Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Dạy từ loại tiếng việt cho học sinh lớp 4 theo quan điểm giao tiếp luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.83 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---  --DƯƠNG THỊ THUỲ PHƯƠNG

DẠY TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 4
THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP
Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC (BẬC TIỂU HỌC)
Mã số:

60.14.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. CHU THỊ THUỶ AN

NGHỆ AN, 2012


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS Chu Thị Thuỷ An
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn “Dạy từ loại cho học sinh lớp Bốn theo quan điểm giao
tiếp”.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cơ giáo khoa Sau Đại học,
khoa Giáo dục, các phịng ban của trường Đại học Vinh và trường Đại học Sài
Gịn, các thầy, cơ giáo trực tiếp tham gia giảng dạy lớp Cao học 18 – Giáo dục
Tiểu học đã tạo điều kiện và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu đề tài.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố


Hồ Chí Minh đã cộng tác tham gia khảo sát và thực nghiệm đề tài, bạn bè, đồng
nghiệp và gia đình đã động viên, tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành q
trình học tập và hồn thành luận văn một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn
Vinh, ngày 12 tháng 10 năm 2012


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................1

Chương 1: Cơ sở lí luận ................................................................................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................................... 5
1.2. Từ loại tiếng Việt và việc dạy từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4 ….................. 7
1.3. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt với việc dạy từ loại ở tiểu
học..................................................................................................................................18
1.4. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 4 với việc dạy từ loại theo quan điểm giao
tiếp .......................................................................................................................................
.24
1.5. Tiểu kết chương 1..................................................................................................28
Chương 2: Cơ sở thực tiễn ........................................................................................30
2.1. Khái quát quá trình nghiên cứu thực trạng.............................................................30
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng...............................................................................31
2.3. Tiểu kết chương 2..................................................................................................46
Chương 3: Các biện pháp dạy học về từ loại cho học sinh lớp 4 theo quan điểm
giao tiếp.........................................................................................................................48
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp dạy học về từ loại theo quan điểm giao tiếp cho
học sinh lớp 4................................................................................................................48
3.2. Các biện pháp dạy học lý thuyết về từ loại theo quan điểm giao tiếp cho học sinh lớp
4..............................................................................................................................51
3.3. Các biện pháp dạy học thực hành về từ loại theo quan điểm giao tiếp cho học sinh

lớp 4..............................................................................................................................58
3.4. Thử nghiệm sư phạm.............................................................................................70
3.5. Phân tích kết quả thực nghiệm..............................................................................72
3.6. Tiểu kết chương 3...................................................................................................78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...........................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................83
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Giao tiếp là một kĩ năng rất cần thiết đối với mỗi chúng ta. Kĩ năng giao
tiếp tốt thể hiện qua việc sử dụng ngơn ngữ một cách chính xác, tinh tế. Lê-Nin
đã từng nói: “Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của lồi người”.
Nếu như vậy thì việc dạy tiếng Việt ở tiểu học phải dạy như dạy một cơng cụ
giao tiếp: mục đích, nội dung, phương pháp dạy học và cách thức đánh giá kết
quả đều phải xây dựng trên quan điểm này.
1.2. Đối với học sinh tiểu học, việc học từ loại đóng một vai trị, ý nghĩa hết
sức quan trọng. Hiểu được từ loại giúp các em vận dụng xây dựng cấu trúc ngữ
pháp để đặt câu và mở rộng vốn từ một cách chính xác và hiệu quả nhất cũng
như nâng cao kĩ năng giao tiếp cho các em. Tuy nhiên, trong thực tế, khơng ít
giáo viên và học sinh vẫn cịn gặp nhiều khó khăn trong việc dạy và học về từ
loại.
1.3. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về phương pháp dạy, hình thức tổ
chức dạy học mơn tiếng Việt ở tiểu học, Chu Thị Thủy An, Chu Thị Hà Thanh,
Dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học. Chu Thị Hà Thanh, Lê Thị Thanh Bình,
Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học. Nguyễn Trí, Một số vấn
đề dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở tiểu học. Nguyễn Thị Xuân Yến,

Bàn về hệ thống bài tập dạy học tiếng Việt theo nguyên tắc giao tiếp. Các cơng
trình nghiên cứu về dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp của giáo sư Lê
Phương Nga và nhiều tác giả khác. Tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu về việc dạy từ loại cho học sinh theo quan điểm giao tiếp.
1.4. Chương trình SGK Tiếng Việt hiện nay, việc nắm bắt và tiếp cận nó ở
một số giáo viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là biên soạn theo quan điểm giao


2

tiếp. Nhiều giáo viên trong quá trình giảng dạy chưa có cái nhìn sâu sắc về vấn
đề này. Vì thế, mà hiệu quả dạy và học mơn Tiếng Việt nói chung và việc dạy từ
loại nói riêng chưa cao.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Dạy từ loại
tiếng Việt cho học sinh lớp 4 theo quan điểm giao tiếp”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm giải quyết những khó khăn của giáo viên và học sinh trong q trình
dạy và học về từ loại, góp phần nâng cao chất lượng dạy học vấn đề từ loại tiếng
Việt, nâng cao kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh.
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học các bài về từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4 trong phân
môn Luyện từ và câu.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp dạy học về từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4 theo quan
điểm giao tiếp trong phân môn Luyện từ và câu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tiến hành khảo sát thực trạng và tổ chức thử nghiệm các biện pháp
đề xuất ở các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Chúng tơi giả định rằng: có thể nâng cao hiệu quả dạy học về từ loại tiếng
Việt cho học sinh lớp 4, giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức về từ loại vào hoạt
động giao tiếp nếu xây dựng được hệ thống các biện pháp dạy học theo quan
điểm giao tiếp.


3

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
5.1. Xây dựng cơ sở lí luận về vấn đề dạy từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4
theo quan điểm giao tiếp.
5.2. Tìm hiểu thực trạng về dạy học từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4 ở các
trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất các biện pháp dạy từ loại tiếng Việt cho học sinh lớp 4 theo
quan điểm giao tiếp.
5.4. Tổ chức thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi, tính hiệu quả
của các biện pháp đã đề xuất.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, cụ thể hóa các tài liệu
lý luận có liên quan đến đề tài từ nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát, điều tra: nhằm khảo sát thực trạng, xây dựng cơ
sở thực tiễn cho đề tài.
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm: nhằm kiểm tra tính hiệu quả, tính khả
thi của các biện pháp đã đề xuất.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng tốn thống kê để xử lí số liệu thu được về phương diện định
lượng và mặt định tính.

7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3
chương:


4

Chương 1. Cơ sở lí luận
Chương 2. Cơ sở thực tiễn
Chương 3. Một số biện pháp dạy học về từ loại tiếng Việt cho học sinh
lớp 4 theo quan điểm giao tiếp


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1 Các cơng trình nghiên cứu về từ loại
Từ thời cổ đại, khi con người bắt đầu nghiên cứu ngôn ngữ, người ta đã nói
đến từ loại. Hai tác giả Platon ( 427 - 347 trước CN) và Prôtagôrát (480 - 410
trước CN) đã chia tiếng Hi Lạp thành hai loại: danh từ và động từ. Họ xuất phát
từ lời nói để nghiên cứu, vì thế, từ loại mà họ nghiên cứu là những bộ phận của
lời nói.
Người cùng thời với hai ông là Aristốt ( 384 - 323 trước CN) cũng đã chia ra
động từ và danh từ. Ngoài ra, ơng cịn đưa thêm hai loại từ loại nữa là liên từ và
quán từ.
Vào thời kì Alexandria (thế kỉ III - I trước CN) một học thuyết trọn vẹn về từ
loại đã được hình thành. Học thuyết làm nổi rõ lên vấn đề nguyên tắc phân định
từ loại, phạm vi bao quát của các từ loại và tên gọi các từ loại.

Ở Ấn Độ (khoảng thế kỉ thứ V trước CN) Panini đã nghiên cứu tiếng Sancrit
cổ. Ông chia ra bốn loại từ loại: danh từ, động từ, giới từ và trợ từ.
Sáu thế kỉ sau, Eliuxơ Donatus (thế kỉ thứ I sau CN) đã cho ra đời tác
phẩm“Chỉ nam ngữ pháp” nghiên cứu về ngữ pháp học tiếng Latin. Tác phẩm
này đã bổ sung hoàn chỉnh hệ thống từ loại tiếng Latin.
Đầu thế kỉ XIX, nhà ngôn ngữ người Đức A.F.Bernhadi chủ trương theo
nguyên tắc logic để phân định từ loại. Ở Nga, một số tác giả khác nhau lại đưa
vào một số tiêu chí khác nhau: A.Sacmatov dựa vào quan hệ cú pháp; L.A.Serba
dựa vào đặc điểm cú pháp và hình thức của từ; V.Vinnogradov lại chú trọng đến
cả ba mặt ý nghĩa, chức năng cú pháp và hình thức của từ.


6

Ở Pháp, hai tác giả Sacbali và F.Nactini đã có những cống hiến trong việc
nghiên cứu từ loại.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, đã có nhiều tác giả có cơng trình
nghiên cứu về từ loại như: Hồng Tuệ, Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức, Diệp
Quang Ban, Đỗ Thị Kim Liên, …
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về việc dạy học từ loại cho HS tiểu học
Hiện nay, các cơng trình về vấn đề dạy học từ loại cho học sinh tiểu học vẫn
cịn rất ít. Một số tác giả đã đề cập về vấn đề dạy học từ loại trong cơng trình của
mình như:
- Lê Phương Nga, Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học, Bồi dưỡng học
sinh giỏi tiếng Việt ở tiểu học.
- Chu Thị Thuỷ An Dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học.
- Chu Thị Thủy An, Bùi Thị Thu Thủy, Lý luận dạy học Tiếng Việt và văn học
ở tiểu học.
- Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh, Dạy học Từ ngữ ở Tiểu học.
- Nguyễn Trí, Dạy và học mơn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới,…

1.1.3. Các cơng trình nghiên cứu về dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
Về thực hiện mục tiêu dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp, nhiều
cơng trình đã tập trung nghiên cứu nội dung, phương pháp như:
- Chu Thị Thủy An, Chu Thị Hà Thanh, Dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học.
- Chu Thị Hà Thanh - Lê Thị Thanh Bình, Quan điểm giao tiếp trong dạy học
tiếng Việt ở tiểu học.
- Nguyễn Trí, Một số vấn đề dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở tiểu
học.


7

- Nguyễn Thị Xuân Yến, Bàn về hệ thống bài tập dạy học tiếng Việt theo
nguyên tắc giao tiếp.
- Lê Thị Minh Nguyệt, Dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp.
- Nguyễn Quang Ninh, Một số vấn đề dạy ngơn bản nói và viết ở tiểu học theo
định hướng giao tiếp.
- Các cơng trình nghiên cứu về dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
của giáo sư Lê Phương Nga và nhiều tác giả khác.
Các tác giả đã đề cập đến vấn đề dạy học tiếng Việt ở tiểu học thông qua hoạt
động giao tiếp, vấn đề dạy học luyện từ và câu theo quan điểm giao tiếp. Đây là
những đóng góp rất cần thiết trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học.
Tuy nhiên, dù quan điểm giao tiếp đã được đề cập đến trong các cơng trình
nghiên cứu của nhiều tác giả trong những năm gần đây nhưng chưa có cơng trình
nghiên cứu cách ứng dụng quan điểm giao tiếp vào dạy từ loại cho học sinh lớp
Bốn.
1.2. TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT VÀ VIỆC DẠY TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT CHO
HỌC SINH LỚP 4
1.2.1. Đặc điểm của từ loại tiếng Việt
1.2.1.1. Định nghĩa từ loại

Theo tác giả Alechxan de Rohodes: từ loại trong tiếng Việt bao gồm: danh từ,
động từ, tính từ và những từ khơng biến hình.
Theo Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, từ loại là những lớp từ có chung
bản chất ngữ pháp, được biểu hiện trong các đặc trưng thống nhất dùng làm tiêu
chuẩn tập hợp và quy loại.
Đỗ Thị Kim Liên đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về từ loại: từ loại là
lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp được phân chia theo ý nghĩa phạm trù, theo


8

khả năng kết hợp trong cụm từ và trong câu, thực hiện những chức vụ cú pháp
khác nhau. Từ loại bao gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết
từ, tình thái từ, trợ từ.
Liên quan đến vấn đề dạy từ loại ở tiểu học, tác giả Lê Phương Nga dịnh
nghĩa từ loại như sau: Dựa vào sự giống nhau về đặc điểm ngữ pháp, tức là đặc
điểm ý nghĩa ngữ pháp khái quát và đặc điểm hoạt động ngữ pháp của từ (khi
cấu tạo cụm từ và câu), các từ được phân ra thành từng loại, gọi là từ loại.
1.2.1.2 Tiêu chuẩn để phân định từ loại tiếng Việt
Từ loại là đối tượng nghiên cứu thuộc hệ thống ngôn ngữ, hơn là thuộc về các
chức năng của ngôn ngữ. Các từ loại của ngôn ngữ là những lớp từ nhất định của
ngôn ngữ ấy xét ở đặc trưng ngữ pháp. Cho đến nay tồn tại một cách phổ biến
hai cách phân định từ loại: phân chia vốn từ của một ngôn ngữ ra thành hai lớp
khái quát là thực từ và hư từ, và phân chia vốn từ của một ngôn ngữ ra thành
nhiều lớp cụ thể hơn với những đặc trưng xác định hơn. Trong cách phân chia
thứ nhất của ngữ pháp truyền thống châu Âu, ứng với thực từ là tên gọi dịch ra
tiếng Việt có nghĩa là “các bộ phận của lời”, ứng với hư từ là tên gọi thường dịch
ra tiếng Việt là “tiểu từ”; ngữ pháp châu Âu hiện đại cịn gọi là lớp từ từ vựng
tính ( thực từ) và lớp từ ngữ pháp tính (hư từ).
Sự phân biệt thực từ và hư từ ngày nay, nhìn chung trong các ngôn ngữ, căn

cứ vào kiểu ý nghĩa chủ yếu mà từ diễn đạt: ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ
pháp.Từ nào chủ yếu diễn đạt ý nghĩa từ vựng, tức là gọi tên sự vật, việc, hiện
tượng, là thực từ; từ nào dùng để diễn đạt các mối quan hệ theo lối kèm theo,
không gọi tên chúng, là hư từ. Một cách diễn đạt khác cho rằng thực từ là có ý
nghĩa độc lập tách rời (ý nghĩa từ vựng độc lập); hư từ là từ không có khả năng
độc lập làm thành phần câu (ở đây, người ta hiểu thành phần câu theo nghĩa hẹp,


9

chỉ do thực từ đảm nhiệm) và phục vụ cho việc biểu hiện các mối quan hệ ngữ
nghĩa – cú pháp giữa các thực từ.
Cơ sở của việc phân biệt thực từ với hư từ là cách phản ánh trong tư duy.
Thực từ là từ được dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng (hành động, trạng thái,
tính chất, quan hệ) như là đối tượng hay đặc trưng trực tiếp tham gia vào việc tư
duy. Nhờ đó thực từ có khả năng làm yếu tố chính trong cụm từ chính phụ (hay
căn tố từ vựng tính ở các ngơn ngữ biến hình từ). Hư từ nêu các mối quan hệ (về
số lượng, về thời gian, không gian, về mục đích, về sự đánh giá, về các kiểu
quan hệ logic,...) theo lối đi kèm với thực từ để thiết lập, trong quá trình tư duy,
các mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng do thực từ diễn đạt. Vì lẽ đó, hư từ
chỉ có thể hoặc làm yếu tố phụ trong cụm từ chính phụ, hoặc làm những yếu tố
ngữ pháp đi kèm cụm từ, hay chỉ xuất hiện ở bậc câu.
Thời gian gần đây, trong công việc phân định từ loại, theo cách thứ hai thành
những lớp cụ thể, nhiều nhà nghiên cứu có một xu hướng khá thống nhất là căn
cứ vào ba tiêu chuẩn sau đây:
- Ý nghĩa khái quát (còn được gọi là ý nghĩa phạm trù chung).
- Khả năng kết hợp (với tư cách một tiêu chuẩn thuộc mặt biểu hiện hình
thức).
- Khả năng giữ một hay một số chức vụ cú pháp chủ yếu (tức là khả năng làm
thành phần câu; tiêu chuẩn về chức năng).

Ba tiêu chuẩn này sẽ được vận dụng theo những cách và những mức độ thích
hợp trong quá trình định loại các lớp từ tiếng Việt.
a. Tiêu chuẩn về ý nghĩa khái quát
Nội dung ý nghĩa khái quát được hiểu là thứ nội dung ý nghĩa nhận biết được
thông qua ý nghĩa hay cách sử dụng của những số đông từ nhất định làm thành


10

những lớp, chứ không phải nội dung của từng từ rời cụ thể. Chẳng hạn, như ý
nghĩa về sự vật, về hành động, về trạng thái, về tính chất, về quan hệ, ...
Nội dung ý nghĩa khái quát có tác dụng tập hợp những từ có cùng kiểu ý
nghĩa khái quát lại thành lớp (và lớp con – tiểu loại), tức là có tác dụng quy loại.
Hơn nữa, kiểu ý nghĩa khái quát nào có tác dụng đối với việc định loại vốn từ
tiếng Việt thì nó mới được quan tâm khi định loại từ Việt.
Chẳng hạn các từ tre, nhà, cá, thợ là những từ chỉ sự vật cụ thể; các từ muối,
nước, hơi là những từ chỉ chất thể, các từ chỉ tình cảm, khoa học, tư tưởng, tính
chất, thần linh là những từ chỉ “vật” trừu tượng hay từ tượng thể. Các ý nghĩa vật
thể, chất thể, tượng thể gọi chung là ý nghĩa “thực thể”. Ý nghĩa thực thể trong
các từ nêu trên không được gọi tên ra và không được ghi lại bằng một dấu hiệu
nào (âm thanh hay chữ viết), kể cả bằng dấu hiệu không tách rời được trong từ
như ở các từ châu Âu, nhưng phải được tính đến khi kết hợp từ với từ. Do đó,
khơng được trực tiếp gọi tên bằng một yếu tố định danh cụ thể tách rời và phải
được tính đến khi kết hợp, ý nghĩa thực thể ở những từ trên là một kiểu ý nghĩa
ngữ pháp.
b. Tiêu chuẩn về khả năng kết hợp
Khả năng kết hợp của một từ là năng lực tiềm tại của từ đó xuất hiện trong
một tổ hợp từ. Cho đến nay, khả năng kết hợp của từ trong tiếng Việt được hiểu
ở ba mức độ sau:
Ở mức độ hẹp nhất, trong công tác phân định từ loại, người ta chỉ nói đến khả

năng kết hợp của từ đang xét với một hay một số hư từ nói lên được bản tính của
từ loại đang xét đó. Những từ có tác dụng làm bộc lộ bản tính từ loại của từ cần
xét như vậy được gọi là những chứng tố (từ chứng, từ kiểm chứng). Với những


11

chính tố thường chỉ xác định được ba lớp từ chính trong tiếng Việt là lớp danh
từ, lớp động từ, lớp tính từ (thêm vào đó là lớp động từ chỉ trạng thái tâm lí).
Chẳng hạn những từ có thể xuất hiện trước các chỉ định từ này, nọ thì thuộc
lớp danh từ; những từ có thể đứng sau đang, vẫn, hãy, đừng, chớ,... thuộc lớp
động từ; những từ có thể đứng sau rất phần lớn thuộc lớp tính từ. Những từ vừa
có thể đứng sau hãy, đừng, chớ vừa có thể đứng sau rất là những động từ chỉ các
hiện tượng tâm lí.
Ở mức độ ổn định hơn, khả năng kết hợp của từ được đặt trên cơ sở cách cấu
tạo của cụm từ chính phụ. So với các định loại từ bằng chứng tố, tư tưởng này có
bước tiến rõ rệt là bao quát được nhiều lớp từ hơn. Chẳng hạn nêu ra được lớp
các phó từ của động từ (có nét gần gũi với các phụ tố động từ và một số trạng
từ), phân biệt chúng với các lớp con phó từ chuyên đi với danh từ. Tuy nhiên cấu
tạo của cụm từ chính phụ vẫn chưa bao quát được tất cả các từ tồn tại thực trong
tiếng Việt, còn để lại những từ chỉ xuất hiện ở bậc câu.
Vì lẽ đó, mức độ rộng nhất của sự kết hợp từ với từ, có khả năng bao qt
được tồn bộ kho từ tiếng Việt phải tính đến các yếu tố không nằm trong cụm từ.
Như vậy, khi bàn đến khả năng kết hợp của từ trong công việc định loại các
lớp từ cần nêu những tiêu chuẩn sau đây:
- Từ có khả năng làm đầu tố trong cụm từ chính phụ,
- Từ có khả năng làm yếu tố mở rộng trong cụm từ chính phụ, tức có tham gia
cụm từ chính phụ nhưng khơng làm đầu tố.
- Từ khơng tham gia vào cụm từ chính phụ, chỉ xuất hiện ở bậc câu, nhưng có
thể có quan hệ với cụm từ chính phụ trong trường hợp dùng cụ thể.

Ba khả năng kết hợp vừa nêu của các lớp từ sẽ được vận dụng trong từng
bước phân định từ loại thích ứng.


12

c. Tiêu chuẩn về chức vụ cú pháp
Khả năng giữ chức vụ cú pháp trong câu thường được sử dụng như một tiêu
chuẩn hỗ trợ. Đáng chú ý là các lớp từ thuộc một lớp nào đó thường có thể đảm
đương không phải một mà vài ba chức vụ cú pháp khi hoạt động ở bậc câu.
Trong các số chức vụ cú pháp đó, thường có một vài chức vụ nổi lên rõ hơn có
tính chất tiêu biểu cho một lớp từ nào đó, khơng tính những chức vụ mà lớp từ
nào cũng có thể đảm đương được, như hình dung từ của danh từ (hình dung từ là
một chức năng nghĩa, không phải tên gọi từ loại, trước đây nó được xếp vào số
các “định ngữ” của danh từ).
Nói tóm lại, việc phân định từ loại tiếng Việt dựa vào một tập hợp ba tiêu
chuẩn: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp. Trong các tiêu
chuẩn trên, các tiêu chuẩn ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp là những tiêu
chuẩn chung hơn có tác dụng nhiều hơn trong việc tập hợp và quy loại từ.
1.2.2. Mục tiêu, nội dung dạy học về từ loại tiếng Việt ở tiểu học
1.2.2.1 Mục tiêu dạy học về từ loại tiếng Việt ở tiểu học
Mục tiêu dạy học là căn cứ quan trọng cho việc lựa chọn tri thức lý thuyết,
nội dung thực hành và phương pháp tổ chức hoạt động lĩnh hội tri thức và kĩ
năng của học sinh. Vì vậy, việc xác định một mục tiêu cụ thể trong quá trình dạy
học là rất quan trọng.
Mục tiêu môn Tiếng Việt ở trường tiểu học hiện nay được xác định là:
1.Hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết
để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.



13

2. Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết
sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngồi.
3. Bồi dưỡng tình u tiếng Việt, góp phần hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
(Chương trình giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học -NXB Giáo dục, 2006)
Mục tiêu chung trên đây đã qui định việc dạy học tiếng Việt nói chung và từ
loại nói riêng theo nguyên tắc: lấy học sinh làm trung tâm của q trình dạy học,
phải phát huy tối đa tính tích cực của người học.
Từ loại là một bộ phận của nội dung dạy học tiếng Việt ở tiểu học nên mục
tiêu của dạy học từ loại phải thống nhất với mục tiêu của môn học tiếng Việt
trong nhà trường tiểu học hiện nay.
Vì vậy, mục tiêu của việc dạy học từ loại ở tiểu học là:
- Cung cấp những hiểu biết sơ giản về từ loại của các từ.
- Giúp học sinh phân loại, nhận diện được từ theo từ loại, tiểu loại và sử dụng
đúng với từ loại, tiểu loại của chúng.
- Giúp học sinh vận dụng các kiến thức về từ loại vào đặt câu, viết văn và cả
trong giao tiếp hàng ngày.
Đối với học sinh tiểu học, việc học từ loại đóng một vai trị, ý nghĩa hết sức
quan trọng. Hiểu được từ loại giúp các em vận dụng xây dựng cấu trúc ngữ pháp
để đặt câu và mở rộng vốn từ một cách chính xác và hiệu quả nhất cũng như
nâng cao kĩ năng giao tiếp cho các em.


14


1.2.2.2 Nội dung dạy học về từ loại tiếng Việt ở tiểu học
Lớp Tuần
3
2
4
5
7
8
15
16
1
3
7
12
14
17
5
4
6
7
8
9
11

5

12
9
11
11

12
13
14
14

Nội dung dạy từ loại
Từ chỉ sự vật. Câu kiểu Ai là gì?
Từ chỉ sự vật. Mở rộng vốn từ: ngày, tháng, năm
Tên riêng và cách viết tên riêng
Mở rộng vốn từ: từ ngữ về các môn học. Từ chỉ hoạt động
Từ chỉ hoạt động, trạng thái
Từ chỉ đặc điểm
Từ chỉ tính chất
Ơn từ chỉ sự vật
Ơn tập về từ chỉ hoạt động, trạng thái
Ôn tập về từ chỉ hoạt động, trạng thái
Ôn tập về từ chỉ đặc điểm
Ôn tập về từ chỉ đặc điểm
Danh từ
Danh từ chung và danh từ riêng
Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam

Trang
26
35
44
59
67
122
133

8
58
98
117
145
52
57
68

Luyện tập cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam
Cách viết tên người, tên địa lí nước ngồi
Động từ
Luyện tập về động từ

74
78
93
106

Tính từ
Tính từ ( tiếp theo)
Đại từ
Đại từ xưng hô
Quan hệ từ
Luyện tập về quan hệ từ
Luyện tập về quan hệ từ
Ôn tập về từ loại
Ơn tập về từ loại

110

123
92
104
109
121
131
137
142

- Chương trình đã xây dựng các kiến thức về từ loại theo nguyên tắc đồng tâm
tức là các kiến thức từ loại được mở rộng và nâng cao dần. (từ lớp 2 đến lớp 5).


15

Nhưng có điểm khác biệt so với chương trình CCGD là ngoại diên của khái niệm
được cung cấp một cách khái quát, không đưa ra quá nhiều bộ phận ngoại diên
của khái niệm.
- Dạy học từ loại ở tiểu học đã bám sát mục tiêu dạy lý thuyết gắn với thực
hành. Cung cấp lý thuyết nhằm cho học sinh thực hành (nghe, nói, đọc, viết)
cũng như thơng qua thực hành để học sinh nắm lý thuyết. Điểm này khắc phục
được nhược điểm của chương trình CCGD chủ yếu dùng thực hành để nắm các
kiến thức lý thuyết, để nhận diện phân loại các đơn vị ngữ pháp mà ít cho học
sinh thực hành.
- Chương trình đã sắp xếp nội dung dạy học từ loại theo hai quá trình lĩnh hội
và tạo lập ngôn bản. Tức là các kiến thức từ loại đã sắp xếp dựa trên quá trình
hình thành kỹ năng giao tiếp của HS chứ không phải sắp xếp một cách cứng nhắc
theo trật tự nghiên cứu của ngành ngơn ngữ học.
- Chương trình dạy các kiến thức về từ loại gắn với dạy câu, gắn với "mở
rộng vốn từ".

- Chương trình dạy học luyện từ và câu ở tiểu học nói chung, dạy học từ loại
nói riêng đặt việc rèn luyện kỹ năng lên hàng đầu nhưng không coi nhẹ lý thuyết.
Tri thức được chọn lọc đưa vào chương trình là những tri thức làm cơ sở cho
việc hình thành kỹ năng, đồng thời cung cấp những tri thức ban đầu để các em
vững vàng lên bậc THCS.
1.2.3. Nội dung, các kiểu bài học về từ loại tiếng Việt ở lớp 4
1.2.3.1 Nội dung dạy học về từ loại tiếng Việt ở lớp 4
Lớp
4

5
6
7

Danh từ
Danh từ chung và danh từ riêng
Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam

52
57
68

Luyện tập cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam

74


16

8

9
11
12

Cách viết tên người, tên địa lí nước ngồi
Động từ
Luyện tập về động từ

78
93
106

Tính từ
Tính từ ( tiềp theo)

110
123

Các bài học về từ loại tiếng Việt ở lớp 4 được dạy từ tuần 5 đến tuần 12. Các
bài học này giúp học sinh có khái niệm về đặc điểm của các từ loại: danh từ,
động từ, tính từ. Nhận diện được từ loại trong đoạn văn. Bước đầu biết sử dụng
danh từ, động từ, tính từ để đặt câu.
Cung cấp những hiểu biết sơ giản về từ loại của các từ thơng qua những từ
học sinh đã có hoặc mới học. Giúp học sinh phân loại, nhận diện được từ theo từ
loại, tiểu loại và sử dụng đúng với từ loại, tiểu loại của chúng và vận dụng các
kiến thức về từ loại vào quá trình giao tiếp.
Đối với học sinh tiểu học, việc học từ loại đóng một vai trò, ý nghĩa hết sức
quan trọng. Hiểu được từ loại giúp các em vận dụng xây dựng cấu trúc ngữ pháp
để đặt câu và mở rộng vốn từ một cách chính xác và hiệu quả nhất cũng như
nâng cao kĩ năng giao tiếp cho các em.

1.2.3.2 Các kiểu bài học về từ loại tiếng Việt ở lớp 4
Nội dung các kiểu bài học về từ loại tiếng Việt ở lớp 4 có thể chia thành hai
kiểu: bài lí thuyết và bài luyện tập.
Kiểu bài lí thuyết thường gồm ba phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập.
Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu chứa hiện tượng ngôn ngữ cần nghiên
cứu. Đó là những câu văn, câu thơ, bài văn, bài thơ. Hiện tượng ngơn ngữ được
tìm hiểu nhiều lúc được lưu ý bằng cách in nghiêng hoặc im đậm. Phần nhận xét
có các câu hỏi gợi ý giúp HS tìm ra các đặc điểm có tính chất quy luật của hiện


17

tượng được khảo sát. GV phải dẫn dắt gợi mở để HS trả lời các câu hỏi này. Trả
lời đúng, HS sẽ phát hiện ra những tri thức cần phải học, những quy tắc cân ghi
nhớ.
Ghi nhớ là phần chốt lại những điểm chính về kiến thức một cách tự nhiên
được rút ra từ việc phân tích ngữ liệu. Đó cũng chính là nội dung lí thuyết và các
quy tắc sử dụng cần cung cấp cho HS. HS cần ghi nhớ nội dung này. GV phải có
biện pháp dạy học để HS khơng phải học thuộc lịng mà ghi nhớ trên cơ sở
những hiểu biết chắc chắn. Ngay cả dạy phần này GV cũng không nên đi sâu vào
giảng giải lí thuyết.
Luyện tập là phần trọng tâm của giờ dạy, gồm các bài tập nhằm củng cố kiến
thức đã học.
Kiểu bài lí thuyết về từ loại ở lớp 4 gồm các bài: Danh từ; Danh từ chung và
danh từ riêng; Cách viết tên người, tên địa lí Việt nam; Cách viết tên người, tên
địa lí nước ngồi; Động từ; Tính từ.
Kiểu bài luyện tập là những bài luyện tập gồm một tổ hợp bài tập nhằm vận
dụng những kiến thức đã học vào trong hoạt động nói, viết. Nhưng cũng có khi
kiểu bài luyện tập cũng có thêm những nội dung kiến thức mới.
Kiểu bài luyện tập về từ loại ở lớp 4 gồm các bài: Luyện tập cách viết tên

người, tên địa lí Việt Nam; Luyện tập về động từ.
Như vậy, quy trình một bài dạy về lí thuyết hay luyện tập là thực hành – lí
thuyết – thực hành. Điều này có nghĩa là học sinh được lĩnh hội kiến thức thơng
qua thực hành, sau đó, từ lí thuyết học sinh lại tiếp tục được thực hành và cũng
có nghĩa là cơ hội để dạy học theo quan điểm giao tiếp sẽ rất thuận lợi.
1.3. QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT VÀ VIỆC
DẠY TỪ LOẠI Ở TIỂU HỌC


18

1.3.1. Cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
1.3.1.1. Hoạt động giao tiếp
a. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động quan trọng để phát triển xã hội lồi người. Có
nhiều phương tiện giao tiếp, trong đó ngơn ngữ là phương tiện quan trọng nhất,
cơ bản nhất.
Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc... nhằm thiết lập
quan hệ, sự hiểu biết hoặc sự cộng tác...giữa các thành viên trong xã hội với
nhau... Người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện
thông thường và quan trọng nhất là ngơn ngữ. Mỗi cuộc giao tiếp tối thiểu phải
có hai người và phải dùng cùng một ngôn ngữ nhất định.
b. Hoạt động giao tiếp
Hoạt động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mã (nhận thơng tin) và kí mã
(phát thông tin); trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể thực hiện bằng hai hình
thức là khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc, viết).
Theo quan điểm giao tiếp, mục đích của việc dạy bất kì ngơn ngữ nào cũng
phải hình thành và phát triển cho người học cả bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết.Trước hết, căn cứ vào hai cực đối lập của sự giao tiếp (phát thơng tin- nơi
thu nhận thơng tin), sẽ có hai hoạt động cơ bản là phát và nhận. Theo kiểu loại

ngôn ngữ (ngơn ngữ nói- ngơn ngữ viết) làm phương tiện giao tiếp thì các hoạt
động phát và nhận lại được phân làm hai, là viết và đọc. Như vậy, là có bốn loại
hoạt động cơ bản: nghe, nói, đọc,viết. Ở phương diện cách thức hoạt động, nói
và viết đi theo lộ trình từ ý đến lời, tạo nên lời để phát ra.; Nghe và đọc đi theo lộ
trình từ lời đến ý. Đứng ở góc độ hoạt động của người sử dụng ngơn ngữ, nói và


19

viết là hoạt động chủ động hay là kĩ năng sản sinh, trong đó nghe và đọc là hoạt
động bị động hay kĩ năng tiếp nhận.
Sản sinh/ chủ động

Tiếp nhận/ thụ
động

Ngơn ngữ nói

Nói

Nghe

Ngơn ngữ viết

Viết

Đọc

Có thể hình dung theo sơ đồ sau:


Ngơn ngữ nói
nói

nghe

Sản sinh

Tiếp nhận
viết

đọc
Ngơn ngữ viết

Dạy học tiếng Việt phải chú ý phát triển cả bốn kĩ năng này cho người học
sinh để các em có thể tham gia chủ động và tích cực vào tất cả các hoạt động
giao tiếp. Rèn cho học sinh nói và viết là rèn cho HS cách sản sinh lời nói. Rèn
cho HS nghe và đọc là rèn cho HS tiếp nhận để hiểu người khác.
Muốn tham gia vào hoạt động giao tiếp, HS vừa phải biết tiếp nhận, vừa phải
biết sản sinh ra văn bản (bao gồm cả nói và viết). Nhưng các kĩ năng đó phải có


20

sự biến đổi, chuyển hóa về chất tức là tạo ra và làm giàu năng lực sử dụng lời nói
của cá nhân. Vì dạy giao tiếp chính là dạy lời nói. Theo hướng này, người học sẽ
ít quan tâm đến các quy tắc ngôn ngữ, quan tâm đến việc tạo ra câu nói, lời nói
cụ thể. Lời nói thì vơ cùng phong phú, sinh động, vô hạn, biến đổi trong các
hoàn cảnh sử dụng (giao tiếp) khác nhau.
1.3.2. Nội dung cơ bản của quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
Trong dạy học tiếng Việt, quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai

phương diện nội dung và phương pháp dạy học. Về nội dung thông qua các phân
mơn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, môn Tiếng
Việt tạo ra những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ
theo định hướng, trang bị những tri thức nền và phát triển các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt trong giao tiếp. Về phương pháp dạy học, các kĩ năng nói trên được
hình thành thơng qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những
tình huống giao tiếp tự nhiên.
Việc thay tên gọi hai phân môn “Từ ngữ”, “Ngữ pháp” của chương trình tiếng
Việt cũ bằng “luyện từ và câu” ở chương trình tiếng Việt mới khơng chỉ đơn
thuần là việc đổi tên mà là sự phản ánh quan điểm giao tiếp trong dạy học Luyện
từ và câu. Nó địi hỏi việc dạy học từ, câu nằm trong quỹ đạo dạy tiếng như một
công cụ giao tiếp, nhằm thực hiện mục tiêu của chương trình tiếng Việt tiểu học
mới: “Hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi”.
Quan điểm giao tiếp chi phối nội dung chương trình mơn tiếng Việt nói chung
cũng như phân mơn Luyện từ và câu nói riêng. Trật tự các khái niệm được đưa
ra, “liều lượng” kiến thức và phương pháp của giờ học Luyện từ và câu đều bị
chi phối bởi quan điểm này.


21

- Cung cấp kiến thức về ngôn ngữ
Kiến thức về ngôn ngữ được cung cấp ở Tiểu học nhằm quán triệt quan điểm
giao tiếp. Nhà trường khơng nhằm mục đích dạy kiến thức khoa học lí thuyết về
ngơn ngữ, mà có nhiệm vụ phát triển lời nói cho HS, giúp HS sử dụng Tiếng Việt
như một công cụ giao tiếp hiệu quả. Việc trang bị các kiến thức ngôn ngữ khơng có
mục đích tự thân mà là phương tiện nhận diện các đơn vị ngôn ngữ, nắm chức năng
của chúng để từ đó sử dụng trong lời nói. Vì thế, giờ dạy lí thuyết hay luyện tập kĩ
năng cần được thực hiện theo tinh thần giao tiếp: Kiến thức về từ, câu, dấu

câu...phải được rút ra từ sự phân tích các mẫu lời nói: Các bài thực hành kĩ năng cần
tuân thủ yêu cầu luyện tập theo hệ thống các thao tác của hoạt động nói năng ; xây
dựng hệ thống bài tập phản ánh cơ chế sản sinh và lĩnh hội lời nói thơng qua các
tình huống giao tiếp.
- Rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh tiểu học là một nhiệm vụ
quan trọng bởi vì trình độ ngơn ngữ có phát triển tốt thì trình độ tư duy mới được
nâng cao. Học sinh có kĩ năng sử dụng được ngơn ngữ thì mới có trong tay một
công cụ tốt, một công cụ không thể thiếu được để tiến tới tiếp thu tri thức khoa
học kĩ thuật ngày nay để hồn thiện cơng việc giáo dục tồn diện đối với bản
thân mình. Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, khi ở ta ở địa vị người nhận (người
nghe /đọc) ta phải hiểu những từ mà người phát (người nói/viết) sử dụng trong
ngơn bản. Vì vậy, các kĩ năng mà học sinh tiểu học cần được rèn luyện với tư
cách là người nhận, đó là kĩ năng nghe (nghe-hiểu) và kĩ năng (đọc- hiểu). Khi ở
vị trí người phát (người nói/viết) ta cần phải biết huy động từ, lựa chọn và kết
hợp từ để diễn tả ý, để tạo ra phát ngôn, ngôn bản. Các kĩ năng mà học sinh cần
được rèn luyện với tư cách là người phát, đó là kĩ năng lựa chọn từ, thay thế từ,


22

kết hợp từ để tạo ra các ngôn bản dạng nói, viết. Vì vậy, việc rèn các kĩ năng sử
dụng ngơn ngữ địi hỏi các nội dung và u câù luyện tập gắn với sự đa dạng,
sinh động hoạt động lời nói trong các tình huống giao tiếp khác nhau, sắp xếp
các tài liệu học tập sao cho vừa cung cấp tri thức ngôn ngữ vừa rèn luyện cho
học sinh những kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu quả nhất. Vì thế,
rất nhiều lời khuyên đưa ra với GV như: người dạy cần linh hoạt tổ chức được
các hình thức và hoạt động dạy học phong phú để người học trực tiếp tham gia
thực hành giao tiếp, cần tạo điều kiện cho HS có nhu cầu giao tiếp, làm cho các
em muốn và thích được nói, được viết, có tâm thế hào hứng tham gia nói, viết...

làm sao để HS dễ dàng xác định nội dung, mục đích giao tiếp, biết xác định và
phân tích đặc điểm của hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp...
1.3.3. Dạy từ loại tiếng Việt ở tiểu học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học Tiếng Việt theo định hướng giao tiếp có thể được hiểu như một
nguyên tắc hay một phương pháp dạy học nhưng đều có chung một mục đích:
làm cho học sinh có khả năng sử dụng thành thạo ngơn ngữ, có khả năng vận
dụng tốt các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết khi trực tiếp tham gia vào các hoạt
động giao tiếp của cộng đồng.
Dạy từ loại theo quan điểm giao tiếp là làm sao cho HS sử dụng được từ loại
vào đặt câu, viết đoạn và ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Muốn thực hiện được
điều này đòi hỏi người GV phải đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu bài dạy cũng
như sự khéo léo trong việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức học tập.
Sự phối hợp các hình thức tổ chức lớp học như hình thức cá nhân, nhóm nhỏ,
nhóm lớn...và các phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề, phương pháp thảo
luận nhóm, phương pháp sử dụng các trị chơi, phương pháp thực hành...sẽ nâng
cao chất lượng dạy và học cho HS.


×