Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.05 KB, 38 trang )

PHẦN I: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Các loại hình ngân hàng thương mại
1. Một số định nghĩa về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng và trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó
để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán (của Việt Nam).
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt
động trong ngành dịch vụ tài chính (của Mỹ).
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ
vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Qua các định nghĩa về ngân hàng thương mại ta thấy được nhiệm vụ cũng như lợi
ích của ngân hàng thương mại:
- Là một tổ chức được phép ký thác với trách nhiệm hoàn trả.
- Đó là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng cho chính mình.
- Mục đích sử dụng ký thác của công chúng là để cho vay, chiết khấu và thực hiện
các dịch vụ tài chính khác.
Tại Việt Nam thì ngân hàng thương mại được phân loại dựa vào hai tiêu chí:
* Căn cứ vào hình thức sở hữu và đối tượng kinh doanh
- Căn cứ vào hình thức sở hữu:
Ngân hàng thương mại quốc doanh
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại liên doanh
Ngân hàng thương mại nước ngoài
- Căn cứ vào đối tượng kinh doanh
Ngân hàng công thương
Ngân hàng nông nghiệp
Ngân hàng ngoại thương


Ngân hàng thương nhân.
1
Với một ngân hàng thương mại kiểu mẫu trên thế giới cung cấp cho khác hàng rất
nhiều dịch vụ tài chính: Có 25 dịch vụ tài chính ngân hàng thương mại có thể cung cấp thế
nhưng với hệ thống ngân hàng còn non trẻ chưa còn thiếu nhiều yếu tố cộng với kinh
nghiệm không nhiều: kỹ thuật, pháp lý, rủi ro lãi suất, vốn, nên cho đến nay việc cung cấp
tất cả 25 dịch vụ là chưa thể được.
Như vậy, mục tiêu hoạt động của ngân hàng thương mại khác hẳn mục tiêu hoạt
động của ngân hàng trung ương là quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh
toán và các dịch vụ ngân hàng khác, tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện để nâng cao
hiệu quả công tác nhà nước của ngân hàng trung ương thì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ
để tìm kiếm và tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ của pháp luật lại là mục tiêu
cơ bản, xuyên suốt quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại.
Mặc dù khi mới ra đời, hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay và
làm trung gian thanh toán nhưng ngày nay hoạt động của nó rất đa dạng. Ngoài các nghiệp
vụ truyền thồng, các ngân hàng thương mại ngày càng mở rộng và phát riển khai thêm nhiều
nghiệp vụ kinh doanh mới: tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo hành và đại lý phát hành, quản
lý danh mục đầu tư…
2. Chức năng của ngân hàng thương mại
2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Điều đó chứng tỏ
rằng một trong những chức năng quan trọng của ngân hàng thương mại là làm trung gian tín
dụng. Tức là một mặt ngân hàng thương mại huy động các khoản tiền nhàn rỗi ở mọi chủ thể
trong xã hội từ các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân, cơ quan nhà nước… Mặt khác,
ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay lại đối với các chủ thể
có nhu cầu bổ sung vốn. Theo cách thức đó, ngân hàng thương mại thực sự là một cầu nối
giữa những chủ thể dư thừa tạm thời về vốn và những chủ thể thiếu vốn tiền tệ tạm thời cần
vay, qua đó góp phần tạo lợi ích cho cả 3 bên: người gửi tiền, ngân hàng và người cho vay.
Người gửi tiền: nhận được lợi tức tiền gửi do ngân hàng trả cho họ và còn nhận được
các phương tiện thanh toán qua ngân hàng khá an toàn, nhanh chóng, thuận lợi.

Người đi vay: sẽ thoả mãn được nhu cầu kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh hoặc đời sống xã hội.
Ngân hàng thương mại: sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch
lãi suất cho vay và đi vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở, là điều kiện để đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng.
2
Như vậy, với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp phần bổ
sung thêm một kênh điều chuyển vốn cho nền kinh tế, làm phong phú thêm hệ thống các
kênh dẫn vốn, phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm cho người lao
động.
2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại cung cấp các
phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí cho các chủ thể tham gia thanh
toán và nâng cao khả năng tín dụng.
Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho ngân
hàng thương mại trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh
toán trực tiếp, các doanh nghiệp, cá nhân…có thể nhờ ngân hàng thương mại thực hiện
những công việc này dựa trên những khoản tiền mà họ đã gửi ở ngân hàng, bằng cách trích
chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của người phải trả sang tài khoản tiền gửi của người được
hưởng trên cơ sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến
và thủ tục ngày một đơn giản.
Những dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại ngày càng được ưa chuộng vì
nó đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể
trong nền kinh tế.
Đối với khách hàng của ngân hàng thương mại, nhờ các công cụ thanh toán do ngân
hàng phát hành ngày càng đa dạng (Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu…) mà
các khách hàng có thể lựa chọn một trong các phương tiện thích hợp, hạn chế được những
rủi ro việc nắm giữ và thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt và mang lại nhiều tiện ích khác.
Đối với ngân hàng thương mại, khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán sẽ tạo
điều kiện để tăng thêm doanh số hoạt động tín dụng. Bởi lẽ muốn thanh toán qua ngân hàng,

khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Trên cơ sở giúp ngân hàng huy động
số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đồng thời qua chức năng này, ngân hàng thương mại cũng đã góp phần giám sát kỷ luật tài
chính, giữ gìn kỷ cương kinh tế-tài chính trong toàn xã hội.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ thanh toán chuyển khoản qua
ngân hàng mà giảm được chi phí in ấn, phát hành và quản lý lưu thông tiền mặt, qua đó góp
phần giảm chi phí xã hội.
2.3 Chức năng tạo “bút tệ”
Những hoạt động mà ngân hàng thương mại thực hiện đã làm hình thành nên một cơ
chế tạo tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trên cơ sở số tiền gửi của khách hàng, ngân
3
hàng có để cho vay. Tuy nhiên, số tiền cho vay không chỉ dừng lại ở số tiền gửi ban đầu mà
khoản tín dụng do ngân hàng thực hiện tạo ra tiền dưới dạng bút tệ. Khi hết hạn vay, người
vay trả nợ cho ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông quay trở lại ngân hàng. Trong phạm vi
một nền kinh tế, hoạt động đi vay và cho vay diễn ra thường xuyên nên hàng ngày có tiền
bơm vào lưu thông và tiền rút khỏi lưu thông. Khối lượng tiền trong lưu thông tăng lên khi
luồng tiền bơm vào lưu thông (cho vay) lớn hơn luồng tiền rút khỏi lưu thông (trả nợ ngân
hàng).
Quá trình tạo bút tệ của ngân hàng thương mại có thể được mô tả thông qua ví dụ
sau:
Khách hàng A mang tiền đến ngân hàng gửi không kỳ hạn một số tiền là 10 triệu
đồng. Như vậy tiền gửi và tiền mặt tại quỹ tiền mặt tăng lên 10 triệu đồng, tiền của ngân
hàng X như sau:
Giả sử tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định là 10% thì ngân hàng
X có thể cho vay tới mức tối đa là 9 triệu. Nếu khách hàng B vay hết số tiền này và được
ngân hàng X cho phép sử dụng để chi trả cho C thì tình hình tại ngân hàng X diễn biến như
sau:
4
Tài sản có Ngân hàng X Tài sản nợ
Tiền mặt tại quỹ

tăng thêm
10 triệu 10 triệu
Tiền gửi
của A
Tài sản có Ngân hàng
X
Tài sản nợ
Dự trữ bắt buộc: 1 triệu
Cho B vay : 9 triệu
Tiền gửi của A: 10 triệu
Nếu khách hàng C mở tài khoản tại ngân hàng Y thì tình hình tại ngân hàng Y như
sau:
Trên số tiền gửi nhận được, ngân hàng Y chỉ cần giữ lại một số tiền dự trữ là tối tiểu
theo quy định của là 10% tức là 0,9 triệu đồng và có thể cho vay tối đa là 8,1 triệu đồng. Giả
sử khách hàng D vay số tiền này để trả nợ cho E và E mở tài khoản tại ngân hàng Z, ta có:
Đến lượt ngân hàng Z cho vay tình hình cũng diễn ra tương tự. Vì các ngân hàng
thương mại phải thực hiện dự trữ bắt buộc tại ngân hàng trung ương, nên số gia tăng tiền gửi
và cho vay giảm dần và đi đến triệt tiêu. Nói cách khác, quá trình huy động vốn vào tiền gửi
và cho vay của ngân hàng thương mại trên cơ sở lượng tiền mặt khách hàng gửi vào ban đầu
sẽ được kéo dài và chỉ dừng lại khi nào toàn bộ lượng tiền gửi ban đầu đó quay trở về hết
ngân hàng trung ương dưới dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc.
Như vậy bút tệ hay tiền gửi ghi sổ chỉ tạo ra khi ngân hàng cho vay và thông qua tài
sản tại ngân hàng. Việc tạo tiền tại ngân hàng thương mại có ý nghĩa kinh tế to lớn, nó mở ra
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất, đáp ứng nhu cầu sử dụng
tiền của xã hội bên cạnh lượng tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành. Tuy nhiên, việc
tạo ra bút tệ phải có những rằng buộc và giới hạn nhất định. Bởi vì bút tệ của người gửi đều
5
T i à sản có Ngân hàng Y Tài sản nợ
Tiền gửi tại NHTƯ: 9 triệu Tiền gửi của C: 9 triệu
Tài sản có Tài sản nợ Ngân hàng Y

Tiền gửi của C: 9 triệu-Dự trữ bắt buộc: 0,9 triệu
- Cho D vay : 8,1 triệu
Tài sản có Ngân hàng Z
T i sà ản nợ
-Tiền gửi tại NHTƯ: 8,1triệu -Tiền gửi của E: 8,1 triệu
có tính chất chuyển đổi ra tiền mặt. Nếu những người gửi bằng bút tệ đồng loạt yêu cầu rút
tiền mặt sẽ dẫn đến tình trạng ngân hàng thương mại không có khả năng thanh toán.
Mặc dù khả năng tạo bút tệ của các ngân hàng thương mại phụ thuộc nhiều vào
quyết định của các ngân hàng thương mại trong việc duy trì dự trữ dư thừa và quyết định sử
dụng tiền dưới hình thức nào (tiền mặt hay tiền bút tệ) của các chủ thể sử dụng tiền, nhưng
ngân hàng trung ương có thể kiểm soát và điều tiết nó khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
3. Vai trò của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, ngân hàng thương mại giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng được quy mô sản xuất đòi hỏi doanh
nghiệp phải có lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật hiện đại. Trong điều kiện đó, ngân hàng thương mại một mặt đáp ứng đầy đủ
về nhu cầu vốn thiều hụt, cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ Ban Giám đốc ngân
hàng khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, ngân hàng thương mại góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa các
vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
Thông qua các nghiệp vụ của mình, ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình
thành, duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt
khác, các ngân hàng thương mại góp phần điều chính ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát
triển mất cân đối hoặc khi có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Thứ ba, ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền
tệ của ngân hàng trung ương.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng trung ương. Để thực thi chính
sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc ,

thị trường mở… Chính các ngân hàng thương mại là chủ thể chịu tác động trực tiếp của các
công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính
sách tiền tệ đến nền kinh tế. Mặt khác cũng thông qua ngân hàng thương mại và các định chế
tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, lãi
suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi cho ngân hàng trung ương, để chính phủ và
ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với những tình hình cụ thể.
Thứ tư, ngân hàng thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa
các quốc gia. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế là hướng hội nhập vào cộng đồng kinh
tế khu vực và toàn thế giới, nên việc mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế là một tất yếu, nó
6
giúp cho mọi quốc gia phát huy được lợi thế của mình, giữa các nước có sự giúp đỡ thân
thiện với nhau. Để hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động kinh tế này đạt được hiệu quả cao, góp
phần khẳng định vị trí và sức mạnh cạnh trạnh cho các doanh nghiệp trên trường quốc tế thì
vai trò của ngân hàng thương mại là không thể thiếu được. Thông qua các nghiệp vụ tài trợ
xuất nhập khẩu, quan hệ thanh toán với các tổ chức tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp
quốc tế, ngân hàng thương mại giúp cho việc thanh toán, trao đổi mua bán được diễn ra
nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và có hiệu quả.
7
PHẦN II: MỘT SỐ NGHIỆP VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ ngân quỹ của ngân hàng thương mại gồm rất nhiều nghiệp vụ. Trong
phần này, chúng tôi chỉ giới thiệu một số nghiệp vụ sau: Chuyển tiền mặt vào tài khoản,
chuyển khoản theo lệnh của khách hàng, thu tiền và chi tiền. Trong đó cơ bản là hai nghiệp
vụ: thu tiền và chi tiền. Đây là hai nghiệp vụ khác nhau của ngân hàng thương mại nhưng lại
là hai mặt của một quá trình chúng có quan hệ mật thiết với nhau và làm tiền đề cho nhau
phát triển. Ngân hàng nào thực hiện tốt cả hai nghiệp vụ này thì ngân hàng đó làm ăn phát
triển và thực hiện tốt các mong muốn của mình cũng như của nhà nước.
* Chuyển tiền mặt vào tài khoản
Vệc chuyển tiền mặt vào tài khoản không có thiệt hại gì với chủ tài khoản và người
có liên quan, do đó việc chuyển tiền vào tài khoản không chỉ do chủ tài khoản và người

được uỷ quyền thực hiện, mà còn cho phép bất cứ ai thực hiện và ngân hàng cũng chỉ cần
biết tên của người đó và mà không cần biết đến lý lịch của người đó.
Việc chuyển tiền mặt vào tài khoản được thực hiện ở nơi mở tài khoản, cũng như bất
cứ chi nhánh nào của ngân hàng, việc nộp tiền mặt ở chi nhánh khác với nơi mở tài khoản
ngân hàng có thể thu phí hoặc không, điều này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng
và khách hàng.
Khi chuyển tiền mặt vào tài khoản, ngân hàng chỉ cần yêu cầu người nộp tiền cung
cấp các thông tin sau đây:
- Số tài khoản để chuyển tiền vào;
- Tên của chủ tài khoản;
- Số tiền nộp vào;
- Tên và chữ ký của người nộp tiền.
Hiện nay, chứng từ chuyển tiền vào tài khoản được áp dụng đối với các ngân hàng
việt nam được gọi là giấy nộp tiền.
Mẫu giấy nộp tiền như sau:

8
Ngân hàng
Giấy nộp tiền số
Người nộp
địa chỉ
Người nhận
Địa chỉ
Nội dung nộp
Tổng số tiền bằng chữ
Số tiền
Liên 2
Biên lai thu giao cho người
nộp tiền
Loại NV- KHTK…

Tài khoản có
Số:
Sau khi nhận tiền của khách hàng, ngân hàng sẽ ghi có vào tài khoản được chỉ định,
nếu là các chi nhánh thì ngân hàng thu tiền phải thực hiện nghiệp vụ để chuyển tiền vào
ngân hàng nơi mở tài khoản.
2. Chuyển khoản theo lệnh của khách hàng
Chuyển khoản là một nghiệp vụ ngân quỹ khá phổ biến ở ngân hàng. Theo nghiệp vụ
này các ngân hàng thừa lệnh khách hàng trích tiền từ tải khoản của họ để nhập vào tài khoản
của người thụ hưởng.
Lệnh chuyển khoản hay còn gọi là uỷ nhiệm chi là một văn thư, trong đó khách hàng
trích một khoản tiền trên tài khoản của mình để chuyển vào một tài khoản của người hưởng
thụ ở cùng một ngân hàng hay ở ngân hàng khác.
Về mặt hình thức lệch chuyển khoản có các chi tiết sau:
- Nơi và ngày ra lệnh;
- Uỷ quyền cho ngân hàng thực hiện chuyển khoản;
- Số tiền;
- Tên, địa chỉ và số tài khoản của người hưởng thụ;
- Số tài khoản của người ra lệnh;
- Chữ ký của người ra lệnh;
Lệnh chuyển khoản đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay được gọi là uỷ nhiệm
chi. Giấy uỷ nhiệm chi theo mẫu sau:
9
Uỷ nhiệm chi số Phần do ngân
hàng ghi nợ
Số hiệu NHA
…………….

Số hiệu NHB
Loại
nghiệp vụ

Ký hiệu
thống kê
Số tiền
Bằng số
Uỷ nhiệm chi được dùng để thanh toán trong một số trường hợp sau:
-Thanh toán trong cùng một ngân hàng.
-Thanh toán giữa các ngân hàng với nhau.
3. Thu tiền
Việc thu tiền của ngân hàng thương mại tương ứng với việc nộp tiền của khách hàng.
Việc nộp tiền này trong các trường hợp như: gửi tiền, trả vốn vay, trả lãi vay hay nộp tiền
mặt bán hàng.
Quy trình thu tiền của ngân hàng được diễn tả bằng sơ đồ sau đây
10
Lập giấy nộp
tiền
Lập phiếu thu hay hướng
dẫn khác hàng
Ký nhận trên giấy
nộp tiền hay
phiếu thu
KHÁCH HÀNG
TIẾP
VIÊN
KIỂM
NGÂN
THỦ QUỸ
KHÁCH
HÀNG
TIẾP
VIÊN

KIỂM SOÁT VIÊN KẾ TOÁN
Nhận
chứng từ
Vào sổ theo dõi và
giao chứng từ
Ký chứng từ giao lại
khách hàng
Vào sổ quỹ
tiền mặt
Đếm
tiền
Để thực hiện quy trình nộp tiền này về phía khách hàng cần lập giấy nộp tiền và
bảng kiểm ngân theo mẫu của ngân hàng.
Đây là một ví dụ của mẫu giấy gửi tiền :

NHNo & PTNT Giấy gửi tiền Số… Ký hiệu chứng từ
Chi nhánh: NHNo Tiên Du Ký hiệu ND N/vụ
Mã CN: 15 Loại tiết kiệm kỳ hạn……..
Bản số: 02 Ngày …tháng…năm 200…
Họ tên người gửi…………………………………………………
Địa chỉ ………………………………………………………….
CMND số………….Ngày cấp………nơi cấp…………………..
Số tiền bằng chữ…………………………………………………
…………………………………………………………………..
Người gửi tiền Thủ quỹ Kế toán viên Kiểm soát Giám
đốc
(ký và ghi rõ họ tên)
11
TK NỢ: 101101.01
TK CÓ:……………

SỐ TIỀN GỬI
…………………
SỐ TIỀN
………………….
4. Chi tiền
Nghiệp vụ chi tiền của ngân hàng tương ứng với nghiệp vụ lĩnh tiền của khách hàng.
Với nghiệp vụ chi tiền này thì khách hàng đến lĩnh tiền trong các trường hợp: rút vốn tiền
gửi, lĩnh lãi tiền gửi, lãnh tiền vay, rút tiền mặt để chi tiêu…quy trình lĩnh tiền gửi này được
thể hiện trên sơ đồ sau:
Thực hiện quy trình lĩnh tiền, khách hành phải lập giấy lĩnh tiền theo mẫu và thủ quỹ
phải lập bảng kiểm ngân tương tự như trong phần thu tiền. Có một điểm cần lưu ý, phiếu chi
phải được chuyển đến kiểm soát viên hay người có thẩm quyền ký duyệt, trước khi chuyển
đến thủ quỹ để chi tiền. Ngược lại, phiếu thu phải được thủ quỹ ký nhận tiền, trước khi
chuyển đến kiểm soát viên hay người có thẩm quyền ký xác nhận trên các sổ sách, chứng từ
có liên quan.
Ví dụ mẫu giấy lĩnh tiền như sau
NNNo &PTNT Giấy lĩnh tiền Ký hiệu chứng từ
Số….
Chi nhánh: Ký hiệu ND N/vụ
Mã CN 15 Loại tiết kiệm
Bản số 02 Ngày…tháng…năm…
Họ tên người nhận tiền……………………………………
Địa chỉ…………………………………………………….
CMND số……...Ngày cấp…… Nơi cấp………………….
…………………………………………………………….
12
Lập giấy lĩnh
tiền
Duyệt chi
KHÁCH HÀNG

Lập phiếu chi
TIẾP VIÊN
KIỂM SOÁT VIÊN
KHÁCH HÀNG THỦ QUỸ KẾ TOÁN
Nhận tiền Chi tiền
Vào sổ quỹ tiền mặt
SỐ SỔ
……………………
TÀI KHOẢN NỢ
……………………
SỐ TIỀN
…………
Người lĩnh tiền Thủ quỹ Kế toán Kiểm soát Giám đốc
Để giao dịch được với ngân hàng mọi khách hàng đều phải có một tài khoản trong
ngân hàng vì trong toàn bộ các công cụ thì tài khoản ngân hàng có vị trí quan trọng bậc nhất.
Phần lớn các nghiệp vụ do ngân hàng thương mại thực hiện thay cho khách hàng cũng như
làm việc với khách hàng đều được ghi vào tài khoản của khách hàng. Thông qua tài khoản
tại ngân hàng, thì ngân hàng sẽ cung cấp một loạt các nghiệp vụ có giá trị to lớn ở mọi nơi
một cách nhanh chóng mà vẫn chính xác và an toàn, hơn thế nữa còn tiết kiệm được nhiều
chi phí cho khách hàng.
Đối với ngân hàng, tài khoản là một công cụ kỳ diệu thực hiện cơ chế tạo tiền, làm
tăng sức mạnh của ngân hàng lên nhiều lần. Chính tài khoản ngân hàng mới tạo ra tiền ghi
sổ. Do đó thuận nhận ngân hàng là một hành vi hệ trọng và có ý thức cả về phía khách hàng
cũng như về phía ngân hàng, vì đây là sự khởi đầu cho các mối quan hệ giữa khách hàng và
ngân hàng. Khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản thuận tiện cho việc
giao dịch thì cũng có quyền cứu xét để quyết định có hay mở tài khoản cho khách hàng. Như
vậy hành vi mở tài khoản là biểu lộ sự tín nhiệm tương hỗ về cả hai phía. Ngân hàng có
quyền từ chối mở tài khoản đối với những khách hàng có tư cách “không rõ ràng” có những
hành vi sai trái như không sòng phẳng trong quan hệ tín dụng, cho mượn tên để mở tài
khoản…

* Các thủ tục pháp lý liên quan đến việc mở tài khoản
- Đối với pháp nhân: trước khi mở tài khoản cho loại đối tượng này ngân hàng phải
kiểm tra tư cách pháp nhân đó có hợp lệ hay không
Các giấy tờ cần thiết khi mở tài khoản
+ Giấy phép thành lập công ty do uỷ ban nhân dân cấp
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
+ Điều lệ công ty
+ Giấy chứng thực trụ sở giao dịch của công ty
+ Tờ báo có đăng thông báo về việc thành lập công ty…
Tuỳ thuộc từng loại công ty mà ngân hàng còn đòi thêm các giấy tờ khác
- Đối với thế nhân: mọi người thành niên theo luật dân sự đều có đầy đủ năng lực
pháp lý nếu không bị cấm quyền do luật pháp. Trong một số trường hợp để tránh việc ngân
hàng phải can dự vào những tranh chấp tài sản của khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu
khách hàng xuất trình giấy khai sinh đối với người độc thân hoặc bản hôn thú đối với người
đã lập gia đình để nắm thêm thân nhân của khách hàng. Tuỳ theo trường hợp những người
13
hoàn toàn vô năng lực pháp lý hay có năng lực pháp lý từng phần mà ngân hàng có những
cách xử lý khác nhau.
- Với mọi trường hợp yếu tố căn bản trong việc điều hành tài khoản là chữ ký của
khách hàng mà ngân hàng lưu trữ để đối chiếu và kiểm tra trong mọi trường hợp và ở mọi
dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Các chứng từ do khách hàng gửi đến ngân
hàng phải có chữ ký giống với chữ ký mẫu hoặc khi thay đổi phải thông báo kịp thời cho
ngân hàng mới hợp lệ và có hiệu quả
II. Nghiệp vụ huy động vốn
1. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về vốn
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo
lập hoặc huy động được, dùng nó để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thực chất vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi

trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào
ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng
quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu
nhập. Và như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình
thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động
kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát
triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động
và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại .
1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
- Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn,
bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân
hàng, vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh
doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng
là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán. Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh.
Chính vì thế, có thể nói: Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do
14

×