Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.2 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra rộng khắp trên thế giới, xu thế
cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn, điều này đòi hỏi các hoạt động sản xuất
kinh doanh và đầu tư trong nước cũng có những chuyển biến sôi động để bắt kịp
những sự biến động đó.Vì vậy nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngày càng cao.
Các NHTM với tư cách là nhà tài trợ cho các dự án đầu tư, biến những đồng tiền
chết trong lưu thông trở thành nguồn vốn đã là cầu nối không thể thiếu, liên kết
mọi thành phần kinh tế với nhau, nâng cao hiệu quả hoạt độg của nền kinh tế.
Ngân hàng trở thành một trong nguồn cung vốn đáp ứng nhu cầu mua sắm đổi mới
trang thiết bị và nhu cầu vốn khác cho các chủ thể kinh tế khác đồng thời cung cấp
các dịch vụ tài chính ngân hàng cho toàn bộ nền kinh tế.
VN vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình CNH – HĐH đất nước chuyển biến
mạnh mẽ về mọi mặt trong những năm gần đây. Đặc biệt VN là thành viên 150 của
WTO thì những cơ hội đến với VN ngày càng cao để phát triển, tuy nhiên chúng ta
phải đối mặt với những khó khăn, thách thức khi phải cạnh tranh công bằng với
các doanh nghiệp nước ngoài với trình độ khoa học tiên tiến….Đặc biệt là đối với
nghành Ngân hàng là nghành phải đi trước một bước nếu không sẽ bị thua ngay
trên sân nhà vì sản phẩm dịch vụ kém so với nước ngoài. Nhận thức được điều đó,
Bán Giám Đốc NHCT Việt Nam đã có những hướng đi mới, có nhiều sáng tạo
trong công tác kinh doanh và từng bước tăng mạnh về uy tín và quy mô của Ngân
hàng, xứng đáng là một trong “ tứ đại ngân hàng” của Việt Nam.
Hoà cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng
tăng và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời gian
tới để phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh
tế cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh
doanh trong tương lai chắc chắn được đặt lên hàng đầu đối với các NHTM và

1


NHCT Hoàn Kiếm cũng không ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải pháp để hoàn


thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở trường,
cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu tình
hình thực tế tại NHCT Hoàn Kiếm vừa qua, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Hoàn Kiếm”. Làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
Chuyên đề được trình bày theo 3 nội dung cơ bản sau:
Chương 1 : Những vấn đề về vốn và huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại
trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Hoàn Kiếm.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại
Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời và phát triển gắn liền với các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển
hầu như không có một công dân nào là không có quan hệ giao dịch với một NHTM
nhất định nào đó. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen thuộc trong
đời sống kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động dịch vụ của Ngân
Hàng càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con
người. Mọi công dân đều chịu tác động từ các hoạt động của Ngân Hàng, dù họ chỉ
là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho
một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ Ngân Hàng.

Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá
trong nền kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng dặc biệt trong nền kinh
tế. Bản chất, chức năng, các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng hầu như là
giống nhau song quan niệm về ngân hàng lại không đồng nhất giữa các nước trên
thế giới.
1.1.1. NHTM và chức năng của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
(i) Khái niệm về NHTM.
Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người
ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trưòng tài
chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Ví dụ:
Theo Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp
vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay theo như Luật Ngân hàng của
3


Ấn Độ năm 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho
vay hay tài trợ, đầu tư”…Còn ở Việt Nam theo luật tín dụng do Quốc Hội khoá X
thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa: NHTM là một loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác
có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để
hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và
sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
(ii) Chức năng của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
 Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội.
Thực hiện chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, các doanh
nghiệp và các tổ chức, giữ tiền cho khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu rút tiền
và chi tiền của họ.

Chức năng này đã có ngay từ thời kỳ sơ khai của hoạt động ngân hàng. Ban đầu
ngân hàng đơn giản chỉ là người giữ hộ tài sản và mong muốn tích luỹ giá trị của
công chúng và các doanh nghiệp trong xã hội. Về sau ngân hàng sử dụng khoản
tiền gửi này để cho vay, và ngân hàng đồng thời trả lợi tức cho khách hàng gửi
tiền. Tuy nhiên với các khoản tiền, vàng bạc, đá qúy…khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng với yêu cầu giữ hộ thì khách hàng vẫn phải trả một khoản phí. Ngày
nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập càng cao, tích luỹ của cá nhân
và DN ngày càng lớn thì chức năng này càng được thể hiện rõ. Nó đem lại lợi ích
cho cả khách hàng và ngân hàng. Đối với khách hàng khi họ gửi tiền vào NH, họ
không những thu được một khoản lợi tức mà còn được đảm bảo an toàn về tài sản.
Đối với NH chức năng này là cơ sở để thực hiện chức năng thanh toán, đồng thời
tạo nguồn vốn chủ yếu cho NH.

4


 Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng như trích tiền gửi từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền
hàng hoá dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức
năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên
tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện vai trò trung
gian thanh toán.
 Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối” giữa người có vốn đầu
dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên quỹ cho vay của
nó rồi đem cho vay đối với nền kinh tế, mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức

năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người
cho vay.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
(i) Hoạt động huy động vốn.
Vì bản chất của Ngân hàng là “đi vay để cho vay” nên việc ngân hàng hoạt
động ra sao, có phát triển được hay không là phụ thuộc một phân vào việc Ngân
hàng có thu hút đủ số vốn để hoạt động không? chất lượng của nguồn vốn đó như
thế nào?
Vốn huy động của Ngân hàng là vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, cá
nhân trong nền kinh tế. Nguồn vốn nhàn rỗi của mỗi tổ chức kinh tế, cá nhân
thường rất nhỏ nhưng nếu xem xét trong toàn bộ nền kinh tế thì tổng số của nó vô
cùng lớn. Chính vì vậy, việc huy động các nguồn vốn này để đưa vào kinh doanh
thông qua các NHTM không những mang lại lợi nhuận cho các Ngân hàng mà còn
5


góp phần sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có trong nước, giá trị tiền tệ, kiềm chế
lạm phát.
Mặt khác,trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hành tiến hành cho vay
phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế địa
phương và cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng ngày càng mở rộng,
tạo uy tín cho các Ngân hàng ngày càng cao. Các Ngân hàng chủ động trong hoạt
động kinh doanh mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế, tổ chức,
dân cư, mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Do đó, các NHTM phải căn cứ vào
chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế phù hợp, nhất là các nguồn vốn trung và dài
hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
(ii) Hoạt động Tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các

hình thức khác theo quy định của NHNN. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho
vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất, đem lại thu nhập cao
nhất cho Ngân hàng. Trên cơ sở lượng vốn đã huy động được các Ngân hàng phải
xem xét cho có hiệu quả để tránh rủi ro xảy ra.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng phải quán triệt các nguyên tắc sau:
• Thứ nhất, Ngân hàng phải đảm bảo các khoản tiền vay được sử dụng đúng
mục đích và hiệu quả.
• Thứ hai, Tiền vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi.
• Thứ ba, Việc đảm bảo tiền vay thực hiện theo quy định của Chính Phủ và
Thống Đốc NHNN.
Đối với các NHTM hiện nay, nghiệp vụ cho vay được thực hiện bằng nhiều
hình thức cụ thể là:

6


Cho vay ngắn hạn: Là hình thức sử dụng nhiều nhất ở các NHTM. Trong nền
kinh tế thị trường, các NHTM có thể cho khách hàng vay dưới các hình thức: cho
vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động, bảo lãnh, nghiệp vụ thấu chi, chiết khấu chứng
từ có giá.
Cho vay trung dài hạn: Là loại cho vay được thực hiện đối với những chương
trình, dự án phát triển kinh tế xã hội. Nó được thực hiện dưới các hình thức như:
cho vay dự án đầu tư, cho vay đồng tài trợ, cho thuê tài chính.
Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế, các NHTM không những
tạo được thu nhập cho mình mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thực
hiện các mục tiêu kinh tế của đất nước, tạo việc làm cho người lao động và tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện của ngân hàng cũng như sự phát triển của các
vùng kinh tế.
Nếu Ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả, nguồn vốn của Ngân hàng được sử
dụng đúng mục đích, có hiệu quả cao thì nó lại là điều kiện quan trọng để tăng khả

năng huy động vốn.
(iii) Hoạt động dịch vụ Ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng
phát triển và đã mang lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng như: thanh toán hộ các
DN, quản lý tài sản cho các DN, bảo lãnh thanh toán….Chưa bao giờ các loại dịch
vụ ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở các
ngân hàng hiện đại có thể chiếm tới khoảng 40% hoặc 50% tổng thu nhập của
Ngân hàng. Đồng thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả của
việc sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh tế làm giảm khối lượng lưu
thông tiền mặt từ đó sẽ tiết kiệm được chi phí in ấn, kiểm đếm tiền .
Ngày nay, trong điều kiện cạnh tranh mãnh liệt giữa các Ngân hàng, việc đưa ra
các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng sẽ là một yếu tố để cạnh tranh.

7


Chính vì vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư các trang thiết bị, cơ
sở vật chất, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng.
Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo
được uy tín đối với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, một yếu tố để tăng
(iv) Hoạt động kho quỹ và các hoạt động khác
Hoạt động kho quỹ là công tác phục vụ cho việc chi trả đối với khách hàng.Nó
bao gồm nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các Ngân hàng khác và ở cả nghiệp vụ
về chứng khoán ngắn hạn.
Ngoài ra còn có các hoạt động khác như: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị
trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản,
kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các
dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
1.2.VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG.

1.2.1 Khái niệm về vốn.
Vốn của các NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà Ngân hàng tạo lập và huy
động để đầu tư cho vay và đáp ứng nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
Thực chất, nguồn vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào
Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác họ chuyển
quyền sử dụng tiền tệ cho Ngân hàng và Ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản
thu nhập và như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại
dưới hình thức tiền tệ làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết
định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

8


1.2.2 Kết cấu vốn kinh doanh của NHTM.
Vốn của NHTM bao gồm: Vốn tự có, Vốn huy động, Vốn đi vay, Vốn khác.
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của
ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của
NHTM.
(i) Vốn tự có.
Vốn tự có của Ngân hàng bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự
trữ và một số tài sản nợ khác của Ngân hàng theo quy định của NHNN. Vốn tự có
tuy chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng
nhưng nó lại có vai trò rất to lớn đối với hoạt động của các NHTM. Vốn tự có của
NHTM bao gồm các thành phần sau:
- Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một NHTM khi đi vào hoạt động, vốn
điều lệ có thể do NHNN cấp (đối với NHTM quốc doanh), có thể do các thành viên
liên doanh đóng góp (Ngân hàng liên doanh), có thể do Công ty mẹ cung cấp

(Ngân hàng 100% vốn nước ngoài).
- Các quỹ dự trữ: Được hình thành và tạo lập trong quá trình hoạt động của các
NHTM để sử dụng vào các mục đích nhất định. Các quỹ dự trữ này được trích lập
từ lợi nhuận sau thuế của Ngân hàng. Có 2 loại quỹ dự trữ:
+Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi
nhuận sau thuế. Quỹ này được trích lập tối đa không vượt quá mức vốn điều lệ
thực có của tổ chức tín dụng.
+Quỹ dự phòng tài chính: Theo luật, các tổ chức tín dụng nước ta hàng năm
được trích 10% lợi nhuận sau thuế để lập quỹ này. Số dư của quỹ này không vượt
quá 25% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
- Các tài sản nợ khác: Một số tài sản khác được coi như vốn tự có của Ngân hàng
gồm: Lợi nhuận chưa chia, thu nhập lớn hơn chi phí, hao mòn tài sản cố định, tăng
giá ngoại tệ chờ xử lý.
9


Trong quá trình hoạt động các NHTM có thể sử dụng vốn này để kinh doanh
trong thời gian ngắn.
(ii) Vốn huy động.
Đây là nguồn vốn chủ yếu, quan trọng nhất của các Ngân hàng. Nguồn vốn của
Ngân hàng được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn huy động. Vốn huy động này
được hình thành chủ yếu từ 2 nguồn: tiền gửi của cá nhân, hộ gia đình và của các
tổ chức kinh tế. Tiền gửi của các hộ gia đình tồn tại chủ yếu dưới dạng tiền tiết
kiệm, dự phòng. Họ không thể sử dụng cho mục đích đầu tư vì nguồn vốn quá nhỏ,
họ cũng không thể đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp qua mua bán cổ phiếu,
trái phiếu vì họ không có đủ kiến thức, mặt khác, đầu tư theo hình thức này chứa
đụng yếu tố rủi ro cao, do đó họ tìm đến Ngân hàng như một cách đầu tư tốt nhất.
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế bản chất là những khoản tiển nhàn rỗi tạm thời
chưa đựơc sử dụng đến, hoặc tiền nằm trên tài khoản chở thanh toán.
Để đảm bảo hoạt động Ngân hàng hiệu quả cao, Ngân hàng phải huy động vốn

đáp ứng cho hoạt động sử dụng vốn. Các nhà quản trị Ngân hàng luôn phải theo
dõi tình hình biến động của thị trường và đưa ra những dự đoán về thay đổi của thị
trường qua đó có những quyết định phù hợp không những tạo lập, huy động đủ số
vốn cần thiết cho hoạt động của Ngân Hàng mà còn phải tìm ra được nguồn vốn rẻ
hơn, ổn định hơn, cơ cấu nguồn vốn huy động phải phù hợp, tỷ trọng của các loại
vốn phải hợp lý qua đó nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng.
(iii) Vốn đi vay của Ngân hàng khác.
Nguồn vốn đi vay của Ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các
mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với
Ngân hàng Trung ương. Nguồn vốn này bao gồm:

10


 Nguồn vốn đi vay của các tổ chức tín dụng khác.
Đây là các khoản vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa ngân hàng
với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Hình thức vay này rất
đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc
thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không cần thế chấp hoặc thế
chấp bằng các chứng khoán của kho bạc. Các khoản vay này thông thường có thời
hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu cầu tức thời.
 Nguồn vốn đi vay của Ngân hàng Trung ương.
Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là Ngân hàng của các ngân hàng, là người
cho vay cuối cùng của các NHTM. Vì vậy, khi các NHTM có nhu cầu vay vốn thì
NHTW có thể xem xét cho vay. Việc NHTW có cho các NHTM vay hay không
còn phụ thuộc vào các yếu tố:
- Chính sách tiền tệ mà NHTW đang theo đuổi. Khi NHTW muốn mở rộng cung
tiền tệ để thúc đẩy sản xuất phát triển thì các nhu cầu xin vay của NHTM sẽ dễ
dàng được phê duyệt, còn khi NHTW muốn thắt chặt cung tiền nhằm kiềm chế lạm

phát thì khả năng vay được là rất khó khăn.
- Hạn mức tín dụng của NHTW cấp cho các NHTM đã sử dụng hết chưa. Thường
thì NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM một hạn mức xác định và các NHTM chỉ
được phép vay trong hạn mức này. Đây chính là một trong những lý do khiến cho
các NHTM ít vay tại NHTW. Nếu các NHTM đã sử dụng tối đa hạn mức được
cấp, khi gặp tình trạng thiếu hụt khả năng thanh toán mà khả năng vay tại các
NHTM khác lại hạn chế thì đây là một nguy cơ lớn cho sự tồn tại của Ngân hàng.
- Vốn vay NHTW của các NHTM chủ yếu dưới những phương thức sau:
+ Vay vốn thanh toán: Các NHTM vay dưới hình thức này khi không có đủ số
tiền trên tài khoản thanh toán tại NHTW để phục vụ cho việc thanh toán giữa các
NHTM với nhau. Các khoản vay này thường có thời hạn ngắn.

11


+ Vay vốn ngắn hạn bổ sung: Là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung
vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn
hạn mức tín dụng.
+ Tái cấp vốn: Là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHTW nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM. NHTW thực hiện
tái cấp vốn cho các NHTM thông qua các hình thức như: cho vay lại theo hồ sơ tín
dụng, cho vay tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo.
Vay vốn của NHTW là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM với NHTW nằm
trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi NHTW sử dụng công cụ thị trường
mở mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu, hệ thống NHTM phải chịu sự kiểm soát chặt
chẽ của NHTW.
 Vay trên thị trường vốn.
Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay
trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Nhũng ngân hàng lớn có uy tín hoặc

trả lãi cao sẽ có khả năng vay được nhiều hơn các ngân hàng nhỏ. Các ngân hàng
nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh
của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát
triển của thị trường tài chính, các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các
công cụ nợ…
(iv) Vốn khác.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán. Các khoản vốn này tồn tại dưới dạng vốn trên tài
khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi… Nguồn
vốn này có đặc điểm là khoản tiền được tạm thời trích khỏi tài khoản này và được
nhập sang tài khoản khác chờ sử dụng trong một thời gian nhất định. Trong thời

12


gian này, Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này vào hoạt động kinh doanh của
mình.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, nhận uỷ thác đầu tư các NHTM cũng thu hút được
một lượng vốn đáng kể trong việc thu hộ, chi hộ cho khách hàng, làm đại lý cho tổ
chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do
việc sử dụng tiền được thực hiện theo một tiến độ nhất định mà các NHTM đã nắm
được thời gian cụ thể và số lượng trên trong thời gian đó nên các NHTM có thể
chủ động sử dụng vào mục đích khác mà không làm ảnh hưởng tới quá trình sử
dụng vốn của khách hàng.
1.2.3. Vai trò của vốn với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
(i) Vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có
vốn, bời vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Riêng đối với Ngân hàng, vốn là cơ sỏ để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh của mình. Nói cách khác, Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện

được các nghiệp vụ kinh doanh. Bời vì với đặc trưng của hoạt động Ngân hàng,
vốn không chỉ là các phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh hàng hoá đặc biệt
trên thị trưòng tiền tệ và thị trường chứng khoán. Những Ngân hàng trường vốn là
những Ngân hàng có thế mạnh kinh doanh. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm
khởi đầu trong chu kỳ kinh doanh.
Chúng ta có thể thấy được vai trò quan trọng của vốn đối với hoạt động của các
Ngân hàng ở cả vốn tự có, vốn huy động và vốn đi vay. Đối với vốn tự có, là số
vốn ban đầu để hình thành nên Ngân hàng trên cơ sở đó thì Ngân hàng mới có thể
tổ chức các hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, nó còn là tấm đệm để
chống rủi ro phá sản cho Ngân hàng, nó tạo niềm tin cho khách hàng gửi tiền, do
vậy nó có ý nghĩa to lớn trong hoạt động của Ngân hàng.
13


Nếu như vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau khi đi vào
hoạt động, vốn huy động cũng giữ vai trò vị trí quan trọng vì trong quá trình này
vốn huy động quyết định đến lợi nhuận và thu nhập của Ngân hàng. Khi vốn huy
động của Ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế thì
vốn vay giúp cho Ngân hàng giải quyết được vấn đề này. Nó giúp các NHTM có
khả năng để tiến hành các hoạt động bình thường tránh tình trạng thiếu hụt vốn
kinh doanh dẫn tới phá sản.
Tóm lại, vai trò của vốn trong hoạt động Ngân hàng là rất quan trọng. Do vậy,
đòi hỏi quá trình hoạt động của mình các NHTM phải luôn quan tâm tới việc đáp
ứng đủ nguồn vốn cho hoạt động, phải giữ cho nguồn vốn tăng tương đối ổn định
và vững mạnh.
(ii) Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của
Ngân hàng.
Ngoài vai trò là cơ sở để Ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh thì vốn
của Ngân hàng cũng có vai trò trong việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín

dụng. Như chúng ta đã biết, vốn tự có ngoài việc mua sắm tài sản cố định, trang
thiết bị, hùn vốn liên doanh… vốn tự có còn là căn cứ để giới hạn các hoạt động
kinh doanh nên bao gồm cả hoạt động tín dụng, việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ
huy động vốn trên vốn tự có của NHTW thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị
trường của Nhà Nước. Với các quy định này NHTW muốn đảm bảo rằng hoạt
động của hệ thống NHTM là an toàn và hiệu quả. Theo những quy định này, vốn
tự có quyết định quy mô hoạt động của Ngân hàng.Ví dụ:
NHTW quy định :
+Mức cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
+ Mức vốn huy động không quá 20 lần vốn tự có
+ Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.

14


Do đó, nếu vốn tự có của Ngân hàng càng lớn thì quy mô hoạt động cũng ảnh
hưởng lớn đến quá trình này. Nếu vốn huy động của các Ngân hàng lớn thì quy mô
của các hoạt động sử dụng vốn cũng lớn, có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn với số
lượng lớn, có điều kiện mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của các
NHTM.
(iii) Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân hàng
trên thị trường
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với “ nguyên liệu” chính là
tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Để các chủ thể gửi tiền vào Ngân
hàng đòi hỏi Ngân hàng phải có uy tín lớn, hay nói cách khác, các NHTM kinh
doanh bằng chữ tín. Uy tín của Ngân hàng trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn
sàng thanh toán cho khách hàng khi có yêu cầu. Khả năng thanh toán càng cao thì
vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Chính vì vậy, loại trừ các nhân tố khác khả
năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung và
vốn khả dụng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt động kinh

doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu
quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị trí trên thương trường.
(iv) Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng.
Thực tế đã chứng minh quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện
đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng lớn
về vốn là điều kiện thuận lợi với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời
gian, thời hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng.
Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân
hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh
doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có của Ngân hàng. Tăng
15


cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh
vực. Đồng thời, vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài
chính để kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua, mua
bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Chính các hình thức kinh doanh này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt
động kinh doanh và tạo thêm vốn cho Ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh
của Ngân hàng trên thị trường.
Tóm lại, vai trò của vốn đối với hoạt động Ngân hàng là rất quan trọng. Do vậy,
trong quá trình hoạt động của mình các Ngân hàng phải luôn chú trọng trong việc
đảm bảo sự tăng trưởng một cách ổn định các nguồn vốn của Ngân hàng kể cả vốn
huy động và vốn tự có.
1.3. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.3.1. Các hình thức huy động vốn của NHTM.
(i) Tiền gửi của khách hàng.

Tiền gửi của khách hàng gồm: tiền ký gửi và tiền tiết kiệm. Tiền ký gửi gồm
các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có kỳ hạn và không kỳ hạn. Hiện nay có rất
nhiều loại tiền ký gửi, đó là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tài khoản của các cơ
quan, xí nghiệp. Để có được thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, các cơ sở kinh tế
có quyền lựa chọn một hay nhiều Ngân hàng để giao dịch nhằm giải quết việc thu,
chi, chuyển tiền thanh toán và các dịch vụ tài chính khác, tiền ký gửi được chia làm
2 loại:
_Tiền gửi không kỳ hạn: Tiền gửi này của khách hàng nhằm mục đích giao dịch
thanh toán trong quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ. Việc thanh toán này thường
được thông qua Ngân hàng dưới dạng séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi...Sau khi
mở tài khoản tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho Ngân hàng quyền theo
dõi, ghi chép các nghiệp vụ phát sinh trên tài khoản của họ ở Ngân hàng. Chi phí
16


hoạt động này đối với Ngân hàng là khá lớn nhưng trên thực tế Ngân hàng có thể
bù đắp được khoản chi phí này do việc sử dụng số dư các tài khoản để cho vay.
Các doanh nghiệp có thể để tiền gửi thanh toán dưới dạng tài khoản tiền gửi thanh
toán hoặc tài khoản tiền gửi vãng lai.
Tài khoản tiền gửi thanh toán là tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản chỉ có thể
sủ dụng tiền trong phạm vi số dư trên tài khoản. Loại tài khoản này luôn chỉ có số
dư có, chủ tài khoản phải tuân thủ những quy định và hướng dẫn của Ngân hàng
khi thực hiện thanh toán. Loại tài khoản này thuận lợi, an toàn, tuy có lãi suất thấp
nhưng thuận tiện trong thanh toán nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn khách hàng,
tạo ra một lượng vốn lớn phục vụ cho hoạt động của khách hàng.
Tài khoản vãng lai: Là loại tài khoản có thể có số dư có hoặc dư nợ. Số dư có
thể hiện tiền gửi của khách hàng, số dư nợ thể hiện số tiền Ngân hàng đã cho khách
hàng vay, lãi suất giữa hai bên dư nợ và bên dư có là do hai bên thoả thuận. Ở tài
khoản này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra vào bất cứ lúc nào ngay cả khi trên tài
khoản của họ không có tiền.

Với ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp: Nếu Ngân hàng có thể
thu hút được một lượng lớn tiền gửi loại này và duy trì được sự ổn định về số dư
của chúng thì Ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn khả dụng cao như kỳ phiếu
Kho bạc. Đây là một nguồn vốn mà các Ngân hàng luôn cố gắng huy động với
khối lượng lớn.
_Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi không dùng để thanh toán mà chủ yếu được
gửi vào Ngân hàng với mục đích an toàn và sinh lợi. Tiền gửi có kỳ hạn là số tiền
gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho
Ngân hàng nắm được vốn trong các kỳ đã có kế hoạch cho vay mà không phải tồn
quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường. Tiền trong tài khoản này chỉ được rút
ra khi đến hạn, nhưng trong thực tế các NHTM vẫn cho phép khách hàng rút vốn
trước thời hạn với lãi suất thấp hơn hoặc dùng để thế chấp vay vốn Ngân hàng.
17


Nhờ vào tính ổn định của nó mà Ngân hàng có thể lập kế hoạch sử dụng một cách
hợp lý.
_Tiền gửi tiết kiệm: Là một trong những khoản tiền gửi lớn nhất của Ngân hàng.
Thông thường, người gửi tiền đựơc nhận một cuốn sổ trong đó nhân viên Ngân
hàng xác nhận toàn bộ số tiền gửi vào, rút ra, gửi thêm và có nhu cầu sử dụng, có
thể gửi vào Ngân hàng với mục đích kiếm lời. Việc phân chia các khoản tiền gửi
tiết kiệm của dân cư có thể chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng thông
thường người ta chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư theo tiêu thức thời
gian tức là gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn.
(ii) Vốn huy động qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng.
Ngày nay, trong hoạt động của các NHTM, cạnh tranh là một yếu tố không thể
thiếu được, cạnh tranh giữa các NHTM diễn ra trong tất cả các lĩnh vực từ huy
động vốn đến cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn, các NHTM phải luôn tìm
mọi biện pháp để có thể lập đủ nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của
mình.Các NHTM không chỉ sử dụng các công cụ truyền thống để huy động vốn mà

còn mà còn đưa ra những công cụ mới có hiệu quả hơn để huy động vốn một cách
dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đây chính là lý do cho việc ra đời của kỳ
phiếu và trái phiếu Ngân hàng.
Kỳ phiếu và trái phiếu đều là chứng từ có giá xác nhận khoản nợ của Ngân hàng
với người chủ cầm giữ chứng khoán. Kỳ phiếu được phát hành thường xuyên và có
thời hạn khá linh hoạt, phong phú từ 3 tháng, 6 tháng…đến 60 tháng.
Thông qua hoạt động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng, Ngân hàng có
thể chủ động huy động được một lượng vốn lớn theo đúng thời hạn và với mức lãi
suất mà Ngân hàng đưa ra. Đây là một hình thức huy động do NHTM hoàn toàn
chủ động. Tuy nhiên, lãi suất của hình thức huy động này thường cao hơn so với
các hình thức huy động truyền thống.

18


(iii) Huy động vốn qua đi vay:
Các khoản vay ngày càng trở lên quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng,
không chỉ về quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một biệp pháp
quản lý các mục đích của tài sản nợ.Các Ngân hàng có thể đi vay lẫn nhau hoặc
cho vay NHTW.
- Vay từ các tổ chức tín dụng:
Trong thực tế, các NHTM có sự không cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn,
vì vậy, khi thiếu hụt vốn, các NHTM có thể tiến hành vay của các tổ chức tín dụng
khác qua thị trường tiền tệ liên Ngân hàng. Chi phí của khoản vay này thường cao
nhưng thời gian vay thường ngắn, vì vậy hiệu quả mang lại từ việc sử dụng nguồn
vốn này không cao.
Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của Ngân hàng
với các tổ chức tín dụng khác và chất lượng của công tác thanh toán của Ngân
hàng bởi nếu tỷ trọng của nguồn vốn này lớn chứng tỏ Ngân hàng rất có uy tín
trong quan hệ thanh toán đối với cả khách hàng và các tổ chức tín dụng khác.

Nhưng trong thực tế nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn
vốn kinh doanh của NHTM.
- Vốn vay từ NHTW:
Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu, với vai trò là người cho vay cuối
cùng, NHTW luôn cho các NHTM vay với mức giá nhất định đó là lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu được NHTW sử dụng như một công cụ điều tiết
vĩ mô, tuỳ vao đặc điểm của nền kinh tế mà lãi suất này có thể tăng hay giảm. Các
NHTM có thể vay NHTW khi có nhu cầu những NHTW không cho phép các
NHTM lạm dụng nguồn vốn này. Do vậy, NHTW thường cho phép các NHTM
vay theo hạn mức tín dụng nhất định. Nhưng dù sao đây cũng là lối thoát cho các
NHTM khi thực sự lâm vào tình trạng khó khăn.

19


1.3.2 Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn huy động.
(i) Những nhân tố thuộc môi trường kinh doanh.
Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện
chứng, tác động ràng buộc lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh
doanh của NHTM được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế khác nhau
trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn, tăng nhanh hay chậm
của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Ngân hàng. Rõ ràng,
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động vốn nói riêng của Ngân hàng luôn
gắn với môi trường kinh doanh. Các yếu tố của môi trường kinh doanh gồm:
 Môi trường pháp lý.
Hoạt động của Ngân hàng có mức độ ảnh hưởng rất lớn đến bất kỳ quốc gia
nào, cụ thể việc huy động vốn và sử dụng vốn của các Ngân hàng đều tác động
trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ
chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động

của Ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ, gắt gao hơn sơ với các doanh nghiệp.
Thực tế là Ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy
định của Chính Phủ, NHTW. Đó là Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh tế, Luật
dân sự, hàng loạt các văn bản pháp quy, các quy định trong từng thời kỳ về lãi suất,
hạn mức. Do sự ràng buộc về luật pháp các yếu tố của việc huy động vốn cũng bị
tác động bởi các chính sách của Nhà Nước, chính sách của NHTW như: chính sách
tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng. Sự thay đổi này ảnh hưởng tới khả năng thu hút
vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
 Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đối với công tác huy động vốn của
NHTM. Môi trường kinh tế hàm chứa tình trạng nền kinh tế, yếu tố cạnh tranh.
Nền kinh tế phát triển hưng thịnh, thu nhập của các cá nhân, tổ chức kinh tế trong
20


xã hội cao và ổn định thì tất yếu việc huy động vốn của Ngân hàng sẽ diễn ra thuận
lợi, dễ dàng hơn. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái thì khả
năng khai thác và đưa vốn vào sẽ bị hạn chế, Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
công tác huy động vốn.
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không
phải lúc nào cũng tốt vì cạnh tranh có thể dẫn đến nhiều tiêu cực, hạn chế. Vì vậy,
cạnh tranh là một thách thức đối với sự phát triển vừa là một nhân tố thúc đẩy sự
phát triển . Để công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng nói chung đạt được hiệu quả, Ngân hàng phải quan tâm đến vấn để cạnh
tranh, cụ thể Ngân hàng phải xác định rõ trên địa bàn có bao nhiêu đối thủ cạnh
tranh, điểm mạnh và điểm yếu của từng đối thủ trên các lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở
đó Ngân hàng sẽ đưa ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ có hiệu quả, ấn định lãi
suất phù hợp với thị trường các sản phẩm, dịch vụ có hiệu quả, ấn định lãi suất phù
hợp vơi thị trường và tìm cách cắt giảm chi phí, làm tăng hiệu quả hoạt động của
Ngân hàng.

 Môi trường văn hoá.
Mỗi quốc gia đều có một nền văn hoá riêng, văn hoá chính là yếu tố tạo nên bản
sắc của các dân tộc: tập quán, thói quen, tâm lý…Đối với hoạt động Ngân hàng,
trong đó có công tác huy động vốn, là yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường văn
hoá. Cụ thể, ở các nước phát triển người dân có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng
để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi suất và trong tiềm thức của
họ, Ngân hàng là một phần tất yếu của nền kinh tế. Do vậy, Ngân hàng không mấy
khó khăn trong vấn đề huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế-xã
hội. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam việc huy động vốn
của Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa
có thói quen thanh toán quan Ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng chưa tạo được lòng
tin đối với người dân sau hàng loạt sự kiện đã từng xảy ra như: đổi tiền năm 198521


1986 của thế kỷ 20 với tốc độ lạm phát chóng mặt ở mức độ 3 con số: 600-700%
làm trắng tay nhiều người gửi tiền. Sự sụp đổ của hơn 7500 quỹ tín dụng nhân dân
ở thành thị và các hợp tác xã tín dụng ở nông thôn năm 1989-1990, tiếp đến là
hàng loạt các vụ án lớn có liên quan đến Ngân hàng như: Dệt Nam Định, Tăng
Minh Phụng, EPCO.. . làm cho các Ngân hàng thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng. Ngân
hàng chưa chú trọng lắm tới công tác marketting, tiếp thị, quảng cáo. Người dân
còn hiểu rất ít về chủ trương, chính sách của Nhà Nước, hoạt động của Ngân hàng
vì vậy đến nay vẫn có tình trạng người dân có tiền nhưng không muốn vào Ngân
hàng gửi vì không biết thủ tục, ngại mất thời gian….
(ii) Những nhân tố thuộc bản thân Ngân hàng.
Mặc dù môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn tới công tác huy động vốn nhưng
yếu tố quyết định chính vẫn là các yếu tố thuộc về bản thân các Ngân hàng. Bởi vì
môi trường kinh doanh chỉ tác động, gây khó khăn hoặc tạo điều kiện thuận lợi còn
việc các NHTM có huy động được vốn hay không là phụ thuộc vào chủ trương
đường lối, chính sách, kế hoạch của Ngân hàng. Các nhân tố thuộc về bản thân
Ngân hàng quyết định việc huy động vốn gồm:

 Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng
Mỗi Ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc Ngân hàng xác định vị trí hiện
tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức
đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai.
Thông qua chiến lược kinh doanh, Ngân hàng sẽ quyết định thu hẹp hay mở rộng
việc huy động vốn về mặt quy mô, thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn, tăng hoặc
giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được
khai thác một cách tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy hiệu qủa.

22


 Chiến lược khách hàng của Ngân hàng về huy động vốn:
Như chúng ta đã biết, ngày nay khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đời
sống con người ngày càng được cải thiện và nâng lên, khách hàng có nhiều điều
kiện để lựa chọn Ngân hàng mà họ cho là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần
là nơi cất trữ tiền và kiếm lời từ lãi suất. Thực tế này đòi hỏi các Ngân hàng cần
phải xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và hoạt
động huy động vốn nói riêng. Để làm được điều này, trước tiên Ngân hàng phải
tìm hiểu thói quen, động cơ, mong muốn của người gửi tiền thậm chí từng đối
tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Cụ thể mục đích của
doanh nghiệp là nhờ Ngân hàng quản lý quỹ, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh
toán. Trong khi đó mục đích của các cá nhân gửi tiền lại là hướng lãi. Mục đích
của từng loại tiền gửi trên các tài khoản khác nhau cũng khác nhau như: tiền gửi
giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành cho tiêu dùng,
đầu tư trong tương lai để hưởng lãi. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng,
Ngân hàng có thể đưa ra những hệ thống biện pháp để có được quy mô và chất
lượng nguồn vốn như mong đợi. Hệ thống các chính sách liên quan đến huy động
vốn bao gồm:

+ Chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng hay gọi chung là chính
sách giá cả của sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng lãi suất như một
công cụ quan trọng trong huy động tiền gửi, thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy
trì và thu hút thêm nguồn vốn Ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực
hiện những ưu đãi về giá cho khách hàng lớn, thường xuyên gửi tiền. Mặt khác,
nếu hệ thống lãi suất huy động linh hoạt sẽ giúp Ngân hàng tạo được sự phù hợp về
quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
+ Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp: Nhân viên Ngân hàng là chiếc
gương để cho khách hàng thấy được hình ảnh của Ngân hàng. Trong điều kiện hiện
nay khó có thể duy trì được sự khác biệt về sản phẩm và gía cả nên chất lượng
23


phục vụ khách hàng đã trở thành một yếu tố cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu
hút khách hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, hệ thống thanh toán được bố
trí một cách khoa học là điều kiện cần thiết để giữ vững khách hàng cũ và tạo lập
những khách hàng mới. Do đó, muốn cũng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn
bó với khách hàng truyền thống, thu hút, hấp dẫn thêm khách hàng mới, Ngân
hàng không thể bỏ qua các chính sách trong phục vụ và giao tiếp.
+ Bố trí mạng lưới và các hình thức huy động:
Mạng lưới huy động càng rộng, hình thức huy động càng phong phú, đa dạng
thì kết quả huy động vốn sẽ càng nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng
lên. Thông thường, muốn mở rộng quy mô, tăng cường khả năng huy động vốn của
Ngân hàng không thể bỏ qua yếu tố mạng lưới huy động. Qua hoạt động và khảo
sát tình hình thực tế, các Ngân hàng có thể đưa ra kết luận: khách hàng không chỉ
quan tâm đến lãi suất mà còn quan tâm đến tính thuận tiện của việc gửi tiền.Do đó
việc mở thêm chi nháng là quan trọng nhưng vị trí ở đâu để có thể huy động được
nhiều đòi hỏi Ngân hàng phải có sự nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng. Thông thường,
chi nhánh được mở nơi đông dân cư, thuận đường đi lại, thuận tiện cho người gửi
tiền. Ngoài ra, các Ngân hàng còn không ngừng nâng cấp các trang thiết bị,

phương tiện tại các chi nhánh, nâng cao chất lượng cán bộ tại các chi nhánh để
phục vụ khách hàng chu đáo từ đó thu hút được khối lượng vốn lớn hơn.

24


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm (từ đây gọi tắt là chi nhánh) là một trong những
chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam, có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Trước đây, chi nhánh chỉ là một quỹ tiết kiệm của NHNN quận Hoàn Kiếm. Sau
1988, khi hệ thống ngân hàng hai cấp ra đời, chi nhánh lại trực thuộc NHCT Hà
Nội. Đến 1993, NHCT Hà Nội lại giải tán, và những chi nhánh còn lại trên địa bàn
Hà Nội đều trở thành chi nhánh cấp I của NHCT Việt Nam, trong đó có chi nhánh
NHCT Hoàn Kiếm.
Ngay sau khi thành lập, chi nhánh đã nhanh chóng đi vào hoạt động, phục vụ
cho việc phát triển kinh tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, góp phần vào việc phát
triển kinh tề Thủ đô. Ngày nay, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã có thể vươn xa và
phục vụ được nhiều loại hình khách hàng, nhiều thành phần kinh tế ở khắp vùng
kinh tế Hà Nội. Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và quá trình đổi mới
công nghệ hiện đại hóa ngân hàng, chi nhánh đã thường xuyên quan tâm đến việc
đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ về mọi mặt, đặc biệt là nghiệp vụ chuyên môn.
Từ 1996 đến nay, công tác này được thể hiện rõ nhất, tích cực nhất và có tác dụng
hữu hiệu nhất, đánh dấu bước trưởng thành mạnh của chi nhánh. Bên cạnh công tác
đào tạo là công tác tổ chức, sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực sở trường
chuyên môn, đó là tư tưởng xuyên suốt của quá trình quả lý điều hành của ban lãnh

đạo chi nhánh. Từ tháng 12/2003, Ban giám đốc chi nhánh đã triển khai việc hiện
đại hóa cơ cấu tổ chức chi nhánh, phân công lại cức năng nhiệm vụ của các phòng,
25


×