Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Thực trạng áp dụng hoạt động bao thanh toán tại các TCTD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.55 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt

i

Lời mở đầu

ii

Chương 1 : Những quy định của pháp luật về bao thanh toán.
1.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật quy định về Bao Thanh Toán. Trang
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán. Trang
a. Khái niệm bao thanh toán theo hiệp hội bao thanh toán quốc tế và công ước
quốc tế .Trang
b. Khái niệm bao thanh toán theo quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam.
Trang
1.1.2. Các loại hình bao thanh toán. Trang
1.1.3. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán. Trang
1.1.4. Đối tượng của quan hệ bao thanh toán.Trang
1.1.5. Các khoản phải thu không được bao thanh toán.Trang
1.1.6. Điều kiện bảo đảm an toàn trong hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng.Trang
1.2. So sánh hoạt động bao thanh toán và hoạt động tín dụng truyền thống, lợi ích
của hoạt động bao thanh toán đối với các chủ thể tham gia hoạt động này.Trang
1.2.1. So sánh hoạt động bao thanh toán và hoạt động tín dụng thông thường.Trang
1.2.2. Lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động bao thanh toán.Trang
Chương 2 : Thực trạng áp dụng hoạt động bao thanh toán tại các TCTD
Trang
2.1. Cơ sở lý luận và pháp lý để thực hiện hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam.
Trang
2.1.1. Nhu cầu phát triển sản phẩm của các TCTD trong nền kinh tế thị trường.


Trang
2.1.2. Quy chế bao thanh toán của Ngân Hàng Nhà Nước. Trang

1


2.2. Thực trạng áp dụng hoạt động bao thanh toán tại các TCTD đang được phép
hoạt động tại Việt Nam. Trang
2.2.1. Việc triển khai hoạt động bao thanh toán tại các TCTD theo quy định của
pháp luật. Trang
2.2.2. Tình hình thực hiện hoạt động bao thanh toán tại các TCTD. Trang
2.2.3. Những thành công và hạn chế khi thực hiện hoạt động bao thanh toán trên
thực tế. Trang
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về bao thanh toán,
nâng cao hiệu quả của hoạt động bao thanh toán tại các TCTD. Trang

2


LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường Tài chính - Ngân Hàng tại Việt Nam mở rộng và được quy định
bằng Luật các tổ chức tín dụng vào thập niên 90 của thế kỷ 20. Và thực sự khởi
sắc từ những năm 2000 trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay các tổ chức tài chính
mặc dù cố gắng đa dạng hóa các dịch vụ tài chính nhưng đa phần vẫn chú trọng
phát triển chính các sản phẩm truyền thống làm cho các công cụ tài chính khá
nghèo nàn, sản phẩm tài chính khó cạnh tranh với các Chi Nhánh Ngân Hàng nước
ngoài đang hoạt động trong nước.
Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã Hội Chủ Nghiã đang dần dần được hình thành và phát huy
tính tích cực của nó. Trong xu thế đó, sự phát triển mạnh của thị trường tài chính

nói chung và các công cụ tài chính nói riêng là một sự tất yếu. Với việc sử dụng
các công cụ tài chính sẽ giúp ích rất nhiều cho các cá nhân ,doanh nghiệp cũng
như các tổ chức tài chính trong quá trình hoạt động. Qua đó các tổ chức tài chính
đặc biệt là các Ngân Hàng Thương Mại đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ nhằm
tăng vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường, khẳng định thương hiệu của mình
trong ngành Tài chính- Ngân Hàng trong nước.
Các công cụ tài chính được phép thực hiện ở Việt Nam ngày càng được mở rộng ,
đã và đang chứng minh vai trò của mình trong việc phát triển thị trường tài chính
nước nhà.Trong các công cụ tài chính đa dạng của các tổ chức tài chính. Trong
phạm vi nghiên cứu, chuyên đề chỉ đề cập đến những quy định của pháp luật về
bao thanh toán, tình hình triển khai thực hiện nghiệp vụ này tại các Tổ chức tài
chính đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, đề xuất các biện pháp để hoàn thiện
quy định về nghiệp vụ này.
Vì điều kiện cho phép, thời gian nghiên cứu còn hạn chế và nguồn thông tin
có giới hạn cho nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.

3


Kính mong nhận được sự góp ý quý báu từ Giáo viên.
CHƯƠNG 1 : NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BAO THANH
TOÁN.
1.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật quy định về Bao Thanh Toán.
1.1.1. Khái niệm bao thanh toán.
a. Khái niệm bao thanh toán theo hiệp hội bao thanh toán quốc tế và công ước
quốc tế .
- Theo hiệp hội Bao Thanh Toán Quốc Tế (FCI), bao thanh toán là một dịch
vụ tài chính trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín
dụng, theo dõi công nợ và thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh
toán và người bán, thường là không truy đòi, đồng thời có trách nhiệm đảm bảo

khả năng chi trả của người mua. Nếu người mua mất khả năng chi trả vì những lý
do tín dụng thì đơn vị bao thanh toán sẽ thay người mua trả tiền cho người bán.
Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này goi là bao
thanh toán quốc tế.
- Theo điều 1 những quy định chung về hoạt động bao thanh toán quốc tế ấn
bản tháng 06 năm 2004 của FCI ( General Rule for International Factoring
Version FCI June 2004), hợp đồng bao thanh toán là một hợp đồng theo đó nhà
cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải
thu) cho một đơn vị bao thanh toán, có thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để
thực hiện ít nhất một trong các chức năng sau : kế toán sổ sách các khoản phải thu,
thu nợ các khoản phải thu, phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Điều 2, chương I Công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế
(UNIDROIT Convention on International Factoring) còn bổ sung thêm một chức
năng của bao thanh toán đó là tài trợ cho người bán, bao gồm việc cho vay lẫn
việc ứng tiền thanh toán trước.
b. Khái niệm bao thanh toán theo quy định của pháp luật hiện hành tại Việt
Nam.
4


Theo Quyết định số 1096/2004/ QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Thống
đốc NHNN. Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp
đồng mua, bán hàng.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà làm luật thì hoạt động bao thanh toán
tại Việt Nam có một số đặc điểm như sau :
Một là, bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng ngắn hạn của các tổ
chức tín dụng. Theo đó, hoạt động bao thanh toán phải gắn trực tiếp với chức năng
tài trợ tín dụng, các nghiệp vụ quản lý sổ sách, quản lý thu nợ không được coi là

một chức năng độc lập trong hoạt động bao thanh toán; tổ chức thực hiện bao
thanh toán phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục và các mức hạn chế về bảo đảm an
toàn theo quy định của Luật các TCTD.
Hai là, Hoạt động bao thanh toán dựa trên quan hệ về quyền mua bán
quyền tài sản là quyền đòi nợ, quyền đòi nợ là một loại tài sản được xác định từ
một giao dịch thương mại cụ thể nên khi thực hiện bao thanh toán, đơn vị bao
thanh toán phải tiến hành phân tích toàn diện và trực tiếp các giao dịch làm phát
sinh các khoản phải thu , tình hình tài chính và hoạt động của bên bán và bên mua
hàng, và bên bán hàng phải chuyển giao toàn bộ và giất tờ liên quan đến giao
dịch mua, bán để xác lập và chuyển quyền đòi nợ cho bên bao thanh toán.

1.1.2. Các loại hình bao thanh toán.
a. Căn cứ vào loại hình bao thanh toán: có 2 loại
+ Bao thanh toán trong nước: là hình thức cấp tín dụng của một ngân
hàng thương mại hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông
qua việc mua lại các khoản thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được bên

5


bán hàng và bên mua hàng hóa thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa,
trong đó, bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc
gia.
+ Bao thanh toán xuất nhập khẩu: là hình thức cấp tín dụng của ngân
hàng thương mại hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông
qua việc mua lại cá khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã được
bên bán hàng và bên mua hàng hóa thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa,
mà việc mua bán hàng hóa vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
b. Căn cứ vào tính chất có truy đòi hay không truy đòi.
+ Bao thanh toán có quyền truy đòi: là hình thức bao thanh toán mà đơn

vị thực hiện bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán
hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các
khoản phải thu.
+ Bao thanh toán không truy đòi: là hình thức bao thanh toán mà đơn vị
thực hiện bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có
quyền đòi lại số tiền ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng
từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng hợp
đồng hay một lý do nào khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên
mua hàng.
c. Căn cứ vào phương thức bao thanh toán.
+ Phương thức bao thanh toán từng lần: là phương thức bao thanh toán
mà tương ứng với từng lần thực hiện mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên
mua hàng theo những thỏa thuận trong hợp đồng mua bán, đơn vị thực hiện bao
thanh toán sẽ ứng trước một số tiền tạm ứng căn cứ trên giá trị giao dịch của lần
mua bán hàng hóa đó.

6


+ Phương thức bao thanh toán hạn mức: là hình thức bao thanh toán mà
đơn vị thực hiện bao thanh toán sẽ xem xét cấp một hạn mức bao thanh toán tối đa
cho bên bán hàng. Căn cứ vào việc giao dịch mua bán hàng hóa được thực hiện
bên bán và bên mua mà đơn vị thực hiện bao thanh toán sẽ ứng trước một số tiền
tạm ứng căn cứ trên giao dịch, miễm là tổng số tiền ứng trước tại một thời điểm
không vượt quá hạn mức bao thanh toán đã được cấp.
+ Đồng bao thanh toán: là phương thức bao thanh toán mà các đơn vị bao
thanh toán phải liên kết với nhau để thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng do
số tiền ứng trước cho bên bán hàng lớn hơn tỷ lệ an toàn trên vốn điều lệ hoạt
động của đơn vị bao thanh toán đó theo quy định của pháp luật.

d. Căn cứ vào cách thức thực hiện.
+ Phương thức thực hiện truyền thống (factoring): Bên bán và bên mua
sẽ liên hệ với đơn vị bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị bao thanh toán có
mua lại các khoản phải thu cho bên bán hay không trước khi thực hiện mua bán
theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
+ Phương thức thực hiện phi truyền thống (reverse factoring): đơn vị
bao thanh toán sẽ tiền hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên
bán đủ điều kiện thực hiện bao thanh toán sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả
bên bán và bên mua. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua
và bên bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiền hành thực hiện bao
thanh toán, miễn là tổng số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán
đã được cấp cho bên mua hay bên bán.
1.1.3. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán.
- Bên bao thanh toán
Bên bao thanh toán là tổ chức tín dụng được cấp phép để tiến hành cấp tín dụng
cho khách hàng của mình dưới hình thức mua lại các khoản phải thu thương mại.
7


Pháp luật hiện hành quy định về bên bao thanh toán như sau:
Thứ nhất, loại hình tổ chức tín dụng được quyền thực hiện hoạt động bao thanh
toán là: NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, NH liên doanh, NH 100% vốn nước ngoài,
chi nhánh NH nước ngoài, công ty tài chính mới được quyền thực hiện hành vi bao thanh
toán. Trên thế giới, do không bị hạn chế bởi quan niệm bao thanh toán là cấp tín dụng nên
hình thức pháp lý của bên bao thanh toán rất đa dạng. Thực tế, bên bao thanh toán có thể
được tổ chức như là một bộ phận trong NH hoặc doanh nghiệp độc lập chỉ hoạt động
trong lĩnh vực bao thanh toán hoặc cho phép các tổ chức tài chính có thể thực hiện kết
hợp hoạt động bao thanh toán với các sản phẩm tài chính khác như cho thuê tài chính.
Thứ hai, bên bao thanh toán phải được NHNN Việt Nam cho phép thực hiện hoạt
động bao thanh toán. Về bản chất pháp lý, nghiệp vụ bao thanh toán là một nghiệp vụ

kinh doanh có điều kiện. Các điều kiện mà tổ chức bao thanh toán cần phải đáp ứng được
bao gồm: điều kiện về thị trường được thể hiện bởi việc xác định nhu cầu về hoạt động
bao thanh toán; điều kiện về hiệu quả tín dụng thể hiện bằng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư
nợ cho vay tại thời điểm cuối tháng của 3 tháng gần nhất dưới 5%; điều kiện về tuân thủ
pháp luật thể hiện ở việc không vi phạm các quy định về an toàn hoạt động NH, không có
hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài chính NH; điều kiện về ngoại hối trong trường hợp
tiến hành hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu. Trong pháp luật về bao thanh toán
của nhiều nước, vấn đề điều kiện gia nhập thị trường bao thanh toán và thủ tục xin phép
không được đặt ra. Các tổ chức muốn hoạt động bao thanh toán chỉ cần làm thủ tục thông
báo cho cơ quan có thẩm quyền là đủ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ và Canada, tổ chức bao thanh
toán là NH hoặc do NH thành lập chỉ phải làm thủ tục thông báo, tương ứng cho cục dữ
liệu Liên Bang và Bộ Tài chính Liên Bang.
Thứ ba, bên bao thanh toán phải tuân thủ các nguyên tắc để đảm bảo an toàn hoạt
động cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán. Về khía cạnh giới hạn hoạt động, tổ
chức bao thanh toán, duy trì tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không vượt
quá 15% vốn tự có và tổng số dư bao thanh toán không vượt quá vốn tự có của tổ chức
bao thanh toán. Về khía cạnh bảo đảm, tổ chức bao thanh toán có thể thoả thuận với

8


khách hàng để áp dụng các biện pháp bảo đảm sau đây: ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản,
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba và các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trong trường hợp nhu cấu bao thanh toán của khách hàng vượt quá các tỷ lệ an
toàn, tổ chức bao thanh toán có thể thực hiện việc cấp tín dụng bao thanh toán theo
phương thức đồng tài trợ.
- Bên được bao thanh toán
Bên được bao thanh toán là bên bán hàng có các khoản phải thu phát sinh và được
thoả thuận theo hợp đồng mua, bán hàng hoá với bên mua.
Pháp luật hiện hành quy định về bên được bao thanh toán như sau:

Thứ nhất, về tư cách pháp lý của bên được bao thanh toán, chỉ có các tổ chức kinh
tế Việt Nam và tổ chức kinh tế nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ hưởng các
khoản phải thu mới có thể trở thành bên được bao thanh toán. Ý nghĩa của quy định này
là nhằm xác lập tính chất thương mại của các khoản phải thu là đối tượng của hoạt động
bao thanh toán. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào hình thức của bao thanh toán, tư cách pháp lý
của bao thanh toán cũng xác định gắn với các tiêu chí pháp lý nhất định. Ví dụ: trong bao
thanh toán trong nước, tổ chức kinh tế được bao thanh toán được xác định gắn với tiêu
chí là người cư trú theo quy định về quản lý ngoại hối.

Thứ hai, về quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng các khoản phải thu của bên
được bao thanh toán, pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp nào đề cập đến vấn
đề này, tuy nhiên, căn cứ vào quy định về khái niện bao thanh toán và quy định về quyền,
nghĩa vụ của bên được bao thanh toán có thể rút ra một số khía cạnh pháp lý sau: Một là,
bên được bao thanh toán phải là bên bán hàng trong hợp đồng mua, bán hàng hoá; Hai là,
bên được bao thanh toán phải là chủ sở hữu hợp pháp của các khoản phải thu này, không
bị giói hạn bởi hợp đồng mua, bán hàng hoá cũng như bởi pháp luật; Ba là, bên được bao
thanh toán chưa chuyển nhượng các khoản phải thu này cho bất kỳ ai trước đó.

1.1.4. Đối tượng của quan hệ bao thanh toán.

9


− Dưới góc độ pháp lý, đối tượng của quan hệ bao thanh toán là các khoán phải
thu thương mại. Khoản phải thu được xác định là khoản tiền bên bán hàng
được phép thu từ hợp đồng mua, bán nhưng người mua chưa đến hạn phải thực
hiện nghĩa vụ thanh tóan. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các khỏan
phải thu là đối tượng được điều chỉnh phải có những tình chất sau (các khỏan
phải thu phải không nằm trong đối tượng bị cấm bao thanh tóan theo quy định
tại Điều 19 của Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN) :

Một là , về tính chất thương mại của các khỏan phải thu thì khỏan phải thu
được bao thanh tóan phải phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa và đã được
các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Do đó, các khỏan phải thu gắn liền
với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa, trong đó nghĩa vụ giao hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa của
bên bán cho bên mua có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hệ quả là khi vi phạm nghĩa
vụ này, bên bán sẽ gánh chịu trách nhiệm bồi hòan các khỏan phải thu đã được bao
thanh tóan (ngay cả trong trường hợp bao thanh tóan không có truy đòi), tương tự
bên mua hàng có khả năng từ chối thanh toán cho tổ chức bao thanh tóan.
Hai là, về tính thời hạn của các khỏan phải thu, do mục đích của quan hệ
bao thanh toán là một hình thức tài trợ vốn lưu động cho bên được bao thanh tóan.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có các khỏan phải thu có thời hạn
còn lại dưới 180 ngày mới đủ điều kiện là đối tượng bao thanh toán. Ngoài ra, các
khỏan phải thu đã quá hạn thanh tóan theo hợp đồng mua bán hàng hóa cũng
không thuộc đối tượng được bao thanh tóan.
Ba là, về tính hợp pháp của các khỏan phải thu,các khỏan phải thu phải
xuất phát từ những giao dịch mua bán hàng hóa hợp pháp. Đặc tính này bảo đảm
rằng, việc chuyển nhượng các khỏan phải thu là có căn cứ pháp luật, hạn chế
những rủi ro liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng mua bán và thanh tóan.
1


Theo đó, các khỏan phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị pháp luật
cấm hoặc từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp hoặc giao dịch đang có tranh
chấp sẽ không thuộc đối tượng được bao thanh toán.
Bốn là, về tính độc lập của các khỏan phải thu, do quyền lợi của bên bao
thanh tóan chỉ có thể được bảo đảm bởi nghĩa vụ thanh toán của người mua hàng,
nên thông thường bên bao thanh toán được xác lập quyền Ưu tiên trong việc thu
nhận các khỏan phải thu. Để thực hiện mục đích này , pháp luật nước ta quy định
hai điều kiện: các khỏan phải thu không thuộc đối tượng của bất kỳ giao dịch nào

khác; và, các khỏan phải thu phải được xác định chắc chắn tại thời điểm hợp đồng
bao thanh tóan được ký kết. Như vậy, các khỏan phải thu đã được gán nợ, cầm cố,
thế chấp hoặc các khỏan phải thu phát sinh từ các quan hệ ký gửi sẽ không thuộc
đối tượng được bao thanh tóan.
1.1.5. Các khoản phải thu không được bao thanh toán.
Cơ sở để áp dụng sản phẩm bao thanh toán là các khoản phải thu. Tuy
nhiên không phải khoản thu nào cũng được bao thanh toán. Điều kiện cơ bản
để các khoản phải thu được bao thanh toán là những khoản phải thu phải hợp
pháp, hợp lệ, minh bạch và không nằm trong các trường hợp sau (hạn chế rủi
ro cho những đơn vị bao thanh toán):
 Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị pháp luật cấm
 Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp
 Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp
 Phát sinh từ các hợp đồng mua bán dưới hình thức ký gởi. Tức là hình thức
người mua không phải trả tiền hàng cho đến khi hàng hóa được bán đi. Nếu
sau thời gian hợp lý mà hàng chưa bán được, người mua hoàn lại hàng cho
người bán.

1


 Các khoản phải thu đã được gán nợ hay cầm cố, thế chấp.
 Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng
hóa.
 Các khoản phải thu phát sinh quá trình lắp đặt thiết bị sản xuất. Quá trình
lắp đặt thiết bị sản xuất luôn đòi hỏi cần có quá trình chạy thử vào bảo hành
theo thời gian. Nếu như trong quá trình bảo hành, phát sinh những vấn đề
về máy móc thiết bị thì người mua có quyền không thanh toán phần còn lại
của hợp đồng.
 Các khoản phải thu được thanh toán theo tiến độ và giữ lại một phần tiền

ngành xây dựng: Người mua có quyền giữ lại một phần tiền cho đến khi
kết thúc thời gian hợp đồng. Trong trường hợp có sự cố phát sinh, người
mua sẽ khấu trừ phần giá trị giữa lại và các chi phí phát sinh thêm vào các
hóa đơn chưa thanh toán.
1.1.6. Điều kiện bảo đảm an toàn trong hoạt động bao thanh toán của các tổ
chức tín dụng.
- Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thoả thuận áp dụng hoặc không
áp dụng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động bao thanh toán. Các hình thức bảo
đảm bao gồm: ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ
ba và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
- Hoạt động bao thanh toán phải bảo đảm các quy định về an toàn tại Luật
các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, theo đó
các tổ chức tài chính phải bảo đảm các tỷ lệ về khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài
hạn…
- Tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Đối với chi nhánh ngân hàng nước

1


ngoài, tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
- Số dư các khoản phải thu mà đơn vị bao thanh toán nhập khẩu bảo lãnh
thanh toán cho 01 bên nhập khẩu phải nằm trong giới hạn tổng số dư bảo lãnh của
tổ chức tín dụng cho 01 khách hàng theo quy định tại Quy chế Bảo lãnh ngân
hàng, hiện nay là 15%.
- Trường hợp nhu cầu bao thanh toán của một khách hàng vượt quá 15%
vốn tự có của đơn vị bao thanh toán thì các đơn vị bao thanh toán được thực hiện
đồng bao thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

- Tổng số dư bao thanh toán không được vượt quá vốn tự có của đơn vị bao thanh
toán.
1.2. So sánh hoạt động bao thanh toán và hoạt động tín dụng truyền thống,
lợi ích của hoạt động bao thanh toán đối với các chủ thể tham gia hoạt động
này.
1.2.1. So sánh hoạt động bao thanh toán và hoạt động tín dụng thông thường.
Nhìn chung, về cách thức thực hiện, đối tượng áp dụng và nguyên lý hoạt động
của 2 loại sản phẩm dịch vụ này có vẻ hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, khi xét
dưới nhiều khía cạnh mở rộng thì hai sản phẩm này hoàn toàn khác nhau.
- Giống nhau:
Thứ nhất, cả hai sản phẩm đều cung cấp vốn lưu động cho bên bán dựa trên
các khoản phải thu. Khoản phải thu là yếu tố cốt lõi để ngân hàng quyết định có tài
trợ hay không tài trợ vốn cho bên bán. Khoản phải thu này phải hợp pháp, tức là
những khoản mua bán phải minh bạch, để hạn chế rủi ro, ngân hàng thường từ
chối tài trợ cho các khoản phải thu thiếu minh bạch. Cung cầu vốn trở nên xa vời
do sự thông tin tưởng lẫn nhau giữa nguồn cung và nguồn cầu về vốn.

1


Khi áp dụng sản phẩm bao thanh toán hay sản phẩm cho vay thế chấp bằng
tài sản có, thì vấn đề này được hạn chế triệt để. Đối với sản phẩm bao thanh toán
đơn vị thực hiện bao thanh toán không cần nhất thiết phải quan tâm đến toàn bộ
hoạt động của bên bán, bên mua mà chỉ cần quan tâm tới tính minh bạch, hợp
pháp của lần giao dịch mua bán cần được bao thanh toán, và khả năng thanh toán
của bên mua trong lần giao dịch này như thế nào mà thôi.
Đối với sản phẩm cho vay thế chấp bằng tài sản có, ngân hàng bắt buộc
phải theo dõi hoạt động kinh doanh của bên mua, bên bán có minh bạch và hợp
pháp hay không. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ phần nào hạn chế được rủi ro khi nhận
tài sản có của bên vay làm tài sản đảm bảo. Trong trường hợp xấu nhất, thông qua

các biện pháp đảm bảo tiền vay như công chứng đăng ký… ngân hàng có thể xử lý
tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay của ngân hàng.
Do đó, khi áp dụng sản phẩm bao thanh toán hay cho vay thế chấp bằng tài
sản có, ngân hàng “sẽ mạnh tay hơn” trong việc ra quyết định cấp tín dụng hay
không.
- Khác nhau:
Bên cạnh những điểm giống nhau giữa sản phẩm bao thanh toán và sản
phẩm cho vay thế chấp bằng tài sản có, giữa hai loại sản phẩm này có khá nhiều
điểm khác nhau tuỳ theo khía cạnh phân tích và nhận xét.
Nhìn chung, vấn đề khác biệt giữa hai sản phẩm này được thể hiện ở những điểm
sau:
Thứ nhất, khi áp dụng sản phẩm bao thanh toán, quyền sở hữu các khoản
phải thu được chuyển hoàn toàn cho đơn vị bao thanh toán. Điều này đồng nghĩa
bên bán không còn quyền quyết định đối với khoản phải thu đó nữa. Đơn vị bao
thanh toán sẽ trực tiếp theo dõi khoản phải thu, đôn đốc thu hồi nợ nhằm thu hồi
số tiền đã ứng trước cho bên bán, thu phí dịch vụ và lãi suất mong đợi.

1


Ngược lại, khi áp dụng sản phẩm cho vay thế chấp bằng tài sản có, bên bán
không chuyển quyền sở hữu khoản phải thu cho ngân hàng. Lúc này, ngân hàng
cũng chỉ đóng vai trò là người cấp tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo (không phải
là khoản phải thu). Bên bán vẫn phải có trách nhiệm theo dõi công nợ, đôn đốc và
thu hồi các khoản phải thu khi đến hạn và hoàn trả vốn vay cho ngân hàng hoặc
ngân hàng áp dụng các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo nhằm thu hồi vốn.
Cụ thể cho sự khác biệt này, là ngoài lãi suất như thường lệ. Sản phẩm bao
thanh toán yêu cầu bên bán phải nộp thêm một khoản phí trong khi cho vay bằng
thế chấp tài sản lại không. Nguyên nhân chính cho khoản phí có thêm đơn vị được
bao thanh toán và chấp nhận rủi ro cao hơn so với sản phẩm cho vay thế chấp bằng

tài sản có.
Thứ hai, “tài sản đảm bảo” trong sản phẩm bao thanh toán chỉ có thể là
khoản phải thu mà thôi. Trong khi đó sản phẩm cho vay thế chấp bằng tài sản có
lại tài trợ cho hàng hoá và thiết bị, có nghĩa là “tài sản đảm bảo” trong hình thức
này được mở rộng hơn so với sản phẩm bao thanh toán.
Thứ ba, so với sản phẩm cho vay bằng tài sản có, sản phẩm bao thanh toán
ngày càng phổ biến hơn và có nhiều tiềm năng hơn. Đặc biệt, với xu hướng bán
hàng trả chậm ngày càng phổ biến nên thị trường như hiện nay.
Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ ngân hàng và
nền kinh tế mỗi quốc gia.
Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển nền công nghệ ngân hàng
hiện đại, thì việc áp dụng sản phẩm bao thanh toán được áp dụng rộng rãi hơn so
với cho vay bằng tài sản có, bởi sự nhanh chóng tiện lợi, an toàn, đơn giản và các
đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát tốt các khoản phải thu.
Trong khi đó, tại những quốc gia có nền kinh tế phát triển chưa cao, trình
độ dịch vụ ngân hàng còn nhiều hạn chế và phương thức thanh toán vẫn còn dùng

1


tiền mặt là chủ yếu thì sản phẩm cho vay thế chấp bằng tài sản có lại được áp dụng
rộng rãi. Sản phẩm này có tính an toàn cao hơn, hạn chế được nhiều rủi ro cho
ngân hàng, tuy nhiên sản phẩm lại mang tính rườm rà chậm chạp.
Chính vì vậy, đứng trước sự phát triển của xã hội, nền kinh tế các nước
cũng bắt đầu phát triển nhanh, trình độ dịch vụ ngân hàng phát triển nhanh sẽ
khiến sản phẩm bao thanh toán phát triển mạnh mẽ và sản phẩm cho vay thế chấp
bằng tài sản có sẽ được dung hòa hơn, bảo đảm cho nền kinh tế được vận hành
hiệu quả.
1.2.2. Lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động bao thanh toán.
Qua lịch sử phát triển hàng trăm năm của sản phẩm bao thanh toán, các nhà

phân tích đều nhận định rằng đây một sản phẩm có nhiều ích lợi cho đơn vị bao
thanh toán, đơn vị được bao thanh toán và cả những quốc gia có sản phẩm dịch vụ
bao thanh toán được thực hiện.
- Đối với đơn vị bao thanh toán.
Đầu tiên, các khoản tiền thu được từ việc thực hiện sản phẩm bao thanh
toán (lãi suất, phí…) là một phần quan trọng giúp doanh thu hoạt động hàng năm
của đơn vị thực hiện bao thanh toán tăng lên nhanh chóng. Trên cơ sở đó, các quỹ
trích lập được gia tăng và nguồn vốn hoạt động của đơn vị bao thanh toán ngày
càng được mở rộng. Đây là một đều rất quan trọng.
Hơn nữa, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán góp phần tạo nên sự đa dạng
hóa các sản phẩm dịch vụ cho các đơn vị bao thanh toán (thông thường là các ngân
hàng thương mại, công ty tài chính..). Vì đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ đóng vai
trò rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Một ngân hàng càng có nhiều
sản phẩm dịch vụ thì không những có nhiều nguồn thu mà còn nâng cao hình ảnh
thương hiệu, tăng sức cạnh tranh của mình. Có thể nhận thấy rằng, hiện tại sản
phẩm bao thanh toná đã không đơn thuần là một sản phẩm dịch vụ tạo nguồn thu
cho ngân hàng mà còn là một yếu tố quan trọng, mang tính “maketing” hướng tới
1


cung cấp một danh mục các sản phẩm dịch vụ ngân hàng trọn gói, giúp ngân hàng
nâng cao khả năng cạnh tranh, một mục tiêu rất quan trọng của ngành nghề ngân
hàng.
Ngoài ra, thực hiện sản phẩm này cũng mang lại nhiều lợi ích khác như:
việc dựa trên cơ sở ước tính các khoản chi phí liên quan đến sản phẩm dịch vụ,
kiểm tra tín dụng, chấp nhận rủi ro… ngân hàng sẽ quyết định cấp một hạn mức
bao thanh toán với tỷ lệ ứng trước phù hợp, hạn chế được rủi ro tín dụng đến mức
có thể.
- Đối với bên bán hàng
Đầu tiên, bên bán hoàn toàn có thể tăng lượng vốn lưu động và khả năng

thanh khoản do được tài trợ ứng trước. Bên bán được cải thiện luồng tiền mặt,
được cung cấp nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định.
Điều này cho phép bên bán được tận dụng lợi thế chiết khấu khi bán hàng, đương
đầu với nhu cầu hàng hóa lưu kho tăng cao và đáp ứng được những yêu cầu tài trợ
mang tính thời vụ.
Thứ hai, bên bán có thể giảm chi phí quản lý trong việc theo dõi sổ sách
công nợ. Các đơn vị bao thanh toán còn có thể lập các báo cáo quản lý thu nợ và
bán hàng mà không phải khách hàng nào cũng có thể thực hiện được. Bên bán có
thể hoạch định được dòng tiền của mình nên có thể lên kế hoạch tài chính.
Thứ ba, vì tài sản thế chấp không còn là điều kiện bắt buộc nên bên bán có
thể giải quyết được nhu cầu cấp bách về vốn nhưng bị hạn chế về tài sản đảm bảo.
Đây có thể được coi là vấn đề rất quan trọng đối với những quốc gia mà công nghệ
ngân hàng chưa phát triển đến trình độ cao, việc quyết định cấp tín dụng hay
không phần lớn phụ thuộc vào tài sản đảm bảo của khách hàng.
Cuối cùng, bên bán có cơ hội tiếp cận với những cơ hội giao thông quốc tế,
khi bao thanh toán được áp dụng rộng rãi, được sự tư vấn của đơn vị bao thanh

1


toán để hạn chế những rủi ro trong quan hệ mua bán với các nước khác tới mức
thấp nhất.
- Đối với bên mua hàng
Thứ nhất, khi tham gia bao thanh toán, bên mua hàng dễ đàm phán điều
khoản thanh toán tốt hơn (tăng thời hạn trả chậm) với bên bán hàng.
Thứ hai, bên mua có thể tập trung thanh toán cho các nhà cung cấp về một
ngân hàng.
Ngoài ra, tăng uy tín cho mình là điều rất quan trọng. Nay cũng là lợi ích
của bên mua hàng khi áp dụng dich vụ bao thanh toán.
- Đối với các quốc gia áp dụng bao thanh toán.

Thứ nhất, việc áp dụng bao thanh toán thường xuyên và hiệu quả sẽ giúp
tăng cao lợi thế cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế trong điều kiện quốc gia
đó còn nhiều hạn chế về luật thương mại, hệ thống luật phá sản và kinh nghiệm
quản lý.
Đặc biệt là trong hoạt động giao thương quốc tế, các bên bán rất hạn chế
giao dịch đối với bên mua tại các quố gia có luật thong mại yếu kém vì cơ sở giao
dịch không được bảo đảm. Điều này cũng đồng nghĩa với sự phát triển của quốc
gia đó có nhiều hạn chế, sự hấp dẫn đầu tư cũng giảm sút.
Thứ hai, bao thanh toán đem lại lợi thế đối với việc tài trợ các khoản phải
thu giữa các quốc gia.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập hóa như hiện nay thì việc giao thương mua
bán giữa các quốc gia, giữa các công ty của quốc gia này với các công ty của quốc
gia khác là điều rất thường xuyên. Thông qua sản phẩm bao thanh toán, những
quốc gia của bên bán có thể tăng cường tài trợ trực tiếp cho bên bán để tăng cường
phát triển kinh tế nhưng cũng đồng thời đảm bảo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
1


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HOẠT ĐỘNG BAO THANH
TOÁN TẠI CÁC TCTD.
2.1. Cơ sở lý luận để thực hiện sản phẩm bao thanh toán tại Việt Nam.
2.1.1. Nhu cầu phát triển sản phẩm của các TCTD trong nền kinh tế thị
trường.
- Việt Nam mở cửa nền kinh tế, định hướng phát triển nền kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế
phát triển , theo sự vận hành của nền kinh tế tất yếu sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong
nội bộ các ngành kinh tế nói riêng và cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Định
hướng mở cửa đã tạo đà cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh dẫn tới những
nhu cầu mở rộng các phương tiện thanh toán, tín dụng ngân hàng…
- Nhu cầu ngày càng lớn của việc sử dụng các phương tiện thanh toán, các

công cụ tài chính, dịch vụ tài chính đã làm cho ngành ngân hàng trở thành ngành
có tỷ suất lợi nhuận rất cao. Hành lang pháp lý phá vỡ độc quyền nhà nước trong
lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước liên tục ra đời và
phát triển nhanh chóng. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, sản phẩm ngân
hàng nghèo nàn trong khi thiếu cơ sở pháp lý để các TCTD cung cấp các công cụ
tài chính mới nhằm đa dạng hóa sản phẩm, tăng vị thế cạnh tranh của các TCTD
và đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế.
- Quy chế bao thanh toán ra đời năm 2004, mặc dù chưa hoàn chỉnh nhưng
nó đã tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD mở rộng sản phẩm, cung cấp thêm một
công cụ tài chính đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
2.1.2. Quy chế hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng.
Hiện nay, các đơn vị thực hiện bao thanh toán trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng đều có hệ thống ngân hàng thương mại hay các công ty tài
chính (các tổ chức tín dụng). Các tổ chức này hoạt động tuân thủ theo luật các tổ
chức tín dụng và những văn bản dưới luật chi phối đối với từng nghiệp vụ cụ thể.
1


Đây là những hệ thống luật, văn bản cơ bản nhất chi phối toàn bộ hoạt động của
các hệ thống ngân hàng thương mại và các công ty tài chính chuyên nghiệp.
Đối với Việt Nam, các hệ thống ngân hàng thương mại và công ty tài chính
có thực hiện sản phẩm bao thanh toán chịu sự chi phối chủ yếu của các hệ thống
văn bản sau:
+ Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm 1997
+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Luật các tổ chức tín dụng số
20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
+ Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng số 127/2005/QĐ7-NHNN ngày 3
tháng 2 năm 2005.
+ Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế

hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6
tháng 9 năm 2004.
2.2. Thực trạng áp dụng hoạt động bao thanh toán tại các TCTD đang được
phép hoạt động tại Việt Nam.
2.2.1. Việc triển khai hoạt động bao thanh toán tại các TCTD theo quy định
của pháp luật.
Từ khi quy chế bao thanh toán có hiệu lực thi hành thì các TCTD trong
nước và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam liên tục đề nghị
NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Trong đó tiên phong như
Deutsche Bank AG Chi Nhánh TP.HCM, the Far East National Bank, Ngân hàng
TMCP Á Châu… Đến nay, về mặt pháp lý hầu như tất cả các ngân hàng trong
nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đều được NHNN đồng ý
cho thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.

2


2.2.2. Tình hình thực hiện hoạt động bao thanh toán tại các TCTD.
- Hiện nay, có rất ít ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán trên thực
tế. Chỉ có ngân hàng HSBC đồng ý bao thanh toán cho các khách hàng bên bán mà
bên mua có quan hệ với HSBC; Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam với hợp đồng
cụ thể, thành công nhất phải kể đến là Ngân Hàng TMCP Á Châu với danh mục
hơn 120 doanh nghiệp được cấp hạn mức bao thanh toán bên mua trong nước,
thuộc tất cả các ngành hàng. Khả năng cung ứng vốn qua nghiệp vụ này cho các
doanh nghiệp bên bán hơn 1.000 tỷ đồng, Ngân hàng Á Châu đã xây dựng quy
chế bao thanh toán cụ thể thực hiện trong thực tiễn, có quy định về giao nhận hàng
hóa cũng như chuyển quyền sở hữu các khoản phải thu có tính chuyên nghiệp khá
cao.
- Một số ngân hàng khác không thực hiện bao thanh toán nhưng lại nhận
thế chấp các khoản phải thu “ quyền đòi nợ” như là một tài sản bảo đảm để cung

ứng vốn cho doanh nghiệp, việc thế chấp “quyền đòi nợ” không bắt buộc theo quy
chế bao thanh toán và dễ dàng thực hiện. Hiện nay, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương
(Techcombank), Ngân Hàng TMCP các Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh (VP
Bank)… nhận thế chấp các “ quyền đòi nợ” này.
2.2.3. Những hạn chế khi thực hiện hoạt động bao thanh toán trên thực tế.
Thứ nhất, khi thực hiện sản phẩm bao thanh toán là phải xác định được:
“giá mua khoản phải thu”. Tuy nhiên, quy chế bao thanh toán hiện tại không đề
cập đến vấn đề này. Khi không có những văn bản hướng dẫn cụ thể thì các tổ chức
cụ thể thì các tổ chức tín dụng thực hiện bao thanh toán sẽ định giá mua các khoản
phải thu hoàn toàn dựa trên tình hình hoạt động thực tế và mức độ chấp nhận rủi ro
của hệ thống  các tổ chức tín dụng khác nhau sẽ chấp nhận “giá mua khoản phải
thu” khác nhau trên cùng một giao dịch mua bán bất kỳ  Hạn chế khả năng cung
cấp vốn cho bên bán hoạt động đồng thời tạo sự không nhất quán trong tiến trình
thực hiện bao thanh toán.

2


Thứ hai, về việc chuyển nhượng quyền sở hữu của các khoản phải thu của
bên được bao thanh toán , các quy định hiện hành không quy định trực tiếp đề cập
đến cho nên khi thực hiện mỗi tổ chức thực hiện theo mỗi cách khác nhau dẫn đến
việc không nhất quán trong việc triển khai sản phẩm phù hợp quy định pháp luật
và việc kiểm tra giám sát của ngân hàng nhà nước khó lòng thực hiện được.
Thứ ba, về tính chất thương mại của các khoản phải thu, theo quy định của
pháp luật thì có phạm vi hẹp, theo đó pháp luật chỉ công nhận các khoản phải thu
phải phát sinh từ quan hệ mua bán hàng hóa, còn các khoản phải thu phát sinh từ
hoạt động thương mại như cung ứng dịch vụ, cho thuê tài sản sẽ không trở thành
đối tượng được bao thanh toán. Như vậy, theo quy định này thì phạm vi khoản
phải thu hẹp dẫn đến việc áp dụng bao thanh toán bị hạn chế về số lượng và chưa
linh hoạt.

Thứ tư, khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán sẽ phát sinh doanh thu và
các tài khoản bao thanh toán, trong khi đó chưa có sự hướng dẫn chi tiết nào về
mặt pháp luật làm cho các TCTD phải hạch toán theo các quy định của các sản
phẩm dịch vụ hiện hành theo tính chất tài khoản. Việc không quy định thống nhất
trong cách hạch toán của các TCTD sẽ làm cho NHNN khó khăn trong việc thanh
tra, kiểm tra hoạt động của các TCTD trên.
Ngoài ra, nguyên nhân khách quan làm cho hoạt động bao thanh toán chưa
nhanh chóng hòa nhập và tỏ ra hiệu quả, phải kể đến đó là tính chất tín dụng
thương mại trong hoạt động kinh doanh ở nước ta chưa phát triển nhanh, nền kinh
tế sử dụng tiền mặt và quy mô của các doanh nghiệp nói chung chưa lớn… cho
nên các khoản phải thu thương mại có rủi ro cao, thêm vào đó các TCTD chưa xây
dựng được quy trình kiểm soát người mua hiệu quả… do đó trong danh mục rủi ro
của mình các TCTD rất ít chọn hình thức bao thanh toán để cung ứng vốn cho
doanh nghiệp.

2


Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về bao thanh toán,
nâng cao hiệu quả của hoạt động bao thanh toán tại các TCTD.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu tài chính của các tổ
chức, cá nhân trong nước là rất lớn, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu đó, nhà nước
cần tạo hành lang pháp lý rõ ràng để tạo thuận lợi cho các công cụ tài chính phát
triển đúng hướng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tài trợ nguồn vốn dồi dào
góp phần phát triển kinh tế. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về bao
thanh toán như sau :
Thứ nhất, NHNN cần nghiên cứu, xây dựng biên chế hạch toán kế toán
chuẩn mực dành cho hoạt động bao thanh toán:
Trong thời gian vừa qua, do thiếu văn bản hướng dẫn của NHNN về chế độ hoạch
toán kế toán nên các đơn vị bao thanh toán tại Việt Nam buộc phải xây dựng chế độ hạch

toán theo quy định hướng dẫn dành cho các sản phẩm dịch vụ khác và thực tế hoạt động
kinh nghiệm của hệ thống. Chính điều đó sẽ dẫn đến tình trạng chế độ hoạch toán kế toán
tại đơn vị bao thanh toán không thống nhất, các cơ quan hữu quan rất khó quản lý theo
dõi hoạt động bao thanh toán và sự phát triển của sản phẩm này. Do vậy, ban hành quy
chế hoạch toán kế toán chung nhất dành cho hoạt động bao thanh toán là rất cần thiết và
quan trọng
Quy chế hoạch toán kế toán được ban hành phải đạt đầy đủ những điều kiện cơ
bản, ví dụ như:
-

Đảm bảo tính chặt chẽ, nhất quán khi áp dụng vào thực tế. Ngân hàng nhà nước
cần phải nghiên cứu, giả định các tình huống có thể xảy ra trong thực tế để sửa bổ
sung khi cần thiết.

-

Đảm bảo tính rõ ràng, mạch lạc khi phản ánh hoạt động bao thanh toán trên sổ
sách kế toán.

-

Có tính pháp lý cao khi áp dụng.

2


-

Đối với những quy định hoạch toán kế toán áp dụng cho bao thanh toán xuất nhập
khẩu, phải đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế và những hiệp ước, thỏa

thuận quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Thứ hai, Ban hành các quy định rõ ràng về gia hạn , chuyển nợ quá hạn

trong hoạt động bao thanh toán của các TCTD.
Việc hướng dẫn cụ thể việc gia hạn, chuyển nợ quá hạn trong hoạt động bao thanh toán
không những giúp các đơn vị bao thanh toán tại Việt Nam có thể đánh giá chính xác hiệu
quả hoạt động mà còn giúp cho nhà nước có thể quản lý tốt hoạt động bao thanh toán ở
cấp độ vĩ mô, hạn chế những tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Những quy định về gia
hạn, chuyển nợ quá hạn có thể bao gồm các nội dung sau:
-

Những trường hợp nào được gia hạn các khoản phải thu.

-

Thời gian cụ thể buộc phải chuyển khoản bao thanh toán sang quá hạn.

-

Mức trích dự phòng rủi ro khi gia hạn, chuyển nợ quá hạn.

-

Những biện pháp chế tài về mặt hành chính, hình sự … khi các đơn vị bao thanh
toán không thực hiện đúng quy định quy định của nhà nước về trích dự phòng rủi
ro.

Thứ ba, Bổ sung nguyên tắc chung để xác định giá của các khoản phải
thu, cách thức chứng nhận quyền sở hữu đối với khoản phải thu cho bên bao
thanh toán trong hoạt động bao thanh toán để bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng

khi xảy ra tranh chấp của các bên tham gia bao thanh toán.
Thứ tư , mở rộng đối tượng bao thanh toán và phạm vi điều chỉnh của
các khoản phải thu để đưa quy chế bao thanh toán của nước ta tiến gần với các
công ước quốc tế , thông lệ quốc tế về bao thanh toán, đáp ứng nhu cầu mới khi
Việt Nam hòa nhập mạnh vào nền kinh tế quốc tế.

2


KẾT LUẬN
Hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam có hiệu lực về pháp luật năm 2004 với
những quy định cơ bản về bao thanh toán để cung cấp thêm một công cụ tài chính
cho các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có thêm kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế
dựa trên tín dụng thương mại.
Trong quá trình triển khai quy chế bao thanh toán của ngân hàng nhà nước, các
TCTD đã đưa hoạt động bao thanh toán trở thành nghiệp vụ của TCTD, cung cấp
sản phẩm có tính cạnh tranh khá cao mang lại hiệu quả trong hoạt động của TCTD
và nâng cao vị thế cạnh tranh của TCTD. Tuy nhiên, do những hạn chế về quy
định pháp luật, hạn chế về khả năng triển khai hoạt động của các TCTD cũng như
hạn chế khách quan của nền kinh tế Việt Nam làm cho hoạt động bao thanh toán
chưa thực sự phát triển.
Thông qua việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động bao thanh toán
của Việt Nam cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế, của thị trường tài
chính, hoạt động bao thanh toán hứa hẹn sẽ trở thành công cụ tài chính hiệu quả ,
có vị trí đối trọng với hoạt động tín dụng ngân hàng.

2



×