Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non qua các bài thơ viết cho thiếu nhi của nữ sĩ xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.91 KB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
..............................................

LƯU THỊ HƯỞNG

PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ
MẦM NON QUA CÁC BÀI THƠ VIẾT CHO
THIẾU NHI CỦA NỮ SĨ XUÂN QUỲNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học
Ths. LÊ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các
thầy, cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo trong
khoa giáo dục Tiểu học và đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô
giáo: Thạc sĩ Lê Thị Lan Anh - người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình để tôi
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các cán bộ quản lý thư viện trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thành khóa luận của mình.
Qua đây, tôi cũng xin gửi tới ban Giám hiệu và các cô giáo trường


Mầm non Hoa Sen - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc cùng các bạn sinh viên trong tập
thể lớp K34MN - GDTH lời cảm ơn chân thành nhất.

Hà nội, ngày tháng 05 năm 2012
Sinh viên

Lưu Thị Hưởng

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các căn cứ, các
số liệu trong khóa luận là trung thực. Đề tài này chưa được công bố trong bất
kì công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2012
Sinh viên

Lưu Thị Hưởng

3


MỤC LỤC
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Cấu trúc đề tài
Nôi dung
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1.

Cơ sở lí luận

1.1.1. Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ
1.1.2. Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân
1.1.3. Vài nét về đặc điểm tâm lí lứa tuổi mầm non
1.1.4. Vài nét về đặc điểm sinh lí của trẻ mầm non
1.1.5. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.2.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Mục đích điều tra
1.2.2. Nội dung điều tra
1.2.3. Phương pháp điều tra
1.2.4. Cách thức điều tra
1.2.5. Phân tích kết quả điều tra
Chương 2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non qua các bài thơ viết cho
thiếu nhi của nữ sĩ Xuân Quỳnh
2.1. Thơ ca đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo

4



2.2. Thơ Xuân Quỳnh đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo
2.2.1. Xuân Quỳnh - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
2.2.2. Tác dụng của thơ Xuân Quỳnh trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mẫu giáo
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đều biết rằng, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, nó có tầm quan trọng trong việc đặt nền móng đầu
tiên cho việc giáo dục hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Chính vì thế mà
bậc học mầm non luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm.
Trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ ngây, hồn nhiên như
tờ giấy trắng. Mọi hoạt động học tập và vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo
dục trẻ ở trường mầm non đều đem lại cho trẻ những điều kỳ lạ, thần tiên.
Cũng vì lẽ đó mà trong chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ, mục tiêu
chung đặt ra là giáo dục trẻ phát triển toàn diện: thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
vào lớp 1. Để thực hiện được mục tiêu đó cần phải kể đến sự đóng góp rất lớn
của ngôn ngữ. Dân gian có câu “Trẻ lên ba, cả nhà học nói” để muốn nói khi
lên ba nhu cầu giao tiếp với người lớn của trẻ tăng cao, từ đó làm nảy sinh
khả năng nói của trẻ. Trẻ học giao tiếp ở đây trước tiên là học ngôn ngữ của
tiếng mẹ đẻ.
Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp

tốt, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng
tiếp cận với các môn khoa học khác như: môn làm quen với môi trường xung
quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình...mà điều đặc biệt là thông qua
bộ môn làm quen văn học, nhất là qua các bài thơ đã giúp trẻ khả năng phát
triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt,

6


cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Thơ ca là phương thức đắc lực bồi dưỡng
tâm hồn trẻ thơ mà không gì có thể thay thế được. Với nội dung trong sáng,
lành mạnh, thơ là suối nguồn, là làn gió thơm góp phần bồi dưỡng tư tưởng,
tình cảm tốt đẹp, trí tưởng tượng cũng như phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nói
chung thơ ca có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục ở mọi lứa tuổi.
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại có rất nhiều tác giả
viết nhiều và viết hay cho thiếu nhi như: Định Hải, Ngô Viết Dinh, Võ
Quảng, Phạm Hổ,…Thế nhưng nhà thơ nữ viết cho thiếu nhi thì không nhiều
và viết thật đặc sắc cho thiếu nhi lại càng hiếm. Có một nhà thơ nữ với sự
nghiệp thơ không dài chỉ trên 25 năm nhưng các tác phẩm của nhà thơ viết
cho thiếu nhi là một bộ phận quan trọng làm nên sự nghiệp của nhà thơ này
“Trong tư cách người phụ nữ, người yêu, người vợ, Xuân Quỳnh đã để lại một
di sản thơ đằm thắm, da diết đến khắc khoải… Trong tư cách người mẹ, Xuân
Quỳnh đã để lại một gia tài thơ viết cho con, cũng là thơ viết cho các thế hệ
trẻ thật dồi dào và trong trẻo, thật ngộ ngĩnh và dễ thương” [15, 29].
Xuân Quỳnh để lại một gia tài thơ cho thiếu nhi như là sự kết tinh mọi
trải nghiệm của đời mình. Nếu mảng thơ về tình yêu là lời nói của trái tim:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em” thì trong thơ viết cho thiếu nhi Xuân
Quỳnh đã một lần nữa, từ tuổi thơ của chính mình mà đến với tuổi thơ của các
em, như nhà thơ đã từng viết: “Là một người làm thơ cho các em, qua những

đau khổ và khao khát thuở nhỏ, qua những lầm lỡ của tôi khi cư xử với các con
tôi, tôi luôn luôn tự nhủ: Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông
với các em chứ không phải là sự áp đặt. Ðừng bắt các em sống và nghĩ theo
cách của mình. Nếu muốn giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các
em mà nhận xét đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ đấy” [23].

7


Xuân Quỳnh đã đến với thiếu nhi bằng một tình yêu thực sự, một tâm
nguyện được trở thành nhà thơ của các em. Chiếc cầu nối nhà thơ với các em
không gì khác chính là những đứa con của nhà thơ. Xa hơn nữa là tuổi thơ của
nhà thơ, một tuổi thơ không nhọc nhằn nhưng thiếu thốn tình cảm. Sự thiếu
thốn tình cảm đã làm nảy sinh những khát khao, về sau đã trở thành nguồn
cảm hứng mở ra những sáng tạo vô bờ bến.
Có thể nói câu thơ cho con của Xuân Quỳnh thuộc loại hay nhất của thơ
về trẻ em. Những câu thơ nồng ấm tình mẫu tử và chùm thơ cho con của
Xuân Quỳnh đã “nâng bản chất làm mẹ nên nghệ thuật làm mẹ” vì những
hiểu biết tâm hồn trẻ thơ.
Thơ Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi không nhiều nhưng rất đặc sắc. Đặc
sắc về giọng điệu thơ - một giọng điệu giàu nữ tính, nhạy cảm và thiết tha với
các em; về chất thơ: mượt mà, đậm màu sắc ca dao, dân ca; về phong cách thơ
dí dỏm, trẻ trung và đặc biệt là ngôn ngữ thơ: nó rất lạ nhưng sao lại trẻ con
đến vậy. Nó như chính ngôn ngữ hàng ngày hồn nhiên, tinh nghịch, tình cảm
như khi các em trò chuyện với mẹ, trò chuyện với nhau. Có lẽ vì thế mà
những sáng tác thơ cho trẻ em của nhà thơ Xuân Quỳnh đã được lựa chọn để
đưa vào chương trình giáo dục mầm non nhằm giúp trẻ nhỏ phát triển mọi
mặt đặc biệt là ngôn ngữ.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non qua các bài thơ viết cho thiếu nhi của nữ sĩ Xuân

Quỳnh”. Chúng tôi mong muốn được đưa các bài thơ của Xuân Quỳnh đến
với các em nhỏ nhiều hơn nữa nhằm kích thích việc phát triển ngôn ngữ cho
các em.

8


2. Lịch sử vấn đề
Trẻ em luôn giành được rất nhiều sự quan tâm của gia đình, nhà trường
và xã hội. Những vấn đề về trẻ em đã được các nhà nghiên cứu khoa học hết
sức quan tâm. Riêng về phát triển ngôn ngữ và lời nói mạch lạc cho trẻ đến
nay đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học với những công trình nghiên cứu
được xã hội ghi nhận.
Trong cuốn “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, NXB Đại học Sư
phạm, năm 2004, Nguyễn Xuân Khoa đã nghiên cứu rất kĩ sự phất triển ngôn
ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sơ những đánh giá chung về đặc điểm sinh lí
của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với
những bộ môn khác ông đã đưa ra được một số phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ. Cuốn sách này là tài liệu bổ ích cho các giáo viên và sinh viên ngành
mầm non, cũng như các nhà nghiên cứu về vấn đề này.
Cùng với Nguyễn Xuân Khoa, trong cuốn “Giáo trình phương pháp
phát triển lời nói trẻ em” của tác giả Đinh Hồng Thái, NXB Đại học Sư
phạm, năm 2007 đã viết rất chi tiết về lời nói mạch lạc và các hình thức,
phương pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo.
Tạp chí Giáo dục mầm non có rất nhiều bài viết về cách tổ chức, quản
lý, tin hoạt động, những sáng kiến dạy học của giáo viên và các cán bộ quản
lý ngành mầm non. Ở đó cũng có khá nhiều bài viết về vấn đề phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Trong Tạp chí Giáo dục mầm non số 1/2006, tác giả Đinh Thị
Uyên có bài dịch tìm hiểu về chương trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm

non Hàn Quốc. Đây là một góc nhìn mở cho nền giáo dục mầm non Việt Nam
hiện nay.
Trong thơ ca viết cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh, nhà thơ đã thực sự để
lại dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc nhỏ tuổi nhiều thế hệ. Đọc thơ Xuân

9


Quỳnh, ta thấy rõ thế giới các sự vật hiện tượng đều được ngắm nhìn qua lăng
kính tình mẹ con.
Nhà giáo Đông Mai, chị gái của Xuân Quỳnh kể lại: “Số phận khắc
nghiệt đã cướp đi của Quỳnh người mẹ từ khi còn trứng nước. Hình ảnh
người mẹ đối với Quỳnh thật xa xôi, nhưng nỗi đau mất mẹ đã ám ảnh suốt
một đời Quỳnh. Sau này, trên bước đường đời, những lúc vui buồn, đau khổ,
Quỳnh vẫn nhớ và khóc về một người mẹ mà Quỳnh tin rằng rất thiêng, lúc
nào cũng ở bên Quỳnh. Cuộc đời mồ côi khiến cho Quỳnh hiểu tình mẫu tử
thiêng liêng, cần thiết và quí giá như thế nào đối với trẻ thơ, nên khi làm mẹ,
Quỳnh đã dồn tất cả tâm hồn và sức lực cho con. Trong thơ Quỳnh, tình mẹ
con thật là tha thiết, sâu đậm. Những đứa con là nguồn thi hứng không bao
giờ cạn của Quỳnh. Những bài thơ nói về con, viết cho con chiếm một số
lượng không nhỏ trong thơ Quỳnh. Và vì vậy, ta cũng hiểu vì sao thơ văn
Quỳnh viết cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi lại dí dỏm, nồng ấm tình thương
như vậy” [24].
Trong cuốn “Thơ Xuân Quỳnh - những lời bình”, nhà phê bình văn học
Nguyễn Đăng Mạnh đã có những nhận xét rất xác đáng về nghệ thuật trong
thơ Xuân Quỳnh. Ông cho rằng thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như người phụ nữ
thì phải sinh con đẻ cái.
Trong cuốn “Xuân Quỳnh thơ và đời” tác giả Lê Minh Khuê trong bài
“Nhớ chị” lại viết ngôn ngữ trong thơ Xuân Quỳnh. Đó là những ngôn ngữ
thơ lạ lùng chỉ riêng nhà thơ Xuân Quỳnh có được, thứ ngôn ngữ cuốn hút,

thấm đượm chất dân gian mà mới mẻ…
Và còn rất nhiều những công trình nghiên cứu khác đã đi sâu vào tìm
hiểu về ngôn ngữ và lời nói mạch lạc cho trẻ mầm non. Các nhà khoa học đều
muốn trẻ được phát triển về mặt ngôn ngữ, nâng cao chất lượng dạy và học
của ngành giáo dục mầm non nói riêng và nền giáo dục của đất nước nói

10


chung. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, chưa có một ai và một công trình
khoa học nào đi sâu vào khai thác đề tài phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
qua các bài thơ viết cho thiếu nhi của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Với đề tài nghiên
cứu này, chúng tôi đã tìm được cho mình một hướng đi riêng, dựa trên sự tìm
hiểu, đánh giá và thực nghiệm của chính bản thân mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này để thấy được vai trò, tác dụng của thơ
Xuân Quỳnh đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non đặc biệt là trẻ ở
lứa tuổi mẫu giáo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
qua các bài thơ viết cho thiếu nhi của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: trong khuôn khổ khóa luận chúng tôi
không thể đi nghiên cứu tất cả các bài thơ trong đời thơ Xuân Quỳnh. Chúng
tôi chỉ xin dừng lại ở những bài thơ Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi được in
trong tập thơ: “Bầu trời trong quả trứng” và một số bài thơ được đăng trên
trang web [23, 24].
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài,
nghiên cứu của chúng tôi nhằm thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài.

+ Tìm hiểu tác dụng của thơ Xuân Quỳnh đối với sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ mầm non lứa tuổi mẫu giáo.
Trên cơ sở hai nhiệm vụ trên, chúng tôi đưa ra Kết luận và Khuyến nghị.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này của chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.

11


- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung khóa luận gồm 2
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài.
Chương 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non qua các bài thơ viết
cho thiếu nhi của nữ sĩ Xuân Quỳnh.

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.

Cơ sở lí luận

1.1.1. Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ

1.1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ
bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ
đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn
hóa - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tùy theo hoàn cảnh lịch sử mà sự hình thành dân tộc và ngôn ngữ dân
tộc mỗi nơi, mỗi thời kì một khác, theo những con đường khác nhau. Mác và
Ăngghen đã viết: “Trong bất cứ ngôn ngữ phát triển nào hiện nay, cái nguyên
nhân khiến cho một ngôn ngữ phát sinh một cách tự phát, được nâng lên
thành ngôn ngữ dân tộc thì một phần là do ngôn ngữ đó được phát triển một
cách lịch sử từ chỗ nó được chuẩn bị đầy đủ về tư liệu, như ngôn ngữ La Mã
và ngôn ngữ Giecmani chẳng hạn, một phần là do sự giao dịch và hỗn hợp
của các dân tộc, như tiếng Anh chẳng hạn; một phần nữa là do các phương
ngữ tập trung thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất và sự tập trung đó lại do sự
tập trung kinh tế, chính trị quyết định”.
1.1.1.2. Các bộ phận và các đơn vị của ngôn ngữ
a. Các bộ phận của ngôn ngữ
Ba bộ phận cấu thành của ngôn ngữ là từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp.
Trong kết cấu ngôn ngữ, từ vựng thuộc vào ngoại biên về nghĩa vì nó trực tiếp
gọi tên các sự vật, hiện tượng của thực tế; còn ngữ âm phụ thuộc vào ngoại
biên về chất liệu vì nó trực tiếp được tích lũy bởi giác quan con người. So với

13


ngữ âm và từ vựng thì ngữ pháp luôn luôn là gián tiếp, không có tính chất cụ
thể. Nó chỉ liên hệ với thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được thông qua ngữ
âm. Vì vậy, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm trong kết cấu ngôn ngữ.
b. Các đơn vị của ngôn ngữ
+ Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm

ra được trong chuỗi lời nói. Ví dụ các âm “b”, “t”, “v”,... hoàn toàn không
thể chia nhỏ chúng hơn.
Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. Ví dụ
“bào” có nghĩa là một dụng cụ của thợ mộc để làm mòn, nhẵn gỗ, còn “vào”
có nghĩa là một hành động đi từ ngoài tới trong. Cái làm ta phân biệt được hai
nghĩa đó không phải là do bộ phận ngữ âm trùng nhau giữa hai từ là (-ào) mà
do sự đối lập giữa âm (b) và âm (v) tạo nên.
+ Hình vị là một hoặc chuỗi kết hợp một vài âm vị, biểu thị một khái
niệm. Nó là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng
ngữ nghĩa. Ví dụ kết hợp “quốc gia” trong tiếng Việt gồm hai hình vị:
“quốc” là nước và “gia” là nhà.
+ Từ là chuỗi kết hợp của một hoặc một vài hình vị mang chức năng
gọi tên và chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ các từ: tủ, ghế, đi, chạy, cười, khóc,...
+ Câu là chuỗi kết hợp của một hoặc nhiều từ, chức năng của nó là
chức năng thông báo.
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản,
v.v... bất cứ thứ tiếng (ngôn ngữ) nào cũng chứa đựng hai phạm trù: phạm trù
ngữ pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định
việc thành lập từ và câu cũng như quy định sự phát âm, phạm trù này ở các
thứ tiếng khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, vì vậy tuy dùng
các thứ tiếng khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.

14


Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, dùng làm phương
tiện giao tiếp và là công cụ tư duy.
1.1.1.3. Chức năng của ngôn ngữ
a. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con

người. Ngay cả những bộ lạc lạc hậu nhất mà người ta mới phát hiện ra cũng
dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau. Ngoài ngôn ngữ, con người còn có
các phương tiện khác để giao tiếp như cử chỉ, các loại dấu hiệu, kí hiệu khác
nhau (kí hiệu toán học, đèn tín hiệu giao thông, v.v...), những kết hợp thanh
của âm nhạc, những kết hợp màu sắc của hội họa, v.v... nhưng ngôn ngữ là
phương tiện trọng yếu nhất của con người.
Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình
sinh hoạt và lao động, mà người ta có thể diễn đạt và làm cho người khác hiểu
được tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình. Có hiểu biết
lẫn nhau, con người mới có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên,
chinh phục xã hội, làm cho xã hội ngày càng tiến lên.
b. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền chức năng thể hiện tư duy
của nó, bởi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp ta trao đổi tư
tưởng, tình cảm với nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng nhau tổ chức công
tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản thân ngôn ngữ tàng trữ kinh
nghiệm, những tư tưởng và tình cảm của con người.
Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ thể hiện ở cả hai khía cạnh:
+ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào, câu
nào mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng. Ngược lại, không có ý
nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là biểu hiện
thực tế của tư tưởng.

15


+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý
nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Không
có ngôn ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì ngôn ngữ
chỉ là những âm thanh trống rỗng, thực chất là không có ngôn ngữ.

1.1.1.4. Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy và giao tiếp của con người
a. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức
Quá trình hình thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để
phát tư duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực (sự hiện
hữu) của tư duy.
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi. Đây là những hoạt động
chủ yếu của trường mầm non. Giống như việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp
học khác, phát triển lời nói cho trẻ ở trường mầm non thực hiện mục tiêu
“kép”. Đó là, trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó như một công
cụ để vui chơi, học tập. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và
ngược lại, mọi hoạt động tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
b. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
“Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là
một đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
trọng nhất” (Lênin). Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu được nhau,
cùng nhau hành động vì những mục đích chung. Không có ngôn ngữ, không
thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là trẻ em, một sinh
thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của người lớn.
Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện
vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển.
Giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và
trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ.

16


1.1.2. Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân
1.1.2.1. Ngôn ngữ nói
Bắt đầu từ 12 tháng trở đi, ở trẻ sẽ xuất hiện những âm bập bẹ có ý
nghĩa đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người

lớn. Các âm bập bẹ nhanh chóng mất đi nhường chỗ cho các từ tham gia vào
cấu tạo câu sử dụng trong giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các kiểu câu
đơn giản gồm hai đến ba từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tăng lên. Trẻ
tích cực hơn trong giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu giao
tiếp tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp ngôn ngữ, kết quả là các kĩ năng
giao tiếp ngôn ngữ được hình thành.
1.1.2.2. Ngôn ngữ viết
Trẻ luyện viết là hoạt động tập hứng thú và tự giác. Chính vì vậy, khi
dạy viết cho trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của
việc luyện viết (lưu ý trẻ mẫu giáo chưa tiến hành hoạt động học tập). Giáo
viên mầm non chỉ khuyến khích cho trẻ nhận thức được tầm quan trọng của
chữ viết. Trẻ sẽ tự giác ngồi vào vẽ chữ. Khi trẻ bắt đầu có hứng thú với chữ
viết cô nên chuẩn bị dụng cụ để giúp trẻ luyện viết tại góp luyện viết (bút chì,
bút màu, bút vẽ, v.v...).
1.1.3. Vài nét về đặc điểm tâm lí lứa tuổi mầm non
Ngay từ năm đầu khi mới lọt lòng mẹ, ngoài sự tăng trưởng và phát
triển mạnh mẽ về thể chất thì tâm lí trẻ mầm non cũng có sự thay đổi rõ rệt và
nhanh chóng.
Từ thuở lọt lòng, trẻ đã được tiếp xúc với những câu hát ru “ầu, ơ”,
những câu nự của bà, của mẹ. Tất cả đã thấm sâu trong tiềm thức non nớt của
trẻ. Lớn hơn một chút, khi nhu cầu cần được giao tiếp của trẻ phát triển, trẻ
biết hóng chuyện thì mẹ là người thường xuyên trò chuyện, tâm sự với trẻ.
Khi giao tiếp trẻ bắt chước những âm thanh trong lời nói của những người

17


xung quanh. Sau ba tháng, một đứa trẻ bình thường có phát ra những âm
thanh nhỏ “gừ gừ”, thỉnh thoảng ta có thể bắt gặp những âm thanh “ô, a”
trong miệng đứa trẻ theo nhịp điệu “à ơi” hay “ầu ơ” trong lời ru của người

lớn. Những âm thanh này ta cũng thường thấy xuất hiện trong các bài thơ viết
cho thiếu nhi.
Đến tuổi hài nhi, trẻ hình thành những tiền đề của sự lĩnh hội ngôn ngữ.
Lúc này thì giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn là hoạt động chủ đạo
của trẻ hài nhi. Tất nhiên trẻ chỉ sẵn sàng giao tiếp với người lớn khi trẻ thấy
an toàn và thoải mái về tình cảm. Càng về cuối năm thứ nhất thì trẻ lại càng
thích giao tiếp với những người lớn bằng những âm bập bẹ của mình. Âm bập
bẹ này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp phát triển ngôn ngữ sau
này. Như vậy trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với người lớn, sự thông hiểu
ngôn ngữ của trẻ dần dần mang tính chất tích cực hơn và trở thành một trong
những phương tiện quan trọng để mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ với
những người xung quanh. Có thể giao tiếp với người lớn được coi là điều kiện
tiên quyết để trẻ lớn lên thành người.
Ở tuổi ấu nhi (15 - 36 tháng), trẻ đã có thể nắm vững hoạt động với đồ
vật và việc giao tiếp với người lớn tạ ra sự biến đổi đáng kể trong các hình
thức giao tiếp của trẻ ấu nhi. Điều này quyết định sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ ở độ tuổi này. Tuy nhiên, việc phát triển ngôn ngữ của trẻ ở lứa tuổi này
phần lớn phụ thuộc vào sự dạy bảo của người lớn. Những đứa trẻ mà ít giao
tiếp hay ít được thỏa mãn nhu cầu giao tiếp thì thường nói rất chậm. Để kích
thích trẻ nói chuyện người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của
mình bằng lời nói thì mới đáp ứng được nguyện vọng đó.
Trẻ đến tuổi mẫu giáo đã nắm được một số vốn từ vựng mà người lớn
cung cấp. Nét tâm lí đặc sắc ở giai đoạn này là sự tò mò, trẻ luôn muốn được
tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh, trẻ luôn hỏi người lớn “vì sao”,

18


“tại sao” trước những sự vật hiện tượng lạ và luôn yêu cầu người lớn giải
thích nghĩa của từ đó cho trẻ hiểu. Nắm được đặc điểm này của trẻ, các nhà

thơ đã sáng tác một số bài thơ theo hình thức hỏi - đáp nhằm giúp trẻ thỏa
mãn nhu cầu này. Nhờ đó mà tư duy của trẻ mẫu giáo đã phát triển hơn so với
lứa tuổi nhà trẻ.
Tư duy của trẻ mẫu giáo phát triển trên cơ sở kinh nghiệm cảm tính
ngày càng tăng, trong quá trình giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ các
hình thức tư duy cũng được hoàn thiện dần khi hiểu biết của trẻ càng mở
rộng. Sự phát triển tư duy của trẻ gắn chặt với phát triển ngôn ngữ và sự tăng
vốn từ. Ở trẻ các quá trình khái quát hóa, trừu tượng hóa cần thiết để hình
thành các khái niệm đã xuất hiện và phát triển.
Như vậy, các đặc điểm tâm lí chung của trẻ mầm non đang được hình
thành và phát triển mạnh mẽ song lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự phát triển
ngôn ngữ. Sự lĩnh hội ngôn ngữ của độ tuổi này góp phần sự thúc đẩy phát
triển về cả thể chất lẫn tâm lí của trẻ, bước đầu hình thành những yếu tố đầu
tiên của nhân cách con người.
1.1.4. Vài nét về đặc điểm sinh lí của trẻ mầm non
Từ lúc trẻ sinh ra, lớn lên và được phát triển không ngừng, cấu tạo của
các cơ quan đều được phát triển nhanh chóng nhưng không phải luôn luôn
giống nhau về mức độ phát triển. Quá trình này có sự tác động sâu sắc đến tất
cả các cơ quan của cơ thể kể cả tâm lí. Vì vậy tính thích nghi và khả năng
hoạt động khác của trẻ dễ bị thay đổi dưới những tác động khác nhau.
1.1.4.1. Hệ thần kinh
Các nhà sinh lí và giải phẫu học chứng minh cơ sở vật chất của đời
sống trẻ phụ thuộc vào bộ não và hoạt động thần kinh cao cấp. Cho đến lúc ra
đời, não bộ của trẻ chưa phát triển đầy đủ, dù hình thái và cấu tạo giải phẫu
không khác với não người lớn là mấy.

19


Trẻ sơ sinh não bộ có kích thước nhỏ, trọng lượng


370 - 392g (1/8 -

1/9) trọng lượng cơ thể. 9 năm đầu trọng lượng não tăng lên mạnh mẽ (6
tháng tăng gấp đôi lúc mới sinh, 3 tháng tăng gấp 3 lần). Não của trẻ có 1000
tỉ tế bào và vỏ não cũng có 6 lớp nhưng các tế bào thần kinh vỏ não chưa
được biệt hóa hoàn toàn. Khi 3 tuổi đã có các tế bào thần kinh đã biệt hóa.
Trẻ mới sinh các sợi dây thần kinh chưa được mielin hóa. Đến tháng
thứ 3 các dây thần kinh sọ não có vỏ mielin. Quá trình mielin hóa được hoàn
thiện dần khi trẻ được 2 tuổi. Quá trình này có ý nghĩa lớn vì nó góp phần làm
cho hưng phấn được truyền một cách riêng biệt theo sợi dây thần kinh, giúp
trẻ thể hiện năng lực trí tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, qua quan sát,
chú ý, suy nghĩ…
Trẻ từ 4 - 6 tuổi quá trình ức chế tích cực dần dần phát triển, trẻ đã có
khả năng phân tích, đánh giá, hình thành kĩ năng, kĩ xảo vận động và phân
biệt được các hiện tượng xunh quanh. Hệ thần kinh có một tác dụng chi phối
và điều tiết đối với vận động cơ thể cải thiện tính không cân bằng của quá
trình thần kinh. Cần chú ý tới sự luân phiên giữa động và tĩnh trong quá trình
vận động của trẻ.
1.1.4.2. Hệ vận động
Bao gồm hệ xương, cơ và khớp.
Quá trình phát triển hệ cơ xương diễn ra mạnh, xương vẫn còn tính chất
đàn hồi, xương sống và các xương khác vẫn còn mềm và yếu vì trong đó còn
chứa nhiều tính chất sụn. Thành phần hóa học của trẻ còn chứa nhiều nước và
chất hữu cơ hơn chất vô cơ so với người lớn nên dễ cong và gãy. Cấu tạo
xương chưa kết thúc ở nhiều xương mặc dù sự cung cấp máu của trẻ tốt hơn
người lớn.

20



Các khớp xương trẻ rất linh hoạt, dây chằng dễ bị giãn, các gân còn
yếu. Các khớp còn nông, cơ bắp xung quanh khớp còn mềm yếu, dây chằng
lỏng lẻo, tính vững chắc của khớp tương đối kém.
Hệ cơ của trẻ phát triển yếu, tổ chức cơ bắp còn ít, các sợi cơ nhỏ,
mảnh, thành phần nước trong cơ tương đối nhiều nên sức mạnh cơ bắp còn
yếu, cơ nhanh mệt mỏi.
1.1.4.3. Hệ tuần hoàn
Hệ tim mạch của trẻ bắt đầu hoạt động sớm hơn các hệ khác và các
mạch máu của trẻ rộng hơn so với người lớn (về tỉ lệ) nên áp lực của máu vào
mạch yếu, để bù vào đó tần số co bóp của tim lại nhanh. Tim trẻ 5 tuổi nặng
gấp 4 - 5 lần trẻ sơ sinh. Hệ thống điều khiển hoạt động của tim vẫn tiếp tục
phát triển mạnh, mạch đập có chậm hơn trẻ 1 - 2 tuổi nhưng vẫn còn nhanh
hơn người lớn rất nhiều. Mạch đập của trẻ 3 - 4 tuổi là 100 - 110 lần/phút, trẻ
5 - 6 tuổi là 90 - 100 lần/phút. Huyết áp tăng, số lượng hồng cầu trong máu
tăng, tỉ lệ huyết sắc tố trong máu tăng rõ nét. Sự điều hòa thần kinh tim chưa
hoàn thiện nên nhịp co bóp dễ mất ổn định và cơ tim rất nhanh mệt mỏi. Tuy
vậy, khi thay đổi hoạt động theo xu hướng giảm dần thì tim trẻ lại phục hồi
rất nhanh.
1.1.4.4. Hệ hô hấp
Đường hô hấp của trẻ em tương đối hẹp, niêm mạc đường hô hấp mềm
mại, mao mạch phong phú dễ phát sinh miễn cảm. Khí quản của trẻ nhỏ,
không khí đưa vào ít, trẻ thở nông nên khả năng trao đổi không khí phổi kém.
Bộ máy hô hấp của trẻ còn nhỏ, không chịu được những vận động quá sức
kéo dài liên tục. Tần số hô hấp của trẻ ở lứa tuổi này thường là 20 - 26
lần/phút.
1.1.5. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.1.5.1. Khái quát các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ em

21



Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em được các nhà tâm lí - ngôn ngữ học
nhìn nhận từ góc độ khác nhau. L.S.Vưgôtxky xuất phát từ mục đích mà nhìn
nhận: “Bản chất sự phát triển ngôn ngữ của trẻ không chỉ thuần túy dựa trên
sự phát triển khả năng nhận thức của trẻ”. Nhấn mạnh vai trò giao tiếp của
ngôn ngữ, A.A.Leonchiep lại cho rằng: “Sự phát triển lời nói (ngôn ngữ) của
trẻ em trước hết là sự phát triển của phương thức giao tiếp”. Nguyễn Huy
Cẩn và K.Hainodich đều thống nhất với nhau khi cho rằng, sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ ở các giai đoạn từ thấp đến cao phù hợp với các giai đoạn nhất
định của lứa tuổi, có thể thấy được nguồn gốc của sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với những giai đoạn mang những đặc
trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ. Ở mỗi giai đoạn có sự kế thừa
và phát triển những thành tựu của giai đoạn trước.
Các nhà ngôn ngữ học đều thống nhất với nhau chia sự phát triển ngôn
ngữ ở trẻ em thành hai giai đoạn: giai đoạn tiền ngôn ngữ và giai đoạn ngôn
ngữ chính thức.
a. Giai đoạn tiền ngôn ngữ
Đây là thời kì đầu tiên trong quá trình học nói của trẻ. Mặc dù trẻ chưa
có các từ, chưa hiểu cách sử dụng các quy tắc ngữ pháp nhưng trẻ đã bắt đầu
bước vào giao tiếp. Các nhà tâm lí học cho rằng thời kì tiền ngôn ngữ này là
chung cho tất cả các ngôn ngữ và thời kì bập bẹ của trẻ em trên toàn thế giới
là như nhau. Điều này chứng tỏ rằng, chúng ta được sinh ra đã có sẵn bản
năng giai tiếp. Giai đoạn lưu cảm chiếm vai trò chủ đạo, trẻ sử dụng các âm
bập bẹ, các cử chỉ, thái độ để giai tiếp với người lớn.
9 - 10 tháng tuổi trẻ có thể phát âm một số từ đơn giản: mỗi lần mẹ cho
ăn, mẹ bảo “a” thì mẹ cho ăn. Cứ lặp lại như vậy nhiều lần, sau một thời gian
khi trẻ muốn được ăn trẻ nói “a”, ý nói “cho con ăn đi” hoặc muốn đi chơi trẻ
sẽ bập bẹ “đi đi”…


22


b. Giai đoạn ngôn ngữ
Bắt đầu từ 12 tháng trở đi sẽ xuất hiện những âm bập bẹ có nghĩa đầu
tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người lớn. Các âm
bập bẹ nhanh chóng mất đi nhường chỗ cho các từ tham gia vào cấu trúc câu
sử dụng trong giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các kiểu câu đơn giản
thường 2 - 3 từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tăng lên. Trẻ tích cực
trong giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu, kĩ năng giao tiếp
tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp ngôn ngữ kết quả là các kĩ năng giao
tiếp ngôn ngữ được hình thành.
Thời kì ngôn ngữ
12 - 18 tháng * Những từ đầu tiên xuất hiện trong vòng khoảng 12 tháng;
tuy nhiên chỉ có những người gần gũi chăm sóc trẻ mới có
thể hiểu được chúng. Ví dụ: de de (đòi uống nước).
* Các từ được sử dụng thường nhiều nghĩa hơn tùy thuộc
vào ngữ điệu mà trẻ sử dụng khi nói. Ví dụ: de de có thể có
nghĩa là: Tôi muốn uống nước, tôi uống nước xong rồi, tôi
muốn uống nước nữa…(các nhà ngôn ngữ học gọi những từ
kiểu này là Holophrase - câu đa nghĩa).
* Vào khoảng 15 tháng trẻ em sẽ có khoảng 10 từ và những
người chăm sóc trể mới có thể hiểu được những từ này.
18 - 24 tháng

* Hai từ được nối với nhau. Ví dụ: ma măm, dì, bà…
* Những bài đối thoại ngắn xuất hiện, trẻ thường chú ý đến
những từ chính, câu thường sai ngữ pháp.
* Vốn từ vựng của trẻ tăng lên. Trẻ đọc được khoảng 10 30 từ trong 1 tháng.
* Đến 2 tuổi, hầu hết các trẻ có khoảng 200 từ.


23


2 - 3 tuổi

* Trẻ học từ mới rất nhanh.
* Sử dụng các từ số nhiều. Ví dụ: Những con mèo
* Trẻ thường mắc các lỗi về cấu tạo từ.
Ví dụ: Ngủ cả rồi ạ !
* Bắt đầu biết dùng phủ định.
Ví dụ: Không có con mèo nào cả.

3 - 4 tuổi

* Biết bắt chước lời nói của người lớn một cách chính xác.
Ví dụ : Chúng mình thích cái đó, có phải không nhỉ.
* Người lạ cũng có thể hiểu được lời nói của trẻ.
* Các câu có hơn 4 từ; trẻ nói đúng ngữ pháp.
* Vốn từ vựng tăng lên; trẻ nhận biết được tên các bộ phận
của cơ thể, tên các đồ vật, các vật nuôi trong nhà.
* Trẻ vẫn tiếp tục mắc các lỗi ngữ pháp.
* Nhận biết và hiểu được các bài hát, bài thơ dành cho lứa
tuổi các em.
* Tham gia đặt câu hỏi.

4 - 8 tuổi

* Từ 4 tuổi trở đi, trẻ em đã phát triển và thành thục với
ngôn ngữ hơn, các lỗi đã giảm nhiều và trẻ bắt đầu tham gia

vào cuộc sống xã hội và giao tiếp với người khác; thể hiện
nhu cầu của trẻ và thuật lại những trải nghiệm của chúng.
* Đến 5 tuổi, từ vựng của trẻ có khoảng 5000 từ.
* Trẻ biết nói đúng những câu phức hợp.
* Thích tham gia kể và nghe chuyện.
* Trẻ hiểu rằng ngôn ngữ có thể được viết dưới dạng các
biểu tượng.
* Đến 8 tuổi; hầu hết các trẻ em đều đã nói thành thạo và
biết cách viết ngôn ngữ của chúng.

24


(Theo Penny & Kate Beith trong cuốn “Nursery Nursing”)
Trên đây là bảng khái quát các bước chung ngôn ngữ trẻ em thời kì
ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi xin được đi sâu
hơn vào đặc điểm sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo.
1.1.5.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo
a. Khái niệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
U.Sinxki đã khẳng định: “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển,
là vốn quý của mọi tri thức”. Từ đó, có thể thấy rằng ngôn ngữ có vai trò rất
to lớn trong cuộc sông của con người. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp,
đồng thời cũng là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể trao
đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm hay tâm sự
với nhau những nỗi niềm thầm kín...
Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước, chúng ta càng
thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp
phần đào tạo các mầm non trở thành những con người phát triển toàn diện.
Về mặt trí tuệ: Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới
xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Chính vì

thế mà thông qua ngôn ngữ trẻ có thể nhận thức về thế giới xung quanh một
cách sâu rộng, rõ ràng, chính xác. Cho nên việc phát triển trí tuệ cho trẻ
không thể tách rời việc phát triển ngôn ngữ.
Về mặt đạo đức: Ngôn ngữ có vai trò không nhỏ trong việc giáo dục
đạo đức cho trẻ. Ngôn ngữ góp phần quan trọng trong việc trang bị cho trẻ dồi
dào những hiểu biết về nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ
những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
Về mặt thẩm mỹ: Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác
động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp

25


×