TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NGUYỄN THỊ THUỲ
GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ
MẪU GIÁO LỚN QUA HOẠT ĐỘNG
VẼ TRANG TRÍ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp tổ chức hoạt động Tạo hình
Người hướng dẫn khoa học
VŨ LONG GIANG
HÀ NỘI, 2012
LỜI CẢM ƠN
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu khóa luận này được sự giúp đỡ, chỉ
bảo tận tình của thầy Vũ Long Giang, chúng tôi đã từng bước tiến hành khóa
luận này với đề tài : “Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) qua
hoạt động vẽ trang trí”.
Qua đây, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Vũ Long Giang,
các giáo viên trường mầm non Hoa Sen, các thầy cô trong khoa Giáo dục
Tiểu học cùng các thầy cô trong trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều
kiện giúp đỡ chúng tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này do tôi trực tiếp nghiên cứu và có tham khảo tài
liệu của một số nhà nghiên cứu, một số tác giả. Tuy nhiên đó là cơ sở để tôi thực
hiện đề tài này. Đề tài này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện bất cứ gian lận nào
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................... 1
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ......................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận ................................................................................... 5
NỘI DUNG ................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 6
CƠ SỞ LÍ LUẬN .......................................................................................... 6
1.1.
Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo lớn ............................................... 6
1.1.1. Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày ............ 6
1.1.2. Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm
lý .................................................................................................................... 7
1.1.3. Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới – tư duy trực
quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy lôgic ...................................... 8
1.2. Một số vấn đề về Giáo dục thẩm mỹ - Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo lớn.......................................................................................................... 8
1.2.1. Khái niệm Giáo dục Thẩm mỹ ........................................................... 8
1.2.2. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo ................................................ 10
CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 19
GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN (5 – 6 TUỔI)..... 19
QUA HOẠT ĐỘNG VẼ TRANG TRÍ ...................................................... 19
2.1. Một số vấn đề về hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo ..................... 19
2.1.1. Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ trang trí ................ 19
2.1.2. Nguồn gốc, bản chất của hoạt động tạo hình của trẻ em ................ 20
2.1.3. Vai trò của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ 5 – 6 tuổi ................................................................................................ 21
2.1.4. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ ................................................................................................................ 22
2.1.5. Nhiệm vụ của hoạt động tạo hình cho trẻ lứa mầm non................. 23
2.2. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn qua hoạt động vẽ trang trí 23
2.2.1. Vẽ trang trí........................................................................................ 23
2.2.1. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) qua hoạt động
vẽ trang trí .................................................................................................. 29
CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 38
HOẠT ĐỘNG VẼ TRANG TRÍ Ở TRƯỜNG MẦM NON VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẼ TRANG TRÍ Ở
TRƯỜNG MẦM NON ............................................................................... 38
3.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò của việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vẽ trang trí ........................................ 39
3.2. Nhận thức của phụ huynh về vai trò của việc giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vẽ trang trí................................... 39
3.3. Việc tổ chức và thực hiện các phương pháp nhằm giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vẽ trang trí ............................ 40
3.4. Khả năng vẽ trang trí của trẻ.............................................................. 42
3.5. Bước đầu đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao việc
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vẽ trang trí
..................................................................................................................... 42
KẾT LUẬN ................................................................................................. 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 54
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em chính là tương lai của đất
nước, vì vậy việc giáo dục, bồi dưỡng những thế hệ măng non trở thành
những công dân tốt với đầy đủ nhân lực, trí lực để góp phần xây dựng đất
nước là nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục và toàn thể xã hội.
Trong đó, giáo dục mầm non là những viên gạch đầu tiên của hệ thống
giáo dục. Nhân cách của trẻ cũng được hình thành mạnh mẽ trong giai đoạn
lứa tuổi này. Vì vậy giáo dục trẻ trong độ tuổi này vô cùng quan trọng và cần
được sự quan tâm của cả cộng đồng.
Trong điều 21, 22, Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục
tiêu giáo dục mầm non “giáo dục mầm non thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”, “Mục tiêu của giáo dục mầm non là
giúp trẻ phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1”.
Như vậy, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nó là nền móng ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách
trẻ em.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo nhân cách bắt đầu được hình thành khi chưa
hoàn toàn định hình nhưng nó có cơ sở tương đối ổn định trong việc tiếp tục
phát triển và hình thành nhân cách. Lúc này trẻ đặc biệt dễ dàng tiếp nhận
những ấn tượng từ phía bên ngoài mang tính hình tượng và giàu màu sắc cảm
xúc. Đó là những cái đẹp trong thiên nhiên, trong đời sống và trong nghệ
thuật. Một bông hoa tươi thắm, một cánh bướm sặc sỡ đều dễ gợi lên những
rung động trong lòng đứa trẻ. Đó chính là những cảm xúc thẩm mĩ - xúc cảm
về cái đẹp. Hơn nữa, tuổi mẫu giáo là thời kỳ nhạy cảm với cái đẹp xung
1
quanh, có thể coi đây là thời kỳ phát cảm của những xúc cảm thẩm mỹ những xúc cảm tích cực, dễ chịu được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với
“cái đẹp”, tạo nên tinh thần sảng khoái khiến trẻ cảm thấy thiết tha với con
người và cảnh vật xung quanh, làm nảy nở ở trẻ lòng mong muốn làm những
điều tốt lành để đem niềm vui đến cho mọi người. Do những đặc điểm tâm lý
ở lứa tuổi này mà trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ
và chính việc giáo dục thẩm mỹ lại có khả năng kỳ diệu tạo ra hiệu quả to lớn
đối với sự phát triển toàn diện nhân cách đặc biệt là giáo dục đạo đức và giáo
dục lòng nhân ái.
Ở trẻ mẫu giáo, mặt thẩm mỹ phát triển nhanh nhất. Bởi đặc trưng tâm lý
của giai đoạn này được biểu hiện ở tính hình tượng, tính dễ cảm xúc và tính
đồng cảm. Hơn thế nữa, bản thân sự phát triển thẩm mỹ dễ kéo theo sự phát
triển của các mặt đạo đức khác như đạo đức, trí tuệ và cả thể chất. Do vậy,
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo là một việc làm không thể chậm trễ, là
một việc cần được tiến hành một cách nghiêm túc ngay từ lứa tuổi này để
ươm trồng những tài năng cho tương lai.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo có thể theo nhiều con đường, nhiều
hoạt động và nhiều hình thức khác nhau. Song con đường giáo dục giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vẽ trang trí được coi là con
đường cơ bản và hiệu quả cao. Qua hoạt động vẽ trang trí tạo điều kiện cho
trẻ tiếp xúc, làm quen và tập tạo ra cái đẹp để chúng nâng cao nhận thức thẩm
mỹ và vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào cuộc sống như ăn mặc sao cho
đẹp, ở sao cho gọn gàng, ngăn nắp. Từ đó có ý thức tôn trọng và bảo vệ cái
đẹp.
Hơn thế nữa, hoạt động vẽ trang trí là một trong những hoạt động thu hút
nhiều sự chú ý của trẻ mẫu giáo, được tham gia vào tiết học vẽ là trẻ được tiếp
xúc, khám phá và thể hiện một cách sinh động những gì chúng nhìn thấy
trong thế giới xung quanh làm cho chúng cảm thấy rất thích thú, say mê muốn
2
tạo ra những cái đẹp, cái hay làm cho quá trình giáo dục có hiệu quả cao cả về
trí tuệ, đạo đức, lao động và đặc biệt là giáo dục thẩm mĩ. Như một nhà văn
đã nói “phải giáo dục cho trẻ biết yêu cái đẹp từ tuổi bé nhất vì nó là cơ sở
ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người”.
Việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo đã có nhiều tác giả trong nước
và ngoài nước nghiên cứu nhưng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn thì
chưa có công trình nào. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu của bản thân.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non là vấn đề luôn được quan tâm và chú
ý ở cả trong nước và ngoài nước. Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này như:
Tác giả Kazakova.T.C, Hãy phát triển tính sáng tạo ở trẻ mẫu giáo,
Matxcova, 1995.
L.X.Vưgotxki (1896 – 1995), Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu
nhi, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1985.
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về thẩm mỹ nói
chung và việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non nói riêng như:
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết với Giáo dục cái đẹp trong gia đình, NXB
Phụ nữ (1984).
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết với cuốn Giáo dục cái đẹp cho trẻ thơ, NXB
Giáo dục, Hà Nội (1989).
Tác giả Phan Việt Hoa, Nguyễn Thị Hoàng Yến, mỹ học và giáo dục
thẩm mỹ, NXB Đại học Sư phạm (2006).
Đỗ huy, Giáo dục thẩm mỹ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB
Thông tin lý luận ( 1987).
3
Trần thúy, Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, NXB Chính
trị quốc gia (2005).
Và nhiều công trình khác.
3. Mục đích nghiên cứu
Giáo dục thẩm mỹ là một nội dung không thể thiếu trong quá trình chăm
sóc – giáo dục trẻ mầm non. Nó có khả năng kì diệu tạo ra hiệu quả to lớn đối
với sự phát triển toàn diện nhân cách. Tìm hiểu đề tài này nhằm tìm ra những
biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao việc giáo dục thẩm mỹ – yêu thích cái
đẹp; Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc, khám phá cái đẹp; Phát triển các
chức năng tâm lí như khả năng tri giác sự vật hiện tượng xung quanh, từ đó
làm phát triển óc tưởng tượng sáng tạo, ham muốn tạo ra cái đẹp. Qua tìm
hiểu đề tài này còn giúp giáo viên trau dồi những kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu: Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6
tuổi) thông qua hoạt động vẽ trang trí.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu các vấn đề lí luận về giáo dục thẩm mỹ và hoạt động vẽ trang trí.
Tìm hiểu thực trạng về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua
hoạt động vẽ trang trí.
Bước đầu đề xuất một số biện pháp tác động nhằm nâng cao việc giáo
dục thẩm mỹ trong hoạt động này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc, nghiên cứu các tài liệu tâm lí
học, giáo dục học, phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình, vẽ trang trí…
Phương pháp thống kê
Phương pháp phân tích
4
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị nội dung chính của khóa luận gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo lớn qua hoạt động vẽ
trang trí
Chương 3: Hoạt động vẽ trang trí ở trường mầm non và đề xuất một số
biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ qua vẽ trang trí ở trường mầm
non
5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo lớn
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi “mầm
non” – tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này, những
cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người đã được hình thành trước đây, đặc biệt
là trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Với sự giáo dục
của người lớn, những chức năng tâm lí đó sẽ được hoàn thiện về mọi phương
diện của hoạt động tâm lí (nhận thức, tình cảm và ý chí) để hoàn thành việc
xây dựng những cơ sở ban đầu về nhân cách của con người.
1.1.1. Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các
hiện tượng ngôn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc
độ khá nhanh, và đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đều biết sử dụng
tiếng mẹ đẻ một cách thành thục trong sinh hoạt hàng ngày. Sự hoàn thiện
tiếng mẹ đẻ ở trẻ mẫu giáo lớn theo các hướng sau:
- Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ
- Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp
- Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc
Nhìn chung đứa trẻ trước khi bước vào tuổi học sinh đã có khả năng nắm
được ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát âm của người
lớn (tùy theo địa phương có giọng nói như thế nào thì trẻ sẽ nói theo như
vậy), biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, và đặc biệt là nói
đúng hệ thống ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi
6
nhất về phương diện cú pháp và về phương diện tu từ, nói năng mạch lạc
thoải mái. Tóm lại, trẻ đã thực sự nắm vững tiếng mẹ đẻ.
1.1.2. Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt động tâm
lý
Đến tuổi mẫu giáo lớn, trẻ mới nắm được kỹ năng so sánh mình với
người khác, điều này là cơ sở để trẻ tự đánh giá một cách đứng đắn hơn và
cũng là cơ sở để trẻ noi gương những người tốt, việc tốt.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát
triển giới tính của trẻ. Ở tuổi này trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái
mà còn biết rõ ràng nếu mình là trai hay gái thì hành vi phải thể hiện như thế
nào cho phù hợp với giới tính của mình. Ở đây tấm gương của người lớn tác
động rất mạnh đến trẻ.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp hành vi của trẻ mang tính xã
hội, tính nhân cách đậm nét hơn trước. Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng
còn cho phép trẻ thực hiện các hành động một cách chủ tâm hơn, nhờ đó các
quá trình tâm lí mang tính chủ định rõ rệt.
Ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ em chỉ tập trung chú ý vào một đối tượng khi sư
thích thú đối với nó chưa tiêu tan, còn khi xuất hiện một đối tượng mới, lập
tực hứng thú được di chuyển ngay sang đối tượng mới đó. Nhưng đến tuổi
mẫu giáo lớn, sự chú ý đã tập trung hơn, bền vững hơn. Ngôn ngữ phát triển
cũng giúp trẻ biết điều khiển chú ý của mình, biết tự giác hướng chú ý của
mình vào những đối tượng nhất định.
Cũng tương tự như vậy, ghi nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có tính
chủ định nhiều hơn so với trẻ mẫu giáo bé. Tuy vậy, cho đến cuối tuổi mẫu
giáo các quá trình tâm lí không chủ định vẫn chiếm ưu thế trong hoạt động
tâm lí của trẻ, ngay cả trong hoạt động trí tuệ.
7
1.1.3. Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới – tư duy trực
quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy lôgic
Để đáp ứng với khả năng và nhu cầu phát triển của trẻ ở cuối tuổi mẫu
giáo cần phát triển thêm một kiểu tư duy trực quan – hình tượng mới, đó là
kiểu tư duy trực quan – sơ đồ. Kiểu tư duy này tạo cho trẻ một khả năng phản
ánh những mối liên hệ tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào hành động
hay ý muốn chủ quan của của bản thân đứa trẻ. Tuy tư duy trực quan – sơ đồ
vẫn giữ tính chất hình tượng song bản thân hình tượng cũng trở nên khác
trước: hình tượng đã bị mất đi những chi tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại
những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một cách khái quát sự vật chứ không
phải là từng sự vật riêng lẻ.
Tư duy trực quan – sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu lực để lĩnh hội những
tri thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản chất của sự vật.
Tư duy trực quan sơ đồ phát triển cao sẽ dẫn đứa trẻ đến ngưỡng cửa của
tư duy trừu tượng, sẽ cho trẻ hiểu những biểu diễn sơ đồ khái quát mà sau này
sự hình thành khái niệm sẽ được tiến hành chủ yếu dựa trên đó.
Trẻ em ở cuối tuổi mẫu giáo có thể lĩnh hội được những khái niệm khoa
học đơn giản. Điều đó giúp trẻ thay đổi khá nhiều trong hoạt động tư duy của
chúng, biểu hiện ở sự nảy sinh các yếu tố tư duy lôgic, tất nhiên phải có một
sự dạy dỗ đặc biệt.
1.2. Một số vấn đề về Giáo dục thẩm mỹ - Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo lớn
1.2.1. Khái niệm Giáo dục Thẩm mỹ
Khái niệm Thẩm mỹ
Nói đến thẩm mỹ là nói đến cái đẹp. Cái đẹp là lĩnh vực vừa có tính bản
thể vừa có tính định hướng. Có tính bản thể là vì đẹp có thể là một hiện tượng,
sự vật hay một ý nghĩ, một hành vi, là tình thần hay vật chất… nó tồn tại như
8
những chỉnh thể độc lập. Có tính định hướng là vì đẹp còn là một chuẩn mực do
con người xác định lý tưởng sống sao cho đạt tới Chân – Thiện – Mỹ.
Cái đẹp là phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học, dùng để chỉ thực
tại thẩm mỹ khách quan. Thực tại này chúng ta biết được nhờ hệ thống cảm
nhận phổ biến có tính xã hội sâu sắc. Dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ
chân chính, hệ thống cảm nhận thẩm mỹ phản ánh lại thực tại đẹp. Đặc trưng
ngôn ngữ của sự phản ánh đó là nghệ thuật. Cái đẹp bắt nguồn từ cái chân
thật, và cái tốt; Nó tỏa chiếu bằng các xung động thẩm mỹ có sức cuốn hút,
giúp cho con người định hướng đời sống theo quy luật hoàn thiện, hoàn mỹ.
Tác động của cái đẹp là một tác động có tính thanh cao, hài hòa biện chứng, ở
tự thân bên trong tâm hồn con người, bên trong xã hội loài người.
Như vậy, cái đẹp gắn bó với bản chất sáng tạo của con người, gắn với
quá trình hoàn thiện, hoàn mỹ. Hay cái đẹp là sự hài hòa, sự cân đối trong đời
sống vật chất lẫn tinh thần.
Giáo dục thẩm mỹ
Theo quan điểm của mỹ học Mác – Lê Nin, giáo dục thẩm mỹ được
hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa hẹp: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục có tính trường
quy về cái đẹp giáo dục con người biết cảm thụ đánh giá và sáng tạo cái đẹp.
- Nghĩa rộng: Giáo dục thẩm mỹ là quá trình giáo dục và tự giáo dục
nhằm phát huy mọi năng lực của con người theo quy luật cái đẹp, trong đó có
việc bồi dưỡng nhận thức thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ của con người
những tình cảm mạnh mẽ để con người có thể phân biệt rạch ròi giữa đẹp và
xấu, cái cao cả và cái thấp hèn…
Như vậy, trọng tâm của giáo dục thẩm mỹ là nâng cao năng lực thẩm
mỹ của con người, hình thành và phát triển con người, năng lực biết thưởng
9
thức, đánh giá và sáng tạo trên mọi mặt của cuộc sống theo quy luật của cái
đẹp.
Mỹ học Mác – Lê Nin cho rằng hoạt động thực tiễn của con người
chính là cơ sở hình thành quan hệ thẩm mỹ giữa con người với thế giới hiện
thực. Chính hoạt động mang tính xã hội này của con người đã hình thành một
loại năng lực chỉ có cở con người, đó là năng lực sáng tạo theo quy luật của
cái đẹp và xem xét mọi vật dưới góc độ thẩm mỹ nhờ đó mà con người đã tìm
thấy trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật những giá trị
thẩm mỹ đa dạng và phong phú.
Như vậy, bản chất của giáo dục thẩm mỹ là nguyên tắc hoạt động sáng
tạo của con người theo quy luật của cái đẹp. Nghĩa là con người luôn hướng
tới những cái mới, cái tốt đẹp hơn.
1.2.2. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
* Ý nghĩa của việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển
toàn diện đối với thế hệ trẻ và cần được tiến hành ngay từ lứa tuổi mẫu giáo.
Do những đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi này mà trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng
kim” của giáo dục thẩm mỹ.
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có hệ thống và có mục
đích vào nhân cách của các nhân nhằm phát triển năng lực cảm thụ và nhận
biết cái đẹp trong tự nhiên và trong đời sống xã hội, giáo dục lòng yêu cái đẹp
và đưa cái đẹp vào trong đời sống một cách sáng tạo.
Giáo dục thẩm mỹ có mối quan hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo
dục trí tuệ và giáo dục lao động.
- Với giáo dục đạo đức: Cảm xúc thẩm mỹ không những xây dựng trên
cơ sở cảm thụ cái đẹp mà còn trên cơ sở nắm chắc nội dung tư tưởng của tác
10
phẩm nghệ thuật. Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng đến tâm lý của con
người thêm cao thượng.
Ví dụ: Qua vẻ đẹp của thiên nhiên, trẻ có thái độ yêu mến, quý trọng
và mong muốn bảo vệ thiên nhiên như đứng trước một bông hoa đẹp, một bức
tranh đầy màu sắc sặc sỡ… đều gợi lên sự rung dộng trong lòng đứa trẻ. Từ
đó hình thành ở trẻ những hành vi văn minh đối với vẻ đẹp đó như: không hái
hoa, bẻ cành hay làm bẩn những bức tranh… Hay trong sinh hoạt hàng ngày
trẻ rất thích gọn gàng và ngăn nắp, sạch sẽ; Trẻ thích làm những việc giúp đỡ
người thân, bạn bè và những người xung quanh; Trẻ đồng cảm với những
hoàn cảnh khó khăn, éo le trong cuộc sống. Đó chính là những cái đẹp trong
hành vi và trong tâm hồn của trẻ.
Cảm xúc thẩm mỹ làm phong phú cuộc sống của trẻ, nó góp phần giáo
dục tính lạc quan, yêu đời của trẻ.
- Với giáo dục trí tuệ: Giáo dục thẩm mỹ là cơ sở, là tiền đề để phát
triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. Trẻ ở lứa tuổi này không thể tiếp nhận những lý
sự khô khan về lẽ phải và cũng dễ khước từ sự buồn tẻ, trái lại trẻ sẽ rất nhạy
cảm với những điều đó nếu chúng được biểu hiện dưới những hình thức, hình
tượng sinh động và giàu màu sắc xúc cảm. Giáo dục thẩm mỹ khơi dậy ở các
em tính tích cực, sáng tạo và sự tự giác sắc bén hơn. Qua giáo dục cái đẹp, trẻ
được tiếp xúc, khám phá môi trường xung quanh sẽ làm cho trí tưởng tượng
của trẻ phong phú, trẻ chú ý, ghi nhớ, tư duy sâu sắc hơn để đưa ra những
hình ảnh mà chúng thấy được vào tác phẩm tạo hình của mình góp phần phát
triển năng lực nhận thức.
- Với giáo dục lao động: Giáo dục thẩm mỹ có liên hệ trực tiếp với giáo
dục lao động và thể dục. Toàn bộ vẻ đẹp của hoàn cảnh và sự tổ chức quá
trình lao động có tác dụng tăng năng suất lao động. Qua việc tiếp xúc, khám
phá, tìm hiểu cái đẹp trẻ hứng thú và làm việc say mê, tích cực hơn. Sức khỏe
11
và phát triển thể lực tốt, tư thế đẹp bao giờ cũng gây ra cảm giác đẹp mắt và
có tác dụng thẩm mỹ đến sự phát triển chung về mặt tinh thần của con người,
vẻ đẹp của thao tác, vận động của nhịp điệu kích thích hứng thú của trẻ đối
với việc tập thể dục.
Như vậy, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận của giáo dục xã hội chủ
nghĩa, góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách, phát triển toàn
diện.
* Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo
Sự phát triển tri giác, tình cảm và khái niệm thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo
Giáo dục thẩm mỹ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp,
cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp. Đó là những rung cảm thẩm mỹ, những tình
cảm thẩm mỹ.
Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là nhận thức cảm tính cụ thể về mặt thẩm
mỹ. Nhìn và nghe là cơ sở đầy đủ về phương diện tâm lý, sinh lý để tri giác cái
đẹp. Ngay từ những năm đầu trẻ đã bị lôi cuốn một cách vô thức vào tất cả
những gì sống động, sặc sỡ hấp dẫn… qua những bài hát và bức ảnh. Song đó
chưa phải là tình cảm thẩm mỹ mà chỉ là sự biểu hiện ra của hứng thú nhận
thức. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ là giúp trẻ diễn ra quá trình chuyển từ quá trình
nhận thức bản năng sang sự tri giác có ý thức về cái đẹp. Cần làm cho trẻ chú ý
đến những sư vật, hiện tượng của tự nhiên, đến những hành vi của con người,
dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được cái đẹp trong đời sống, trong
thiên nhiên, lao động, trong hành vi và hành động của con người, dạy cho các
em biết về phương diện thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh, giáo dục tình
cảm thẩm mỹ cho trẻ trong việc rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ sau này.
Giáo viên cũng có nhiệm vụ dẫn dắt trẻ đi tìm sự tri giác cái đẹp, cảm
xúc đối với nó đến chỗ tìm hiểu và hình thành các khái niệm, các nhận xét và
đánh giá thẩm mỹ.
12
Phát triển các năng lực nghệ thuật sáng tạo của trẻ
Nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh
động, cụ thể, gợi cảm để phản ảnh hiên thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm.
Bởi vậy, giáo dục nghệ thuật cho trẻ là một quá trình khó khăn và phức tạp.
Đặc điểm sáng tạo của trẻ thể hiện ở chỗ: trong hoạt động trẻ thực hiện
một cách có chủ định, biết phối hợp các tri thức về ấn tượng của mình ở tính
chân thật cao khi thể hiện tình cảm và tư tưởng… Hơn nữa, đặc điểm tâm lý
được thể hiện rất rõ ở tuổi mẫu giáo là sự bắt chước. Đặc điểm này thể hiện
rất rõ trong hoạt động vui chơi của trẻ. Trong trò chơi trẻ bắt chước những
hoạt động của người lớn, trẻ biết thể hiện bằng hình ảnh những ấn tượng lấy
trong thế giới xung quanh.
Óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ cũng được thể hiện ở chỗ các em
thường kết hợp có ý thức các chủ đề khác nhau. Ví dụ: Các em lấy tư tưởng từ
truyện cổ tích hay những câu chuyện trong cuộc sống để miêu tả cái có thể
không có trong thực tế như: cung trăng, chị Hằng…
Tính sáng tạo của trẻ còn được thể hiện trong các hình thức nghệ thuật
khác như: vẽ, nặn, kể chuyện, ca hát…
Ở tuổi mẫu giáo đã có mầm mống của tính sáng tạo, chúng thể hiện ở
sự phát triển năng lực xây dựng có chủ định và thực hiện nó; Ở kỹ năng phối
hợp các tri thức, các khái niệm của mình… Ví dụ: Từ chỗ ngắm nhìn các bức
tranh sẽ dẫn đến trẻ hứng thú vẽ tranh, những đám mây, những đồ chơi đẹp,
mặt trời, ngôi nhà… đều là những đề tài mà trẻ yêu thích. Đây là thời điểm trí
tưởng tượng của trẻ phát triển phong phú nhất, sự phát triển của trẻ trong
tranh vẽ trở thành phương tiện nhận thức cái đẹp và thể hiện sự phong phú
của tâm hồn trẻ. Vì vậy, để phát triển óc sáng tạo cho trẻ cần có quá trình dạy
học để giúp trẻ cách diễn đạt hình tượng và mô tả chủ định khi ca, hát, vẽ, kể
chuyện…thức dậy ở trẻ những biểu hiện có ý thức về nghệ thuật, gây ra cảm
13
xúc tích cực và phát triển năng lực. Mục đích của việc dạy kỹ năng, kỹ xảo
hoạt động nghệ thuật không chỉ giúp trẻ có tri thức và kỹ xảo về ca, hát, vẽ
mà còn gây ở trẻ hứng thú, hoạt động đôc lập, sáng tạo, sẽ đem lại niềm vui
trong cuộc sông của trẻ, trong tập thể và gia đình.
Hình thành những cơ sở của thị hiếu thẩm mỹ
Sự cảm thụ cái đẹp có liên hệ mật thiết đến năng lực đánh giá cái đẹp
một cách đúng đắn. Thị hiếu thẩm mỹ của con người luôn được biểu hiện ở sự
phán đoán đánh giá.
Cần dạy cho các em phân biệt cái đẹp với cái không đẹp, cái thô kệch
và cái xấu xí. Giáo dục cho các em năng lực trình bày lí do tại sao lại thích
bức tranh này, bài hát này, tại sao lại thấy đẹp, tại sao lại thấy không đẹp…
Hình thành cơ sở của thị hiếu thẩm mỹ thông qua việc tìm hiểu các tác
phẩm cổ điển của thiếu nhi, tìm hiểu âm nhạc, hội họa. Trẻ học cách nhận
biết, yêu mến các tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Dạy trẻ biết nhận ra và cảm thụ cái đẹp trong cuộc sống xung quanh và
biết bảo vệ nó. Ví dụ: một bông hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp học đẹp và
ấm cúng, sạch sẽ…đều là những cái đẹp trong cuộc sống, phải biết bảo vệ và
chăm sóc, giữ gìn, nâng niu.
* Những phương tiện cơ bản để giáo dục thẩm mỹ
Phương tiện cơ bản để giáo dục thẩm mỹ ở trường mẫu giáo gồm 3
phương diện:
Vẻ đẹp của hoàn cảnh xung quanh trẻ (vẻ đẹp trong sinh hoạt hàng
ngày)
Vẻ đẹp của hoàn cảnh xung quanh trẻ là những bức tường của ngôi nhà
thân yêu, những đồ vật xung quanh trẻ: đồ đạc, tiện nghi trong nhà, sự kết hợp
hài hòa màu sắc, các bức tranh treo tường, những phù điêu, tượng trang trí,
14
cách bố trí phòng ở… Tất cả những điều đó để lại ấn tượng sâu sắc, được
phản ánh trong trí nhớ và ý thức của trẻ.
Vẻ đẹp trong sinh hoạt hàng ngày của trường mẫu giáo được thể hiện ở
tính giản dị của nghệ thuật trang trí, lựa chọn các tiện nghi sinh hoạt, màu sắc
của các bức tường dịu mát, trong sáng. Các yêu cầu trang trí trường học và
các lớp học do nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của trẻ, do nội dung
của công tác giáo dục quy định. Các yêu cầu chủ yếu là:
- Tính hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.
- Sạch sẽ, giản dị, đẹp đẽ.
- Kết hợp đúng giữa màu sắc với ánh sáng tạo ra sự tương phản thị giác
đảm bảo độ nhìn thấy được của mọi vật.
- Tất cả các bộ phận trang trí phải tạo thành một quần thể thống nhất.
Vẻ đẹp của hoàn cảnh có ảnh hưởng hàng ngày đến trẻ và khó nhận ra,
song là phương tiện rất quan trọng để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo.
Cần phải tạo điều kiện cho nơi ở và sinh hoạt của trẻ có vẻ đẹp tươi vui, hấp
dẫn và mang tính thẩm mỹ cao.
Những ấn tượng từ cuộc sống xung quanh trẻ
Nguồn gốc của sự cảm thụ và những xúc cảm thẩm mỹ chính là cuộc
sống. Cô giáo cần sử dụng những ấn tượng từ cuộc sống xung quanh như một
trong những phương tiện của mỹ dục. Cuộc sống lao động đầy sức hấp dẫn và
cuốn hút trẻ. Hoạt động của người thủy thủ trên biển khơi, các bác sĩ trong
bệnh viện, của người nấu ăn, các nhà khoa học, của người phi công không
những làm cho trẻ hiểu biết cuộc sống lao động của họ mà còn gây cho trẻ
nguyện vọng bắt chước họ, muốn làm như họ. Điều này được phản ánh rất cụ
thể trong trò chơi của trẻ.
15
Trong các ngày hội, ngày lễ, trong những cuộc thao diễn thể dục thể
thao, cảnh trí tấp nập của đường phố, cờ, hoa, những đoàn tuần hành của nhân
dân cũng để lại cho trẻ những ấn tượng sâu sắc.
Cuộc sống xung quanh trẻ còn là những đường phố, những đài kỷ niệm
các di tích lịch sử, các quảng trường lịch sử, đều là những nhân tố tích cực
góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Trong các cuộc tham quan, cô giáo phải
chọn lựa để giới thiệu mở rộng tầm nhìn và sự cảm thụ thẩm mỹ cho trẻ.
Thiên nhiên của quê hương, đất nước là một phương tiện mạnh mẽ
để giáo dục thẩm mỹ, vẻ đẹp thiên nhiên trong thời thơ ấu được cảm thụ rất
sâu sắc và trong sáng, nó giữ lại trong tình cảm, tư tưởng và giữ lại mãi mãi
trong suốt cuộc đời
Bé Cẩm Thơ tả lại cảnh trời mưa:
Cây đứng vẫy mưa đến
Hoa cà chua cười
Bầu nập treo hứng nước
Lá lim gội đầu
Lá mít rửa mặt
Lá dứa được mưa vuốt
Sạch ghê.
Cô giáo phải biết mở ra cho các em thế giới tự nhiên, dạy cho trẻ biết
nhìn vẻ đẹp của buổi bình minh, màu sắc của buổi hoàng hôn, biết lắng nghe
tiếng chim hót, tiếng lá rơi xào xạc, tiếng suối chảy róc rách; Cô biết tạo cảm
xúc cho trẻ trong các buổi dạo chơi, tham quan, làm cho trẻ yêu mến cảnh đẹp
thiên nhiên của quê hương, đất nước.
Nghệ thuật
Là một phương tiện toàn diện và vô tận để giáo dục thẩm mỹ. Loại hình
nghệ thuật phù hợp với trẻ: văn học, hội họa, điêu khắc, sân khấu điện ảnh.
Mỗi một loại hình nghệ thuật phản ảnh một cách độc đáo, cuộc sống và có
16
ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển trí tuệ và tình cảm của trẻ. Cô giáo
phải biết sử dụng các loại hình nghệ thuật khác nhau để gây cho trẻ những
cảm xúc thẩm mỹ và phát triển thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn. Điều quan trọng là
sự lựa chọn tác phẩm có tính nghệ thuật cao, dễ hiểu nâng dần theo lứa tuổi.
Cần tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động nghệ thuật như hát, vẽ,
múa, kể chuyện, đọc thơ để nâng cao hứng thú và phát triển mầm mống của
năng khiếu nghệ thuật.
* Các phương pháp giáo dục thẩm mỹ
Phương pháp giáo dục thẩm mỹ và dạy học nghệ thuật là cách thức
hành động chung của giáo viên và trẻ em nhằm để trẻ nắm được những kinh
nghiệm và hoạt động thẩm mỹ, nhằm hình thành những phương thức hành
động và phát triển năng lực nghệ thuật ở chúng.
- Phương pháp dùng lời: giải thích, trò chuyện, chỉ dẫn, đọc, kể.
- Phương pháp trực quan: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực quan.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp dùng trò chơi.
Các phương pháp này được sử dụng trong sự phối hợp thống nhất với
nhau.
+ Tổ chức quan sát là giúp trẻ nhận ra vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên
nhiên.
Ví dụ: Cô giáo thường hướng dẫn các em quan sát một vườn hoa, cảnh
hoàng hôn đầy màu sắc, khung cảnh một ngày lễ.
+ Những cảm xúc thẩm mỹ trở nên sâu sắc, có ý thức và giữ được lâu
hơn nếu như trẻ hiểu nội dung tác phẩm (một bài hát, một câu chuyện cổ
tích…). Do đó, cô giáo cần phải giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp
thu, làm chính xác biểu tượng của các em. Việc trình bày một cách nghệ thuật
những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc…có tác động trực tiếp khêu gợi tình
17
cảm và xúc cảm thẩm mỹ, giúp các em hiểu sâu hơn nội dung và hình thức
của tác phẩm.
+ Khi sử dụng phương pháp trò chuyện bằng câu hỏi của mình, cô giáo
làm cho trẻ lưu ý, suy nghĩ về những điểm chủ yếu, tìm hiểu và huy động
kinh nghiệm của trẻ, làm sâu sắc những xúc cảm thẩm mỹ của trẻ. Trong khi
trò chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bày tỏ thái độ của
mình với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi trò chuyện phải
dùng từ xúc cảm thẩm mỹ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật để trẻ học theo,
làm theo, bắt chước theo.
Khi dạy trẻ vẽ, nặn, hát, múa, cô truyền đạt cho trẻ những tri thức cần
thiết và hình thành những kỹ năng nhất định. Bởi vậy, cần vận dụng phương
pháp tập luyện để trẻ hiểu những thao tác, cách biểu hiện, cách sử dụng đồ
dùng học tập (bút chì, bút lông...) cô cần dùng các biện pháp chỉ dẫn, làm
mẫu.
18
CHƯƠNG 2
GIÁO DỤC THẨM MỸ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN (5 – 6 TUỔI)
QUA HOẠT ĐỘNG VẼ TRANG TRÍ
2.1. Một số vấn đề về hoạt động tạo hình cho trẻ mẫu giáo
2.1.1. Hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ trang trí
Hoạt động tạo hình gắn liền với hoạt động của con người. Ngay từ khi
con người chưa có ngôn ngữ viết họ đã sử dụng hoạt động tạo hình như một
phương tiện để giao tiếp và truyền đạt lại kinh nghiệm sản xuất. Điều đó
chứng tỏ hoạt động tạo hình là một trong những nhu cầu cần thiết của đời
sống con người.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động của con người để tạo
ra các sản phẩm có hình thể và có màu sắc đẹp, đem lại khoái cảm thẩm mỹ
cho người xem – nhận ra cái đẹp và cảm xúc trước cái đẹp.
Ví dụ: Bức tranh, pho tượng hay mọi thứ trong cuộc sống thường ngày
như nhà cửa, công viên, vải vóc, quần áo, ấm chén, lọ hoa…
Hoạt động tạo hình ở trường mẫu giáo gồm có:
- Vẽ theo mẫu (nhìn mẫu có thực để vẽ như lọ hoa, quả, ấm chén…).
- Vẽ theo đề tài (vẽ tranh theo đề tài cho trước như ngôi trường, nhà
cửa, công viên…).
- Vẽ trang trí (trang trí cái bát, trang trí cái khăn, trang trí đường
diềm…).
- Hoạt động nặn.
- Xé dán, cắt dán giấy.
- Chắp ghép.
19