư duy có hiệu quả những kiến thức và năng lực đã có để giải
quyết có hiệu quả những tình huống có vấn đề mới xuất hiện, những khó khăn
mà các em bất ngờ gặp phải trong cuộc sống.
1.1.2 Các hình thức tích hợp được thể hiện trong sách giáo khoa Tiếng Việt
1.1.2.1.Tích hợp ngang.
Tích hợp ngang là tích hợp “trong từng thời điểm” ( một tiết học, một bài

học). Đối với môn Tiếng Việt thì đây là tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các
mảng kiến thức về văn học, tự nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng
quy. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn (Tập đọc, Chính tả, Tập viết,
Luyện từ và câu, Tập làm văn ) trước đây ít gắn bó với nhau, nay được tập hợp
lại xung quanh trục chủ điểm và các bài học; các nhiệm vụ cung cấp kiến thức
và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Trong bộ SGK,
chủ điểm được chọn làm khung cho cả cuốn sách. Mỗi chủ điểm ứng với một
đơn vị học. Và các phân môn tập trung thể hiện, làm rõ cho chủ điểm ấy.
Ví dụ: Trong bài Tập đọc Thắng biển ( Tiếng Việt 4, tập 2 ) có câu:” Biển cả
muốn nuốt tươi con đê mỏng manh như con mập đớp con cá chim nhỏ bé”,
không cần dùng từ ngữ để biểu thị nét tương đồng nào đó giữa đối tượng mà chỉ
bằng phương tiện so sánh “ như con mập đớp con cá chim nhỏ bé”, nhà văn Chu
Văn cũng đã giúp học sinh có sự liên tưởng tương đồng giữa “ biển” và “con
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

6


Khóa luận tốt nghiệp
mập”đó chính là sự dữ tợn và mạnh mẽ của biển cả, có thể đập tan con đê mỏng
manh. Như vậy, nhờ phép so sánh độc đáo mà trong trí óc của các em đã hình
thành những biểu tượng về : “ánh trăng”, “anh đom đóm” và “biển cả”.
1.1.2.2 Tích hợp dọc.
Là tích hợp “ theo từng vấn đề”, tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ
năng mới với những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng
tâm (còn gọi là đồng trục hay vòng tròn xoáy trôn ốc). Cụ thể là: kiến thức và kĩ
năng của lớp trên, bậc trên bao hàm cả kiến thức và kĩ năng của lớp dưới, bậc
học dưới nhưng cao hơn và và sâu hơn kiến thức, kĩ năng của lớp dưới, bậc
dưới.
Về kiến thức, lớp 3 ôn lại kiến thức về câu ở lớp 2 (Các kiểu câu: Ai là

gì?, Ai làm gì?, Ở đâu?, Như thế nào?, Vì sao?...) nhưng lại đặt yêu cầu cao hơn.
Lên lớp 4 thì HS lại được học lại các kiểu câu này dưới hình thức các bộ phận
của câu kể và được học các thành phần của các câu này như: Chủ ngữ trong câu
kể Ai là gì?, Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?... Ngoài ra, lớp 3 còn được học về
so sánh và nhân hóa là những điều hoàn toàn mới so với lớp 2, lớp 4 được học
sâu hơn về từ, câu…
Về kĩ năng, HS lớp 2 học những nghi thức giao tiếp thông thường ( chào
hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời, nhờ, yêu cầu…), trong khi đó ở lớp 3 được dạy một số
kĩ năng giao tiếp chính thức, cần thiết như: giới thiệu hoạt động của tổ, của lớp,
tổ chức cuộc họp và phát biểu trong cuộc họp, làm đơn, điền vào giấy tờ in
sẵn…, sang đến lớp 4, quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương
diện nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung, chủ yếu thông qua các bài
Mở rộng vốn từ theo đinh hương mà hoàn thiện thêm về kĩ năng giao tiếp. Về
phương pháp, các kĩ năng giao tiếp được xây dựng thông qua nhiều bài tập
mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
1.1.3. Mục đích của việc biên soạn SGK theo quan điểm tích hợp.
Quan điểm tích hợp được các nhà biên soạn SGK lựa chọn thông qua việc
biên soạn sách theo các chủ điểm - đây là một giải pháp thực hiện mục tiêu rèn
luyện kĩ năng và trang bị kiến thức toàn diện cho học sinh, đồng thời dựa trên
quan điểm tích hợp, sẽ tiết kiệm thời gian học tập cho người học và tăng cường
hiệu quả giáo dục.
1.1.4. Mục đích của việc dạy học theo quan điểm tích hợp.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

7


Khóa luận tốt nghiệp
Quan điểm dạy học tích hợp được đề xướng nhằm mục đích:
Thứ nhất: giải quyết một mâu thuẫn lớn trong giáo dục hiện nay là mâu

thuẫn giữa khối lượng kiến thức ngày càng tăng do sự bùng nổ thông tin với thời
gian học tập và sức lực học tập có hạn của học sinh, từ đó làm tăng cường hiệu
quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học.
Thứ hai : làm cho người đọc nhận biết và ý thức được mối quan hệ giữa
các nội dung học tập ở các môn học khác nhau và ở ngay trong một môn học.
Đó là mối quan hệ giữa các tri thức của các môn khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội nhân văn; giữa tri thức với kĩ năng, với năng lực cải tạo cuộc sống của
người học ở ngay trong một môn học cụ thể.
1.2 Cơ sở tâm lí
1.2.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
1.2.1.1. Tri giác của học sinh Tiểu học
Ở các lớp đầu bậc Tiểu học, do chưa biết phân tích tổng hợp nên tri giác
của học sinh thường gắn với hành động thực tiễn của trẻ. Các em tri giác tổng
thể khó phân biệt những đối tượng gần giống nhau. Việc phân biệt các đối tượng
đó dễ mắc sai lầm, lẫn lộn.
1.2.1.2.Chú ý của học sinh Tiểu học.
Chú ý của học sinh Tiểu học là điều quan trọng để các em tiến hành các
hoạt động học tập.Ở đầu tuổi Tiểu học chủ yếu là chú ý không chủ định,chú ý có
chủ định của học sinh còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn
chế.Ở cuối bậc Tiểu học cấp độ chú ý càng hoàn thiện, trẻ dần hình thành kĩ
năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình.
1.2.1.3 Trí nhớ của học sinh Tiểu học.
Ở học sinh Tiểu học, trí nhớ trực quan hình ảnh phát triển tốt hơn trí nhớ
từ ngữ trừu tượng, hình tượng và trí nhớ máy móc được phát triển, trí nhớ logic
chưa hoàn thiện.
1.2.1 .4 Tư duy của học sinh Tiểu học.
Tư duy của học sinh Tiểu học được chia làm hai giai đoạn : đầu Tiểu học
và cuối Tiểu học. Giai đoạn 1 (6- 7 tuổi ): Đây là giai đoạn đầu Tiểu học, ở giai
đoạn này tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Giai đoạn 2 ( 8-12 tuổi ):


Trần Thị Tâm - k34B GDTH

8


Khóa luận tốt nghiệp
Đây là giai đoạn cuối Tiểu học, ở giai đoạn này tư duy trực quan hình tượng
chiếm ưu thế.
1.2.1.5 Tưởng tượng của học sinh Tiểu học.
Tưởng tượng của học sinh Tiểu học được chia thành hai giai đoạn: giai
đoạn đầu Tiểu học: hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ
thay đổi. Giai đoạn cuối Tiểu học: tưởng tượng tái tạo bắt đầu hoàn thiện, từ
những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo
phát triển tương đối hoàn thiện ở giai đoạn này.
1.2.1.6. Ý chí của học sinh Tiểu học
Ở đầu tuổi Tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu
cầu của người lớn. Khi đó sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các
em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã
đề ra nếu gặp khó khăn.Đến cuối tuổi Tiểu học, các em đã có khả năng biến yêu
cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí
còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em.
1.7 Tình cảm của học sinh Tiểu học
Tình cảm của học sinh Tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn
liền với các sự vật, hiện tượng sinh động, rực rỡ… Khả năng kiềm chế tình cảm
của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và dễ nổi giận, biểu hiện của trẻ là dễ khóc
mà cũng nhanh cười, rất vô tư hồn nhiên… Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ
kém bền vững, rất dễ thay đổi.
1.2.2 Ngôn ngữ của học sinh Tiểu học
Hầu hết học sinh Tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1
bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và

bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát
triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự
khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
1.2.3. Hoạt động của học sinh Tiểu học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của học sinh Tiểu học. Đây là hoạt
động có đối tượng mới là tri thức khoa học của các lĩnh vực khoa học tương
ứng. Hoạt động học quyết định sự hình thành cấu tạo tâm lí đặc trưng ở lứa tuổi
Tiểu học- đó là sự phát triển trí tuệ.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

9


Khóa luận tốt nghiệp
2. Cơ sở thực tiễn.
Để có cơ sở vững chắc cho những đề nghị dạy Luyện từ và câu theo quan
điểm tích hợp ,trước hết chúng tôi khảo sát nội dung môn học này ở khối lớp 4
và toàn bộ bậc học,sau đó dự giờ của các giáo viên có kinh nghiệm xem thuận
lợi và khó khăn của hoạt động dạy này như thế nào. Trên cơ sở đó chúng tôi sẽ
đưa ra những biện pháp cụ thể để hoạt động dạy học Luyện từ và câu theo
hướng tích hợp tốt hơn.
2.1. Nội dung môn Luyện từ và câu trong sách giáo khoa Tiếng Việt.
2.1.1 Nội dung chương trình Luyện từ và câu trong toàn bộ bậc học Tiểu học.
a) Về vốn từ.
Lớp 2: Học sinh học thêm khoảng 300 đến 350 ( kể cả thành ngữ, tục ngữ quen
thuộc và nghĩa của một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề: học tập;
ngày, tháng, năm; đồ dùng học tập; các môn học; họ hàng, đồ dùng và công việc
trong nhà; tình cảm, công việc gia đình, tình cảm gia đình; vật nuôi; các mùa,
thời tiết, chim chóc, các loại chim; muông thú, loài thú; sông biển; cây cối; Bác
Hồ; nghề nghiệp.

Lớp 3: Học sinh học thêm khoảng 400- 450 từ ngữ ( kể cả một số thành ngữ ,
tục ngữ quen thuộc và nghĩa của một số yếu tố gốc Hán thông dụng và một số từ
địa phương ) theo các chủ đề: thiếu nhi; gia đình; trường học; cộng đồng; quê
hương; từ địa phương; các dân tộc; thành thị, nông thôn, Tổ quốc, sáng tạo, nghệ
thuật, lễ hội, thể thao, các nước, thiên nhiên. Ngoài ra, vốn từ còn được mở rộng
trong các bài ôn tập về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, trạng thái, từ chỉ đặc
điểm, tính chất.
Lớp 4: Học sinh học thêm khoảng 500- 550 từ ngữ ( kể cả thành ngữ, tục ngữ và
một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề: nhân hậu, đoàn kết, trung
thực, tự trọng; ước mơ, ý chí nghị lực; trò chơi, đồ chơi; tài năng, sức khỏe, cái
đẹp, dũng cảm, khám phá, phát minh; du lịch, thám hiểm; lạc quan.
Lớp 5: Học sinh học thêm khoảng 600- 650 từ ngữ ( kể cả thành ngữ, tục ngữ và
một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề: Tổ quốc, nhân dân; hòa
bình, hữu nghị, hợp tác; thiên nhiên; bảo vệ môi trường; hạnh phúc; công dân;
trật tự, an ninh; truyền thống; nam và nữ; trẻ em, quyền và bổn phận.
b) Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

10


Khóa luận tốt nghiệp
Lớp 2: Từ và câu, các lớp từ, từ loại, các kiểu câu, cấu tạo câu, dấu câu, ngữ âm
– chính tả.
Lớp 3: Từ loại, biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa), các kiểu câu, cấu tạo của
câu, dấu câu.
Lớp 4: Cấu tạo từ, từ loại, các kiểu câu, cấu tạo câu ( thành phần câu ), dấu câu,
ngữ âm - chính tả.
Lớp 5: Các lớp từ, cấu tạo từ, kiểu câu Liên kết câu.
2.1.2. Chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 4.

Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ( 62 tiết - 32 tiết học kì I và 30 tiết học kì II )
a, Mở rộng vốn từ ( 19 tiết )
b, Cấu tạo của tiếng, cấu tạo từ ( 5 tiết )
c, Từ loại (9 tiết )
d, Câu ( 26 tiết )
e, Dấu câu ( 3 tiết )
2.1.3 Thực tiễn dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 theo quan điểm
tích hợp.
Để có cơ sở nhận xét thực tiễn dạy học Luyện từ và câu theo quan điểm tích
hợp chúng tôi tiến hành khảo sát nội dung môn học từ lớp 2 đến lớp 5 tuần 19 để
có cái nhìn hệ thống về kiến thức và kĩ năng cần tích hợp cho học sinh thông qua
các tiết dự giờ dạy của một số giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy tại trường
Tiểu học Uy Nỗ- Đông Anh- Hà Nội. Kết quả thu được như sau:
Lớp 2: tiết dạy Luyện từ và câu : Mở rộng vốn từ : Từ ngữ về các mùa. Đặt và
trả lời câu hỏi Khi nào?-giáo viên dạy: Vũ Khắc Chi, giáo viên lớp 2E.Giáo viên
hướng dẫn học sinh đặt và trả lời câu hỏi “Khi nào?” bằng cách dựa vào kiến
thức đã học, đó là dựa vào bài tập đọc “Chuyện bốn mùa”. Ở bài tập đọc
“Chuyện bốn mùa” các em đã biết khi nào là mùa xuân,mùa hè, mùa thu, mùa
đông. Do đó hầu hết các em có thể trả lời đúng câu hỏi mà bạn đưa ra. Sau đó
giáo viên chốt lại kiến thức mới như sau: “Khi muốn biết thời gian xảy ra một
việc gì đó ta đặt câu hỏi với từ: Khi nào?”. Như vậy, bằng kiến thức đã học các
em vận dụng vào tiếp thu kiến thức mới nhưng ở mức độ nâng cao hơn.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

11


Khóa luận tốt nghiệp
Lớp 3: tiết dạy Luyện từ và câu: “Nhân hóa. Ôn tập cách đặt và trả lời câu hỏi
Khi nào?” - giáo viên dạy: Trần Thị Phượng chủ nhiệm lớp 3A.Trong tiết dạy

này, giáo viên đã sử dụng dạy học tích hợp ở hầu hết các hoạt động dạy.Ở hoạt
động 1(bài tập 1): dựa vào hai khổ thơ ngắn, giáo viên đưa ra hai câu hỏi. Câu
hỏi 1: Con đom đóm được gọi là gì? ở câu hỏi này hầu hết học sinh đã trả lời
đúng (được gọi là anh) bởi lẽ các em đã được biết qua tiết học Tập đọc “Anh
đom đóm” tuần 17. Câu hỏi 2: Tính nết và hoạt động của đom đóm được tả bằng
những từ ngữ nào?- ở câu hỏi này còn một số ít các em chưa trả lời đúng do đã
quên ở bài tập đọc trước. Mục đích của việc đưa ra hệ thống các câu hỏi là để ôn
tập lại kiến thức cũ đã học trong giờ Tập đọc.
Lớp 4: tiết dạy Luyện từ và câu: Chủ ngữ trong câu kể Ai làm gì?- giáo viên
dạy: Nguyễn Thị Khuyên, lớp 4A.Trong tiết dạy này, để đưa ra được các kiến
thức mới trong phần ghi nhớ, giáo viên phải giúp học sinh nhớ lại các kiến thức
về biện pháp nhân hóa đã học ở lớp 3 và từ đó vận dụng tìm ra được chủ ngữ
của câu kể Ai làm gì? Ví dụ: ở bài tập 1,2,3 giáo viên lần lượt đưa ra các câu hỏi
nhằm mục đích lấy kiến thức của bài này làm ngữ liệu cho bài kia.Tìm chủ ngữ
của câu, nêu ý nghĩa của chủ ngữ:

Một đàn ngỗng / vươn dài cổ, chúi mỏ về phía trước, định đớp bọn trẻ.
Chủ ngữ
Hùng / đút vội khẩu súng gỗ vào túi quần, chạy biến.
Chủ ngữ
Học sinh trả lời: Chủ ngữ trong 2 câu trên lần lượt chỉ con vật và chỉ người.
Lớp 5: tiết dạy Luyện từ và câu: Câu ghép- giáo viên dạy: Nguyễn Thị Oanh,
lớp 5C. Ở bài này, giáo viên tích hợp kiến thức về Chủ ngữ đã học ở các tiêt
Luyện từ và câu lớp 4. Trong bài 1 phần nhận xét, giáo viên đưa ra câu hỏi : “
đoạn văn có mấy câu? Xác định chủ ngữ, vị ngữ của mỗi câu?”; các em nhớ lại
kiến thức đã học, vận dụng vào xác định câu. Như vậy, theo đề nghị của giáo
sinh thực tập, giáo viên ở trường phổ thông đã vận dụng linh hoạt quan điểm
tích hợp dọc vào giảng dạy theo mạch kiến thức: kiến thức của bài học này là
tiền đề cho bài học sau. Đó cũng là con đường hình thành cho học sinhmột cách
nhìn nhận, khái quát vấn đề tổng hợp nhất, giúp học sinh thấy được các kiến

thức lĩnh hội được có quan hệ hữu cơ với nhau.Nhưng trong thực tiễn, khi thực
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

12


Khóa luận tốt nghiệp
hiện giảng dạy Luyện từ và câu trong SGK Tiếng Việt 4 được biên soạn theo
chương trình Tiểu học mới, giáo viên gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít
khó khăn. Cụ thể là:
- Thuận lợi: Không chỉ dạy Tiếng Việt mà còn tích hợp kiến thức, kỹ năng các
môn học khác: những bài học của các môn học khác có ngữ liệu thích hợp với
môn Tiếng Việt được coi là những tình huống để rèn luyện kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt.
- Khó khăn: Quỹ thời gian hạn hẹp. Với 35- 40 phút/tiết, giáo viên đã giải quyết
xong phần kiến thức, kỹ năng của nội dung còn phải tăng thêm phần tích hợp,
lồng ghép. Thao tác của giáo viên còn lúng túng, chưa nhuần nhuyễn, thiếu tự
tin, còn gượng ép nên dẫn đến cách hướng dẫn học sinh hoạt động chưa tích cực.
2.1.4 Tiểu kết chương 1
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn của
việc dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, chúng tôi nhận thấy:
Quan điểm dạy học tích hợp là quan điểm dạy học khoa học, nó góp phần
đắc lực vào việc tích cực hóa hoạt động của người học, đạt được nhiều kết quả
trong một quỹ thời gian nhất định. Nhưng dạy học theo quan điểm tích hợp cần
được tính toán kĩ, có kế hoạch cụ thể mới đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thực tế dạy học tích hợp ở tiểu học còn gặp nhiều khó khăn, một số giáo
viên thậm chí hiểu cực đoan quan điểm dạy tích hợp dẫn đến việc có giờ dạy bị
sa đà không đúng mục đích yêu cầu của phân môn. Tổng hợp những vấn đề lí
luận và thực tiễn của dạy học tích hợp, chúng tôi cố gắng tìm ra các biện pháp
thích hợp để dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 có hiệu quả.

CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU THEO QUAN
ĐIỂM TÍCH HỢP
1. Dạy học Luyện từ và câu trong mối quan hệ hàng ngang.
1.1 Mối quan hệ giữa dạy học Luyện từ và câu với dạy học Tập đọc.
Sự tích hợp trong hai phân môn này cũng được thể hiện rõ trong mối
quan hệ hai chiều:

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

13


Khóa luận tốt nghiệp
Phân môn Luyện từ và câu tạo điều kiện cho học sinh học tốt phân môn
Tập đọc nhờ đặc trưng của phân môn này là cung cấp cho học sinh các kiến thức
về từ, câu. Chính những kiến thức đó là tiền đề cho học sinh có thể học giờ Tập
đọc được tốt hơn.
Chẳng hạn như các ngữ liệu ở phần nhận xét của phân môn Luyện từ và
câu thường được rút ra từ những bài Tập đọc mà học sinh đã học. Cụ thể trong
bài Dấu hai chấm (trang 22 SGK, Tiếng Việt 4, tập 1) ở phần nhận xét đã lấy hai
câu trong bài Tập đọc “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu ” làm ngữ liệu để học sinh
phân tích:
“Tôi xòe cả hai càng ra bảo Nhà Trò:
- Em đừng sợ hãy trở về cùng với tôi đây”.
Ngược lại khi dạy Tập đọc giáo viên cũng cần tận dụng những kiến thức
mà học sinh đã được cung cấp trong phân môn Luyện từ và câu.
Ví dụ: dạy bài Tập đọc “ Tre Việt Nam” Tiếng Việt 4, tuần 4, có câu hỏi
1: “ hình ảnh nào của tre gợi lên những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt
Nam? (cần cù, đoàn kết, ngay thẳng). Để học sinh trả lời được câu hỏi này thì

trước hết giáo viên nên đặt thêm một câu hỏi khác để gợi ý học sinh trả lời đúng
( để ví các hoạt động, cử chỉ, lời nói của sự vật như những hoạt động của con
người, người ta sử dụng biện pháp gì? học sinh nhớ lại kiến thức cũ đã học và
đưa ra câu trả lời là sử dụng biện pháp nhân hóa). Kết quả tìm được là các câu: “
rễ siêng không ngại đất nghèo”, “tay ôm tay níu tre gần nhau thêm”, “ tre xanh
không đứng khuất mình bóng râm”... giáo viên hỏi học sinh xem các từ ngữ nào
đã được sử dụng để nhân hóa hình ảnh của cây tre như hình ảnh của con người?,
học sinh trả lời là các từ: ngại, tay ôm tay níu, khuất mình… Giáo viên chốt lại
kiến thức: các từ này được tác giả chắt lọc sử dụng nhằm nhân hóa hình ảnh của
cây tre như những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất, không quản ngại
khó khăn, gian khổ. Như vậy, nhờ được học bài Luyện từ và câu: Nhân hóa (lớp
3) mà học sinh biết vận dụng tìm các từ ngữ có hình ảnh như yêu cầu. Qua đây,
củng cố lại kiến thức về Nhân hóa.
Như vậy, ở nội dung này có sự tích hợp hai chiều giữa Tập đọc với Luyện
từ và Luyện từ và câu lại hỗ trợ Tập đọc. Muốn học tốt phân môn Tập đọc đặc
biệt là trong phần Tìm hiểu bài thì học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ. Đây là
sự tích hợp Luyện từ và câu với Tập đọc. Ngược lại, để giải nghĩa được các từ
trong phân môn Luyện từ và câu thì phân môn Tập đọc đã cung cấp cho học sinh
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

14


Khóa luận tốt nghiệp
những ngữ cảnh để học sinh có thể dễ dàng tìm ra nghĩa cụ thể và đi vào trong
trí óc từng học sinh một cách nhẹ nhàng tự nhiên.
1.2. Mối quan hệ giữa dạy học Luyện từ và câu với dạy học Kể chuyện.
Chương trình Luyện từ và câu ở Tiểu học có nội dung chủ yếu là hệ thống
hóa, tích cực hóa và mở rộng vốn từ cho học sinh qua các bài ôn tập theo chủ
điểm. Nhờ đó vốn từ của các em tăng lên và cùng với nó, cách nghĩ theo hệ

thống, phân loại, hình thành giúp các em có thêm công cụ để tư duy, để khám
phá những giá trị mới mẻ của vốn từ Tiếng Việt, tự nhân vốn từ của mình lên
thông qua các hoạt động giao tiếp và vận dụng vào giờ Kể chuyện hiệu quả.
Tuy nhiên để định hướng nhận thức cho học sinh, giáo viên có thể trong
giờ Luyện từ và câu gợi ý cho học sinh lựa chọn từ ngữ khi kể chuyện sao cho
phù hợp với tính cách từng nhân vật. Ví dụ trong tiết Luyện từ và câu tuần 2 kì
2 lớp 4 bài Mở rộng vốn từ: Nhân hậu – đoàn kết có các từ ngữ cần cung cấp
cho học sinh là: nhân hậu, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, nhân đức, nhân từ,
nhân ái… Giáo viên có thể lấy ngữ cảnh trong truyện kể Nàng tiên Ốc mà học
sinh được học ngay trong tuần đó rồi yêu cầu học sinh tìm các từ có thể nói về
phẩm chất của bà lão, của nàng tiên Ốc. Thao tác này sẽ giúp học sinh biết cách
lựa chọn từ ngữ để kể về bà lão nhân hậu , về nàng tiên Ốc xinh đẹp cần cù, biết
yêu thương và giúp đỡ người khác.
Ngược lại, Kể chuyện rèn kĩ năng sản sinh văn bản nói cho học sinh
thông qua việc tiếp nhận và sử dụng kết quả học tập của Luyện từ và câu. Đối
với việc học từ, Kể chuyện là nơi để học sinh luyện tập các kĩ năng sử dụng và
vận dụng những kiến thức về Tiếng Việt vào thực tiễn. Chẳng hạn, trong chủ
điểm : “ Những người quả cảm ”, sau khi các em đã được học tiết Luyện từ và
câu “ Mở rộng vốn từ: Dũng cảm” , các em có thêm vốn từ thuộc chủ điểm
Dũng cảm, từ đó các em có đủ vốn từ để học tiết Kể chuyện, như: “ kể lại một
câu chuyện về lòng dũng cảm mà em đã được chứng kiến hoặc tham gia”. Hay
khi học bài kể chuyện Đôi cánh của con ngựa trắng, giáo viên lưu ý học sinh
mưốn đóng vai con ngựa để kể thì có nghĩa là em đã sử dụng biện pháp nhân
hóa mà ở đây hình ảnh con ngựa được nhân hóa như của con người (hoạt động,
lời nói, cử chỉ…). Như vậy, thông qua việc kể chuyện, giáo viên đã giúp học
sinh liên hệ lại với vốn kiến thức đã học làm cho giờ kể chuyện thêm hay và hấp
dẫn hơn.

Trần Thị Tâm - k34B GDTH


15


Khóa luận tốt nghiệp
1.3. Mối quan hệ giữa dạy học Luyện từ và câu với Tập làm văn.
Có thể nói phân môn Luyện từ và câu là phân môn chuẩn bị kiến thức từ
ngữ và ngữ pháp để học sinh viết văn chuẩn xác và sinh động.
Ví dụ: trong bài Luyện từ và câu Mở rộng vốn từ: Du lịch – Thám hiểm,
SGK Tiếng Việt 4, trang 116. Ở bài tập 1 và 2 người ta đưa ra một loạt các từ
ngữ có liên quan đến “du lịch” và “ thám hiểm” để giúp học sinh viết một đoạn
văn nói về hoạt động du lịch hay thám hiểm trong đó có sử dụng những từ ngữ
vừa tìm được ở bài tập 1 và 2. Khi dạy bài này, giáo viên giúp học sinh hệ thống
lại những từ ngữ phù hợp và chọn để viết đoạn văn này. Giáo viên đưa ra các
câu hỏi gợi ý học sinh viết bài: “ mở đầu đoạn văn ta nên viết về điều gì?”– “
viết về sự chuẩn bị cho chuyến du lịch”; “vậy chúng ta nên sử dụng các từ ngữ
có liên quan đến hoạt động du lịch hay thám hiểm?”– “ ta nên sử dụng từ ngữ có
liên quan đến các hoạt động du lịch”; “ vậy trong chuyến đi chúng ta làm thế
nào khi gặp khó khăn, nguy hiểm?” – “ chúng ta phải dũng cảm vượt qua khó
khăn…”; “ vậy ta nên sử dụng từ ngữ liên quan đến hoạt động nào?” – “ hoạt
động thám hiểm”… tất cả các câu hỏi gợi ý đó giúp các em củng cố lại một lần
nữa tri thức vừa lĩnh hội.
Để viết được bài văn hay thì phải chú trọng đến cách dùng từ, đặt câu…và
ngược lại, thông qua bài văn viết học sinh nhớ lại sâu hơn kiến thức Luyện từ và
câu đã học.
1.4. Mối quan hệ giữa Luyện từ và câu với Chính tả.
Sở dĩ ở đây chúng tôi đưa ra mối quan hệ tích hợp giữa hai phân môn
Luyện từ và câu với phân môn Chính tả là bởi khi học Luyện từ và câu, học sinh
được rèn luyện các kĩ năng về từ, câu, thành phần câu,… Và đặc biệt là học sinh
viết đúng các quy tắc chính tả.
Ví dụ: bài chính tả : nghe – viết: “ Người tìm đường đến các vì sao”. Để

viết đúng bài chính tả này, khi dạy, giáo viên hướng dẫn các em ôn tập lại kiến
thức như: dấu chấm, dấu phảy, dấu hai chấm và quy tắc viết các danh từ chỉ tên
riêng nước ngoài bằng cách đặt ra các câu hỏi về cách sử dụng các dấu câu : sau
dấu phảy, dấu hai chấm các em có viết hoa hay không?; khi viết tên riêng nước
ngoài các em cần chú ý điiều gì?...tất cả các câu hỏi đó giúp các em nhớ lại kiến
thức đã học trong các tiết Luyện từ và câu. Và ngược lại, khi viết thành thạo các
quy tắc chính tả, học sinh nhớ lâu hơn các kiến thức về Luyện từ và câu.

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

16


Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy, quan điểm tích hợp được áp dụng vào dạy học sẽ tạo ra nhiều ưu
điểm như làm cho giờ học sôi nổi hơn, kiến thức truyền thụ được sâu, rộng hơn,
học sinh rèn luyện được tính tích cực, tự lực, sáng tạo.
2. Dạy học Luyện từ và câu trong mối quan hệ hàng dọc
Tích hợp dọc là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng mới những
kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm. Như vậy giữa
các kiến thức, kĩ năng có những mối liên hệ, quan hệ hệ thống nhất định.
2.1.1 Khái niệm hệ thống .
Theo cách hiểu chung, hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố có
quan hệ và liên hệ lẫn nhau. Mỗi đối tượng trọn vẹn là một hệ thống, chẳng hạn:
một cái cây, một con vật, một gia đình... Nói đến hệ thống, cần phải có hai điều
kiện:
a) Tập hợp các yếu tố.
b) Những mối quan hệ và liên hệ lẫn nhau giữa các yếu tố đó.
2.1.2 Nguyên tắc đảm bảo “tính hệ thống” của từ, câu trong dạy học Luyện từ
và câu.

Từ đặc điểm tính hệ thống của ngôn ngữ, trong dạy học Luyện từ và câu,
ngoài các nguyên tắc chung, người ta còn đề xuất một nguyên tắc dạy học có
tính chất đặc thù, đó là nguyên tắc “ Bảo đảm tính hệ thống của từ trong dạy học
từ ngữ ( luyện từ). Nguyên tắc này đòi hỏi việc “luyện từ” phải tính đến đặc
điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ. Như vậy, trong sự tương ứng với những
đặc điểm đã nêu của từ, khi dạy từ cần phải:
- Đối chiếu từ với hiện thực ( vật thật hoặc vật thay thế )trong việc giải
nghĩa từ (nguyên tắc ngoài ngôn ngữ).
- Đặt từ trong hệ thống của nó để xem xét , nghĩa là đặt từ trong các lớp từ,
trong các mối quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa, đồng nghĩa, cùng chủ
đề... (nguyên tắc hệ hình).

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

17


Khóa luận tốt nghiệp
- Đặt từ trong mối quan hệ với những từ khác xung quanh nó trong văn bản
với mục đích làm rõ khả năng kết hợp của từ ( nguyên tắc cú đoạn).
- Chỉ ra việc sử dụng từ trong một phong cách xã hội ( nguyên tắc chức
năng).
- Hai việc làm đầu cần thiết cho dạy nghĩa từ , hai việc làm sau cần thiết cho
việc dạy sử dụng từ.
2.2. Hệ thống bài tập tích hợp dọc trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
2.2.1 Tích hợp dọc trong phân môn Luyện từ và câu cùng khối (lớp).
Vận dụng quan điểm dạy học tích hợp theo trục dọc, giáo viên tiến hành
soạn giảng các bài Luyện từ và câu nhằm hệ thống hóa, củng cố lại những kiến
thức đã học, giúp các em nắm bắt kĩ hơn kiến thức từ đó vận dụng vào cuộc
sống hằng ngày.

Ví dụ: Khi dạy bài Luyện từ và câu Cấu tạo của tiếng , tiết 1– Tiếng Việt
4, tập 2, tuần 1. Giáo viên hình thành cho học sinh kiến thức về cấu tạo tiếng
(bao gồm những bộ phận nào? Nhận xét về thanh và vần của tiếng?); để làm
được điều đó, thông qua các bài tập 1, 2, 3, 4 phần nhận xét giáo viên giúp học
sinh nắm chắc cách nhận diện tiếng, cách đánh vần, cách phân tích cấu tạo của
tiếng và qua đó rút ra bài học cần thiết như trong phần ghi nhớ. Đến tiết dạy
Luyện từ và câu thứ hai trong tuần “Luyện tập về cấu tạo của tiếng” , giáo viên
yêu cầu học sinh nhắc lại xem “tiếng có cấu tạo như thế nào?”, dựa vào kiến
thức bài Luyện từ và câu trước, học sinh dễ dàng trả lời được là do ba bộ phận (
âm đầu, vần và thanh). Hay giáo viên đưa ra hệ thống các câu hỏi dẫn dắt, gợi
mở để học sinh nhớ lại kiến thức bài học trước từ đó các em vận dụng làm đúng
các bài tập phần luyện tập (bài tập 2,3,4) , và tiếp tục mạch kiến thức đã học, các
em biết vận dụng chúng vào cuộc sống hằng ngày( bài tập 5: giải câu đố).
2.2.2 Tích hợp dọc trong cùng một phân môn Luyện từ và câu nhưng khác
khối (lớp).
Đây là kiểu tích hợp theo chiều dọc từ dưới lên : giảng dạy theo quan
điểm tích hợp này giúp học sinh củng cố, hệ thống lại kiến thức có liên quan với
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

18


Khóa luận tốt nghiệp
nhau từ các lớp dưới lên, nhằm khắc sâu, mở rộng, cung cấp thêm kiến thức cao
hơn dựa trên những kiến thức đã học ở lớp dưới.
Ví dụ: Ở lớp 3 tuần 2 có bài Mở rộng vốn từ Thiếu nhi thuộc chủ đề Măng
non, bài học cung cấp cho học sinh vốn từ về đức tính tốt đẹp của thiếu nhi như:
ngoan ngoãn, lễ phép… Tiếp tục chủ đề này thì tới chủ đề Măng mọc thẳng lớp
4 tuần 5 và 6 có bài Mở rộng vốn từ Trung thực – Tự trọng, bài cung cấp cho
học sinh vốn từ về các đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người như: tính thật

thà, ngay thẳng... , giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy rõ các đức tính này
không chỉ người lớn cần có mà chính bản thân các em cũng cần đạt được. Như
vậy, ta thấy nội dung kiến thức cần đạt được của cả hai bài học này có sự liên hệ
với nhau: từ ngữ của bài Mở rộng vốn từ thuộc chủ điểm Măng mọc thẳng mở
rộng và trừu tượng hơn so với từ ngữ thuộc chủ điểm Măng non ở lớp 3, trên cơ
sở ôn tập lại và vận dụng vốn kiến thức đã học ở lớp 3 mà học sinh nhanh chóng
nắm bắt được tri thức mới.
2.2.2 Tích hợp Luyện từ và câu với các môn học khác và với kiến thức mà học
sinh tích lũy được
Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học Tiếng Việt
với các kiến thức của các bộ môn KHTN– KHXH các nghành khoa học, nghệ
thuật khác với các kiến thức đới sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống
cộng đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học
sinh.
Ví dụ: Trong tiết Luyện từ và câu : Vị ngữ trong câu kể Ai là gì?, tuần
24, Tiếng Việt 4, tập 2.Ở bài tập 3 phần Luyện tập, đã có sự tích hợp với kiến
thức Địa lí thông qua yêu cầu đề bài: “ Dùng các từ ngữ dưới đây để đặt câu kể
Ai là gì?”.
a)......là một thành phố lớn.
b)....... là quê hương của làn điệu dân ca quan họ.
Để trả lời đúng yêu cầu, học sinh phải có sẵn vốn hiểu biết về các thành phố
lớn trong cả nước và địa danh nơi có những làn điệu quan họ nổi tiếng. Ở câu a)
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

19


Khóa luận tốt nghiệp
học sinh chỉ có thể đưa ra các đáp án là: Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Cần
Thơ và Hải Phòng vì các em đã được học về các thành phố này qua tiết Địa lí (

bài 15 – Thành phố Hà Nội, bài 16 – Thành phố Hải Phòng, bài 21 – Thành phố
Hồ Chí Minh, bài 22 – Thành phố Cần Thơ ) . Ở câu b) học sinh cũng chỉ có thể
đưa ra một đáp án đúng đó là : Bắc Ninh là quê hương của làn điệu quan họ, vì
các em đã được biết đến điều này qua bài 12 Địa lí 4 : “Người dân ở đồng bằng
Bắc Bộ” .
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích thực nghiệm.
Trên cơ sở những nội dung đã đề xuất ở trên,chúng tôi đã tiến hành thực
nghiệm sư phạm nhằm mục đích: đánh giá khả năng học tập của học sinh thông
qua bài học Luyện từ và câu được giảng dạy theo quan điểm tích hợp, đồng thời
khẳng định vai trò của quan điểm dạy học này đối với học sinh Tiểu học, từ đó
tìm ra cách thức vận dụng nó trong dạy học Luyện từ và câu sao cho hiệu quả
nhất và đánh giá đúng đắn giả thiết khoa học của khóa luận.
2. Đối tượng và cách thức thực nghiệm
2.1.Đối tượng thực nghiệm: học sinh 2 lớp: 4Avà 4B trường Tiểu học Uy Nỗ,
thị trấn Đông Anh, Hà Nội.
2.2.Cách thức thực nghiệm gồm 2 bước : khảo sát thực nghiệm và thực nghiệm
kiểm chứng.
2.2.1.Khảo sát thực nghiệm.
Chương trình khảo sát được thực hiện thông qua phần kiểm tra bài cũ, ôn tập,
củng cố lại kiến thức cũ để tiếp thu kiến thức mới.
2.2.2.Thực nghiệm kiểm chứng.
Chuẩn bị giáo án 2 tiết dạy Luyện từ và câu nhờ sự giúp đỡ giảng dạy của
2 cô giáo Nguyễn Thị Khuyên – chủ nhiệm lớp 4A và cô Nguyễn Anh Thư –
chủ nhiệm lớp 4B, mỗi cô dạy một tiết thực nghiệm và một tiết đối chứng. Sau
đó nhận xét và tổng kết những mặt đạt và chưa đạt khi vận dụng giảng dạy quan
điểm này.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH


20


Khóa luận tốt nghiệp
Giáo viên trực tiếp giảng dạy 2 giáo án Luyện từ và câu có chứa nội dung
quan điểm tích hợp: một giáo án giảng dạy theo quan điểm tích hợp ngang và
một giáo án giảng dạy theo quan điểm tích hợp dọc.
3. Giáo án dạy thực nghiệm
3.1. Tiết dạy số 1: Tiết dạy Luyện từ và câu theo quan điểm tích hợp ngang.
Bài Luyện từ và câu: Câu kể: Ai làm gì? – SGK Tiếng Việt 4, tập 2, trang 57.
Giáo viên giảng dạy : cô Nguyễn Thị Khuyên – giáo viên chủ nhiệm lớp 4A,
trường Tiểu học Uy Nỗ, thị trấn Đông Anh, Hà Nội.
3.2. Tiết dạy số 2: Bài dạy Luyện từ và câu theo quan điểm tích hợp dọc.
Bài Luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ: Dũng cảm – SGK Tiếng Việt 4, tập 2,
trang 73.Giáo viên giảng dạy : cô Nguyễn Anh Thư – giáo viên chủ nhiệm lớp
4B, trường Tiểu học Uy Nỗ, thị trấn Đông Anh, Hà Nội.
4. Nhận xét kết quả thực nghiệm :
Để có một kết quả thực nghiệm khách quan và chính xác, trước khi thực
nghiệm tôi đã tiến hành lựa chọn lớp để tiến hành thực nghiệm và lớp để đối
chứng. Hai lớp 4A và lớp 4B được chọn vì hai lớp này có số lượng học sinh và
chất lượng học tập nói chung tương đương nhau.
Qua thực tế dự giờ cả hai lớp (lớp thực nghiệm và lớp đối chứng), căn cứ
vào câu trả lời của học sinh trong các hoạt động có chứa hình thức tích hợp, tôi
nhận thấy : tại lớp thực nghiệm 4A kết quả đạt được cao hơn lớp đối chứng 4B.
Đối chiếu kết quả thông qua khả năng tiếp thu bài mới của học sinh tôi
thấy học sinh lớp thực nghiệm tiếp thu bài và làm bài luyện tập cao hơn là vì:
bài dạy được thiết kế theo hướng đề xuất của luận văn vừa đảm bảo những nội
dung cơ bản về mặt kiến thức của bài học, lại vừa chú trọng đến cách tổ chức
cho học sinh vận dụng những kiến thức mới vào việc làm bài tập. Còn kết quả ở
lớp đối chứng thấp hơn là do giáo viên mới chỉ chú trọng đến việc thực hiện hết

các bài tập trong SGK chứ chưa quan tâm đúng mức tới việc bổ sung các câu hỏi
gợi ý, các bài tập dẫn dắt nên học sinh lúng túng khi thực hiện các bài tập trong
SGK.

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

21


Khóa luận tốt nghiệp

Kết luận
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Do
đó việc cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về từ, câu một cách khoa
học, có hệ thống là đặc biệt quan trọng. Phân môn Luyện từ và câu chú trọng
đến tính thực hành giao tiếp, dạy từ và câu thông qua các tình huống giao tiếp.
Chính vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu thì việc vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực là thực sự cần thiết.
Nghiên cứu đề tài : “Dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 theo
quan điểm tích hợp” tôi nhận thấy nghiên cứu đề tài này thực sự cần thiết. Đề tài
của tôi đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của quan điểm dạy học tích hợp nói
chung và dạy Luyện từ và câu nói riêng. Qua quá trình nghiên cứu đề tài, đi vào
tìm hiểu thực tế việc dạy và học tại trường Tiểu học, tôi nhận thấy phương pháp
dạy học theo quan điểm tích hợp không chỉ đơn thuần áp dụng vào giảng dạy
Luyện từ và câu mà còn có thể áp dụng vào tất cả các phân môn Tiếng Việt cũng
như các bộ môn khoa học nói chung. Nếu như giáo viên tổ chức thành công hình
thức dạy học này cho học sinh trong giờ học Luyện từ và câu, thì học sinh không
chỉ tìm ra kiến thức của bài học một cách chủ động mà các em còn nắm vững ,
hiểu sâu, nhớ lâu những tri thức đã lĩnh hội được. Thông qua đó, các em được
rèn luyện khả năng tư duy, trí nhớ và biết vận dụng linh hoạt tri thức vào các

tình huống đa dạng trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Dạy học Luyện từ và câu cũng như các phân môn khác điều tiên quyết là
phải đảm bảo nhiệm vụ đặc trưng của mỗi phân môn, sau nữa mới là đảm bảo
các nhiệm vụ liên môn. Có tích hợp với phân môn nào khác thì phải xuất phát từ
điều kiện thuận lợi rất riêng biệt của phân môn mình. Chính vì vậy khi dạy
Luyện từ và câu theo qua điểm tích hợp, giáo viên phải chú ý tính mức độ khi
khai thác mối quan hệ giữa các kiến thức ở các phân môn khác nhau cũng như
yêu cầu về kiến thức và kĩ năng ở từng khối lớp. Làm sao cho hoạt động tích
hợp diễn ra tự nhiên không gò ép, khiên cưỡng.
Mặc dù chưa đề xuất được nhiều nhưng tôi mong muốn kết quả nghiên
cứu nhỏ bé của khóa luận sẽ đem lại hiệu quả trong việc dạy học phân môn
Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng cũng như trong dạy học Tiểu học nói chung.
Nếu được trở lại đề tài này, tôi sẽ nghiên cứu việc vận dụng phương pháp dạy
học tích hợp trong các môn học khác ở Tiểu học. Tôi hi vọng những người quan
tâm đến đề tài này sẽ có những đóng góp để khóa luận của tôi được hoàn thiện
hơn.
Trần Thị Tâm - k34B GDTH

22


Khóa luận tốt nghiệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Viết Chữ (2009) - Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
trong nhà trường, NXB Giáo dục.
2. Nguyễn Thiện Giáp - Dẫn luận ngôn ngữ học - NXB GD.
3. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng - Những tri thức và kĩ năng
tiếng Việt cần được dạy học ở nhà trường phổ thông; Tiếng Việt- Văn Việt Người Việt, NXB Trẻ TP HCM , 2001.
4. Nguyễn Trọng Hoàn, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn tiếng Việt (2003).

5. Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga- Phương pháp dạy và học Tiếng Việt ở
Tiểu học- NXB GD, NXB ĐHSP.
6. Đỗ Thị Kim Oanh - Phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp trong
dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4,5- khóa luận tốt nghiệp- Đại học sư phạm
Hà Nội2, 2010.
7. Nghiêm Thị Phượng - Dạy học Tập đọc theo quan điểm tích hợp- Khóa
luận tốt nghiệp - Đại học sư phạm Hà Nội 2, 2010.
8. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên)- Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 2,3,4,5NXB GD.
9. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) - Tiếng Việt 2, 3, 4, 5, SGK, SGV, VBT,
NXB GD, 2006.
10. PGS.TS Nguyễn Trí - Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo
chương trình mới - NXB GD.
12. Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống - Tìm hiểu chương trình và SGK Ngữ văn ở
THPT– NXB Giáo dục, 2006.
13. Xavier roegiers - Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển
các năng lực ở nhà trường, NXB GD, 1996.

Trần Thị Tâm - k34B GDTH

23



×