Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng KTNB trong các DNNN và sự phối hợp kiểm toán viên bên ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.12 KB, 34 trang )

Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

Lời mở đầu
* * *

Cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, cơ chế thị trờng ra đời đã làm cho
các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Vì thế
chức năng kiểm tra của kế toán dần dần không đáp ứng đợc nhu cầu của ngời sử
dụng thông tin và kiểm toán ra đời là một tất yếu khách quan. Từ khi xuất hiện,
ngành kiểm toán liên tục phát triển cả về lý luận, thực tiễn và ngày càng có vai trò
quan trọng, khẳng định mình là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu riêng.
Cơ chế thị trờng cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vơn lên từ
chính bản thân mình. Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải có những quyết định
và phơng pháp quản lý đúng đắn để bảo đảm cho việc kinh doanh có hiệu quả. Đó
cũng là lý do xuất hiện loại hình kiểm toán nội bộ (KTNB). Với sự hiện diện của
mình, KTNB giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có đầy đủ các thông tin chính
xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính đợc lập
cũng nh nhiều báo cáo khác để làm cơ sở cho việc quản trị doanh nghiệp.
KTNB tuy là một lĩnh vực mới mẻ nhng đó là một trong những công cụ hữu
hiệu và có vai trò hết sức to lớn trong việc đánh giá tính chính xác của các báo cáo
tài chính, kiểm toán tính tuân thủ, hoạt động trong doanh nghiệp, taọ niềm tin cho
những ngời sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của nhà quản trị.
Trớc đây có quan điểm cho rằng hoạt động kiểm toán nội bộ là sự mở rộng
công việc của kiểm toán viên bên ngoài. Thực tế, trong nhiều trờng hợp, chơng
trình kiểm toán nội bộ do kiểm toán viên bên ngoài đặt ra và trực tiếp sử dụng đẻ
phục vụ nhu cầu của kiểm toán bên ngoài. Hiện nay, tuy có một số mặt quan tâm
chung, nhng những u tiên của kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài lại rất khác
nhau. Kiểm toán viên bên ngoài có trách nhiệm chủ yếu với các bên, ngoài tổ chức
khách hàng, còn kiểm toán viên nội bộ thì chịu trách nhiệm chủ yếu với tổ chức.


Kiểm toán viên bên ngoài quan tâm đặc biệt đến sự đúng đắn của báo cáo tài chính,
còn kiểm toán viên nội bộ thì đặt mối quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của
các nghiệp vụ và khả năng có lãi của công ty. Mặc dù hai nhóm kiểm toán khác
nhau về nhiệm vụ chủ yếu, nhng vẫn có những mối quan tâm chung làm cơ sở cho
một sự kết hợp tác dụng rộng rãi.
Với tinh thần đó, đề tài Thc trng KTNB trong cỏc DNNN v s phi hp
Đào Thị Nhung

1

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

vi kim toỏn viờn bờn ngoi Vit Nam xin đợc đề cập đến những khía cạnh
liên quan đến công tác KTNB và sự phối hợp giữa kiểm toán viên nội bộ với kiểm
toán viên bên ngoài nh thê nào để đem lại hiệu quả.
Nội dung chuyên đề gồm:
Phần I: Những lí luận chung về KTNB và sự phối hợp với kiểm toán viên bên
ngoài.
Phần II: Thực trạng KTNB trong các DNNN và sự phối hợp với kiểm toán
viên bên ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Một số đề xuất cải thiện việc tổ chức hoạt động KTNB và sự phối
hợp giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nghiên cứu, song do hạn chế về kiến thức nên
chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận đợc sự góp
y của các thầy cô giáo để chuyên đề của em đợc hoàn thiện hơn nữa.

Để hoàn thiện chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của
TS. Nguyễn Phơng Hoa và các thầy cô trong khoa kế toán.

Đào Thị Nhung

2

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

Chơng I
Lý luận chung về kiểm toán nội bộ và sự phối
hợp với kiểm toán viên bên ngoài
1.1. Khái quát chung về KTNB
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của KTNB
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với
sự phát triển không ngừng về kinh tế và xã hội cũng nh nhiều mặt khác của mỗi
quốc gia . So với kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nớc thì loại hình KTNB ra
đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm KTNB. Nhng nó có sự
phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị
kiểm toán cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống KTNB là phơng tiện quản lí có hiệu quả
và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lí giám sát đợc toàn bộ hoạt động của đơn
vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nớc việc hình thành các bộ phận
KTNB để kiểm tra thờng xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều
tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây,

tầm quan trọng KTNB cũng lớn mạnh một cách tơng ứng, làm cho nó trở thành yếu
tố chính trong việc thiết lập hệ thông kiểm soát và kiểm tra nội bộ.ở một số nớc, cơ
quan lập pháp đã đa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lí để
tạo điều kiện cho KTNB hoạt động và phát triển. Bộ phận KTNB đã phát triển
mạnh ở Mỹ cũng nh ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đă đợc khuyến
khích bởi sự thành lập của trờng đào tạo kiểm toán nội bộ (IIA) năm 1941 tại New
York, tổ chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận
KTNB. Tiếp đó là sự xuất hiện của Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ ở Pháp từ năm
1965 và sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên nội
bộ của Pháp (IFAC) vào năm 1973. Phổ biến ở các nớc, việc trao đổi kinh nghiệm
và bồi dỡng nghiệp vụ kiểm toán nội bộ đã đợc thực hiện ở các hiệp hội kế toán
viên.
ở Việt Nam, theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với
doanh nghiệp Nhà nớc, ban hành kèm theo Nghị định 59/CP ngày 03 tháng 10 năm
1996 của Chính phủ (đợc sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 27/CP-1999)
báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà nớc phải đợc kiểm tra, xác nhận

Đào Thị Nhung

3

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

của kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ. Nh vậy quy đinh này đã bớc đầu tạo
hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Đến ngày

28 tháng 10 năm 1997 Bộ trởng Bộ tài chính ký Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT
ban hành Quy chế kiểm toán nôi bộ - kiểm toan nội bộ chính thức xuất hiện.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của kiểm toán
nội bộ
1.1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ
Hiểu một cách cơ bản, kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập đợc thiết lập
trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu
quản trị nội bộ đơn vị.
Theo Liên đoàn kế toán quốc tê (IFAC), kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá độc lập đợc thiết lập ra trong một doanh nghiệp nh là một loại dịch vụ cho
doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu
quả của hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là
giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách hiệu
quả, giúp cho các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị quán xuyến đợc các hoạt động
đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những qui tắc đặt ra có đợc tuân thủ
không? Tài sản có đợc sử dụng hợp lý không? Cán bộ công nhân viên làm việc có
hiệu quả không? Các qui định hiện hành có còn phù hợp khi điều kiện thay đổi?
Nh vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lí của bản
thân doanh nghiệp. KTNB là chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan
cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi của kiểm toán nội bộ bao gồm
tất cả mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp ở tất cả các cấp quản lí khác nhau.
KTNB xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ,
đa ra những phân tích, kiến nghị, t vấn mang tính chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh
nghiệp có cơ sở tin cậy trong việc quản lí có hiệu quả các hoạt động của doanh
nghiệp.
1.1.2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ
KTNB hình thành do nhu cầu quản lí cho nên chức năng của nó cũng trải qua
quá trình phát triển từ thấp đến cao cùng với khoa học quản lí kinh tế, trình độ và
kinh nghiệm quản lí của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm
của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, chức năng của KTNB hiện đại là

Đào Thị Nhung

4

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhng chức năng truyền thống của
KTNB là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính và
hoạt động, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu ích, có hiệu quả vốn và tài sản
doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB cần
phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế,
từng ngành và từng đơn vị.
1.1.2.3. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Về cơ bản, nhiệm vụ của KTNB bao gồm các nhiệm vụ sau:
Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán,
việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nớc.
Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lí của báo cáo quyết toán
do kế toán và các bộ phận khác trong DN lập ra.
Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của DN và các đối tác tham gia liên
doanh với DN. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lí, đầy đủ của số
liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn
thiện chúng.
Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lí của quy chế kiểm soát nội bộ,

đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, KTNB có trách nhiệm hớng dẫn
nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất
các quyết định quản lí, xử lí về tài chính kế toán và các nội dung xử lí khác.
1.1.2.4. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Do đặc trng của KTNB là kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của các báo cáo tài
chính trong doanh nghiệp, tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nên KTNB có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có
quyền:
Thứ nhất, KTNB độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc
lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ luật pháp và các
chuẩn mực, phơng pháp nghiệp vụ chuyên môn.

Đào Thị Nhung

5

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

-

Thứ hai, yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy
đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên
quan tới nội dung kiểm toán.
Thứ ba, có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan

tới đối tợng đợc kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp.
Thứ t, có quyền kiến nghị với đối tợng đợc kiểm toán có biện pháp sửa
chữa sai phạm và có quyền ghi ý kiến của mình vào báo cáo kiểm toán .
Thứ năm, có quyền đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị
và biện pháp về quản lý.
Đó là những quyền hạn cơ bản của KTNB. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào từng
doanh nghiệp, từng điều kiện cụ thể mà KTNB có thể có thêm các quyền hạn khác.
1.1.2.5. Nội dung hoạt động của kiểm toán nội bộ
Các hoạt động mà kiểm toán nội bộ tiến hành bao gồm:
Rà soát lại hệ thống kế toán và các qui chế kiểm soát nội bộ có liên
quan,giám sát sự hoạt động của các hệ thống cũng nh tham gia hoàn
thiện chúng.
Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính bao gồm việc rà
soát lại các phơng tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và
baó cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số d và
các bớc công việc.
Kiểm tra tính hiệu quả , sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động kể
cả các qui định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp.
Nh vậy, lĩnh vực chủ yếu của KTNB là kiểm toán hoạt động của các bộ phận
trong doanh nghiệp. Ngoài ra, KTNB cũng tiến hành các nội dung kiểm toán tuân
thủ để xem xét việc chấp hành các chính sách, qui định của doanh nghiệp.
1.2. Sự phối hợp giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài
1.2.1. Sự cần thiết phải phối hợp
Trên thực tế, doanh nghiệp đợc cung cấp những dịch vụ kiểm toán chính từ hai
nguồn khác nhau kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán viên bên ngoài điều này
đã tạo ra sự trong dợi là có những mối quan hệ qua lại làm cơ sở cho sự phối hợp
mà ngời ta mong muốn. Cho dù một loại hình dịch vụ kiểm toán là do kế toán viên
độc lập của Nhà nớc thực hiện còn loại hình kia do các nhân viên thuộc phòng
Đào Thị Nhung


6

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

kiểm toán nội bộ của bản thân doanh nghiệp đảm nhận, nhng cả hai nỗ lực kiểm
toán đều phải xử lý hồ sơ và nhân sự của cùng một công ty. Do đó, khả năng trùng
lặp không cần thiết về cố gắng hoặc những yêu cầu quá mức đối với phòng nhân sự
là không tránh đợc. Đồng thời, cũng thờng có khả năng tiềm tàng là toàn bộ nỗ lực
kiểm toán có thể, trong chừng mực nào đó, đợc hợp nhất theo một cách thức để đáp
ứng có hiệu quả hơn những mục tiêu và mục đích lớn hơn của doanh nghiệp. Vì
vậy, chúng ta cần biết rõ hơn những mục đích ban đầu của từng nhóm kiểm toán và
việc đạt đợc những mục đích này có thể liên quan nh thế nào tới, một cách gián tiếp
hoặc trực tiếp, những mối quan tâm chung. Chúng ta cũng cần biết nhiều hơn về
những mối quan tâm chung này và làm thế nào để có thể thoả mãn đợc chúng một
cách tốt nhất thông qua những kiểu phối hợp đặc biệt.
1.2.2. Cơ sở của sự phối hợp hiệu quả
1.2.2.1. Những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu
Sự phối hợp hiệu quả của kiểm toán viên (KTV) nội bộ và KTV bên ngoài
khởi đầu cùng với sự hiểu biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi
loại kiểm toán viên. Sau đó sự hiểu biết này sẽ là cơ sở cho việc nhìn nhận những
mối quan tâm chung.
Những mối quan tâm ban đầu của kiểm toán viên nội bô.
Kiểm toán nội bộ là chứng năng đánh giá độc lập đợc thiết lập trong một đơn
vị nh là một loại hình dịch vụ nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động của nó.
Mục đích của KTNB là nhằm giúp đỡ các thành viên của đơn vị trong việc hoàn

thành các trọng trách của mình một cách có hiệu quả bằng việc tổng kết và đánh
giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong việc làm này, KTV nội bộ theo đuổi việc bảo
vệ đơn vị ở những khía cạnh nh tính trung thực và độ tin cậy của thông tin, việc
tuân thủ chính sách, kế hoạch, thủ tục và quy định cũng nh việc bảo vệ tài sản.
Đồng thời, KTV nội bộ cũng theo đuổi việc giúp đỡ đơn vị nhằm đạt đợc độ thoả
dụng các nguồn lực một cách hữu ích hơn. Những mối quan tâm này có liên quan
đến toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ nhng chúng cũng bao gồm và dựa vào phần
việc của kiểm soát nội bộ mà gắn lion với việc ghi nhận các giao dịch và việc chuẩn
bị các báo cáo tài chính.
Những mối quan tâm ban đầu của kiểm toán viên bên ngoài.
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong một môi trờng mà ở đó trong nhiều phơng
diện nó có gắn bó mật thiết với cổ đông, nhà đầu t, chủ nợ, cơ quan của Chính phủ,
Đào Thị Nhung

7

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

các đơn vị khác và cá nhân khác. Trong mối tơng quan này, đơn vị phải cung cấp
thông tin và mô tả các khoản mục chính của báo cáo tài chính - đặc biệt là tình hình
tài chính đợc trình bày trong bảng cân đối kế toán và kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh đợc trình bày trong báo cáo thu nhập. Trách nhiệm của đơn vị là chuẩn
bị các báo cáo tài chính nhng chúng phải đợc ai đó ở ngoài đơn vị là ngời với tính
độc lập và kỹ năng nghề nghiệp đặc biệt có thể cung cấp một số các dịch vụ khác,
nhng nhiệm vụ ban đầu của anh ta có liên quan tới báo cáo tài chính là cung cấp ý

kiến độc lập cần thiết đã nêu trớc đây về sự công khai trung thực của những báo
cáo này. Do đó, mối quan tâm ban đầu của KTV bên ngoài phải thực sự là tính hợp
lý và đúng đắn mang tính nghề nghiệp của ý kiến độc lập này.
Tuy nhiên, các báo cáo tài chính của đơn vị dựa trực tiếp vào những thủ tục và
sổ sách quan trọng mà phản ánh kết quả hoạt động liên tục của đơn vị. Đây lại là hệ
thống kiểm soát kế toán nội bộ - một phần mối quan tâm rộng hơn của KTV nội bộ.
Nh vậy, mặc dù cả KTV nội bộ và KTV bên ngoài đều có những nhiệm vụ ban đầu
rất khác nhau nhng họ có mối quan tâm thứ yếu chung về tính đầy đủ của hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị. Đó là mối quan tâm chung cung cấp cơ sở hợp lý chủ
yếu cho nỗ lực phối hợp hiệu quả giữa hai loại kiểm toán này.
Những mối quan tâm chung thứ yếu khác.
Thực chất của mối quan tâm chính trong hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ
không thể phủ nhận những mối quan tâm chung thứ yếu khác. Chẳng hạn, đứng về
lợi ích của toàn bộ công ty, KTV nội bộ quan tâm đến việc tổ chức tìm kiếm dịch
vụ kiểm toán bên ngoài sao cho cung cấp giá trị tốt với giá phí phải trả và tối thiểu
hoá việc can thiệp vào các hoạt động khác đang diễn ra trong đơn vị. KTV nội bộ
có mối quan tâm cơ bản gần giống với KTV bên ngoài khi họ là bất cứ ngời bán
nào khác cùng với năng lực đặc biệt trong trờng hợp có hiểu biết tốt hơn về phạm vi
mà sản phẩm bán đặc thù đợc cung cấp. Mặt khác, KTV bên ngoài cũng quan tâm
đến lợi ích của công ty, đặc biệt với nghĩa là một khách hàng giàu có thì đó là một
nhân tố quan trọng hơn đối với uy tín và doanh thu của hãng kiểm toán t nhân bên
ngoài. ở một chừng mực nào đó, KTV bên ngoài cũng biết rằng nhà quản lý của
công ty đó sẽ chờ đợi ở họ lời khuyên trong việc đánh giá tính hiệu quả của kiểm
toán nội bộ, bao gồm cả phạm vi và chất lợng cả các dịch vụ khác nhau của kiểm
toán nội bộ. KTV bên ngoài cũng biết rằng quản lý thờng sẽ mong đợi nếu không
nói là đòi hỏi - rằng KTV bên ngoài sẽ đa ra tất cả sự cân nhắc có thể đối với công
việc của KTV nội bộ trong khi thực hiện công việc kiểm toán của chính mình. Do
Đào Thị Nhung

8


Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

đó, tất cả những mối quan tâm thứ yếu này của hai nhóm kiểm toán có ảnh hởng
đến việc tăng cờng thêm mối quan tâm đã có trong những nỗ lực phối hợp hiệu quả.
1.2.2.2. Thái độ đúng đắn của mỗi nhóm kiểm toán
Mặc dù những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của KTV nội bộ và KTV bên
ngoài đã tạo ra cơ sở phong phú cho việc thiết lập một nỗ lực phối hợp hiệu quả nhng mỗi nhóm kiểm toán vẫn cần có thái độ đúng đắn của mình. Những nhà kiểm
toán chuyên nghiệp cũng giống nh bất kỳ cá nhân nào khác. Do đó, họ có thể lệ
thuộc vào những vấn đề tơng tự nh lòng tự trọng, sự ghen tỵ, lợi ích cá nhân bị méo
mó, sự chậm chạp, thiếu tự tin và những yếu tố phản tác dụng khác. Những khả
năng này thờng không đợc xem xét một cách khách quan và vô tình trỏ thành cơ sở
cho sự khẳng định những lý do thực tế hơn đối với việc cản trở nỗ lực phối hợp hiệu
quả. Những vần đề này cũng thờng xuyên cản trỏ nỗ lực phối hợp hiệu quả thực sự.
1.2.2.3. Sự hiểu biết mang tính cộng tác ở bộ máy lãnh đạo
Nhân tố nền tảng chủ yếu khác cho sự phối hợp hiệu quả của hai nỗ lực kiểm
toán là sự hiểu biết những nhân tố có liên quan tồn tại ở bộ máy lãnh đạo. Trong
đó, ba cá nhân có ảnh hởng đặc biệt quan trọng là giám đốc tài chính, giám đốc
điều hành và chủ tịch uỷ ban kiểm toán của ban giám đốc.
Vai trò của giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính (CFO) là ngời có quan hệ
trực tiếp nhất với hãng kiểm toán bên ngoài - nơi chịu trách nhiệm về những cam
kết kiểm toán đặc biệt bởi Giám đốc tài chính thờng phải đảm nhận trách nhiệm về
các hoạt động kiểm toán tài chính và kế toán mà cấu thành nên hệ thống kiểm soát
kế toán nội bộ và cũng bao gồm hàng loạt các hoạt động dẫn đến kết quả cuối cùng
là các báo cáo tài chính đang đợc KTV bên ngoài xem xét. Chính Giám đốc tài

chính là ngời làm việc đầu tiên với kiểm toán vien bên ngoài để đi tới sự thoả thuận
về bản chất và phạm vi xem xét của KTV bên ngoài.
Nh vậy, mức độ quan trọng của các dữ liệu kiểm toán nội bộ và những khả
năng tận dụng chúng thông qua sự phối hợp hiệu quả, mà Giám đốc tài chính nhấn
mạnh, đã trở thành một định tố chính của quan tâm mà KTV bên ngoài dành cho
nỗ lực phối hợp này. Đồng thời, Giám đốc tài chính có thể tác động, ở các mức độ
khác nhau, bằng niềm tin hay quyền lực của mình, đối với sự cộng tác đó.
Vai trò của giám đốc điều hành. Theo truyền thống, giám đốc điều hành
(CEO) giao cho giám đốc tài chính trách nhiệm về các hoạt động gắn liền với các
Đào Thị Nhung

9

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

hoạt động kiểm soát tài chính và việc thoả thuận với KTV bên ngoài về hoạt động
kiểm toán theo thông lệ hàng năm. Tuy nhiên, việc ban hành Luật những hành vi
hối lộ nớc ngoài vào năm 1977 đã có xu hởng nhiều hơn đến giám đốc điều hành
trong những phần việc này. Đặc biệt kết quả của những quy định do Uỷ ban Chứng
khoán và Giao dịch đề xuất đã yêu cầu giám đốc điều hành ký một báo cáo quản lý
trong đó bao gồm việc trình bày về tính đầy đủ của hệ thống kiểm soát kế toán nội
bộ. Tất cả những quy định này có xu hớng ảnh hởng sâu rộng hơn đến giám đốc
điều hành trong việc giao dịch với KTV bên ngoài và do đó đóng góp quan trọng
trong việc thúc đẩy cách tiếp cận nghiêm túc hơn về tiến trình phối hợp.
Vai trò của Uỷ ban kiểm toán. Uỷ ban kiểm toán, dới sự lãnh đạo của chủ tịch

uỷ ban kiểm toán (CAC), ngày càng nhận trách nhiệm nhiều hơn về việc tuyển
dụng và thông qua các điều khoản hợp đồng của KTV bên ngoài. Sau đó, Uỷ ban
kiểm toán cũng có vai trò tích cực hơn trong việc phối hợp các nỗ lực của kiểm
toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài. Điều này không có nghĩa rằng vai trò của các
bên liên quan khác là không cực kỳ quan trọng. Nhng sự tham gia của uỷ ban kiểm
toán có uy tín lớn - đặc biệt là chủ tịch uỷ ban kiểm toán - và mối quan tâm sâu
rộng hơn về sự phối hợp hiệu quả đã làm tăng thêm sức mạnh cho việc đạt đợc thoả
thuận phối hợp một cách tốt nhất có thể.
Tầm quan trọng của việc hiểu biết đúng đắn. Trong tất cả các hoạt động phối
hợp của các quan chức cấp cao của đơn vị đã đợc trình bày ở trên, việc hiểu biết
đúng đắn của tất cả các cá nhân ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt cần thiết là
sự hiểu biết về những mối quan tâm ban đầu và thứ yếu của mỗi nhóm kiểm toán và
sự cần thiết phải hoà trộn các nỗ lực kiểm toán đã đợc phối hợp theo cách thức cho
phép có thể đạt đợc tất cả các mục tiêu chính. Một điều cũng đặc biệt quan trọng là
các bên liên quan nhận ra sự cần thiết về trình độ nghiệp vụ cao của mỗi nhóm
kiểm toán và sự cần thiết về quan hệ nghiệp vụ ở mức độ tơng tự giữa KTV nội bộ
và KTV bên ngoài. Điều này cũng bao gồm việc tiếp tục thừa nhận rằng chức năng
của nhóm kiểm toán nội bộ không phải chỉ là trợ giúp cho KTV bên ngoài đạt đợc
các mục tiêu kiểm toán của họ, đồng thời các nguồn lực của nhóm kiểm toán nội
bộ phải đợc bảo vệ để có thể cung cấp một cách hợp lý các dịch vụ cho ban quản lý
nhằm đạt đợc những mục tiêu nghiệp vụ.
1.2.2.4. Những nhân tố thúc đẩy sự phối hợp
Việc phối hợp có hiệu quả giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài bị tác động bởi
Đào Thị Nhung

10

Kiểm toán 46b



Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

những nhân tố mang tính thúc đẩy. Tuy nhiên, các nhân tố thúc đẩy khác nhau thờng có xu hớng chòng chéo lên nhau. Các nhân tố này biến đổi từ các nhân tố ở
mức độ tơng đối thấp đến những nhân tố có tầm quan trọng ở mức độ cao. Chẳng
hạn, việc cản trở những đại diện của hai nhóm kiểm toán này đạt đợc vị trí nghề
nghiệp nhất định một cách đồng thời và sau đó cản trở việc theo đuổi xem xét
những sổ sách giống nhau hoặc thẩm vấn ngời lao động của cùng một công ty. Mặt
khác, những nhân tố thúc đẩy có thể là sự hỗ trợ mang tính hợp tác ở mức độ cao
hơn. Ví dụ, việc trao đổi tài liệu và thông tin liên quan cùng với việc thảo luận và
thảo luận chung về việc triển khai công việc hơn nữa và việc khắc phục những nhợc
điểm đã đợc chỉ ra.
1.2.2.5. Những cản trở sự phối hợp
Cũng giống nh những nhân tố thúc đẩy, những cản trở ảnh hởng tới nỗ lực
phối hợp có hiệu quả có thể biến đổi từ những nhân tố ở mức độ rất thấp đến những
vật cản rất lớn. Chúng có thể thay đổi từ những nhợc điểm của riêng KTV nội bộ
hoặc KTV bên ngoài đến những hoạt động ở mức độ cao hơn hoặc những áp lực
cản trở sự phối hợp có hiệu quả có thể phát triển ở mức độ công việc. Tóm lại,
chúng tạo thành những vật cản đối với sự phối hợp có hiệu quả. Những kiểu cản trở
chính cần đợc liên tục lu ý gồm:
Tính đầy đủ của những chuẩn mực kiểm toán nội bộ.
Những khuyết điểm có thể về mặt tổ chức của KTV bên ngoài.
Trách nhiệm pháp lý tiềm tàng của KTV bên ngoài.
1.2.3. Những yếu tố của sự phối hợp hiệu quả
Sự phối hợp giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài có thể đợc thực hiện dới
nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, những hoạt động phối hợp này có thể nhóm
thành 11 loại sau:
1. Trao đổi tài liệu kiểm toán.
2. Sự chia sẻ trực tiếp về thông tin.

3. Sử dụng phơng pháp luận phổ biến.
4. Hỗ trợ công việc hợp tác.
5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ.
6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán.
7. Lập kế hoạch chung.
Đào Thị Nhung

11

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

8. Phân loại công việc kiểm toán.
9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán.
10.Lập báo cáo chung lên các tổ chức cấp cao hơn.
11. Đánh giá chéo.
1.2.3.1. Trao đổi tài liệu kiểm toán
Kiểu phối hợp cơ bản xoay quanh việc trao đổi tài liệu kiểm toán. Hai tài liệu
chủ yếu là hồ sơ và báo cáo kiểm toán. Những tài liệu này có thể có do KTV nội bộ
và KTV bên ngoài cung cấp cho nhau.
Trao đổi hồ sơ kiểm toán. Đối với hồ sơ kiểm toán, tính sẵn sàng cung cấp
chúng của KTV nội bộ cho KTV bên ngoài là vấn đề ít gây tranh luận nhất và do
đó là phổ biến nhất trong thực tế. Tính logic ở đây là KTV bên ngoài phải kiểm tra
những hồ sơ kiểm toán này ở phạm vi có thể dựa vào công việc của KTV nội bộ.
Hơn nữa, nó thờng đợc nhìn nhận là điều đúng đắn có thể làm cho thông tin trở nên
sẵn có cho KTV bên ngoài mà mặt khác KTV bên ngoài sẽ phải có thêm thời gian

để thu thập với những cách khác nhau. Trong một số trờng hợp KTV nội bộ có thể
do dự trong việc công khai hồ sơ kiểm toán mà chất lợng về mặt chuyên môn của
chúng không đợc nh mong muốn, nhng điều này sẽ là một vấn đề cần có sự sửa
chữa cơ bản đối với những sự kiện của chính nó. Chắc chắn rằng, không một lý do
thật sự thích đáng nào có thể làm cơ sở cho việc KTV nội bộ từ chối cung cấp cho
KTV bên ngoài những hồ sơ kiểm toán này.
Trờng hợp ngợc lại, về mặt nguyên tắc, tính sẵn sàng của những hồ sơ kiểm
toán của KTV bên ngoài cho KTV nội bộ không tơng hợp với tính độc lập và những
trách nhiệm rộng hơn của họ đối với thế giới bên ngoài. Do đó, sự sẵn sàng của
những hồ sơ kiểm toán của KTV bên ngoài là vấn đề khó. Tuy nhiên, tính sẵn sàng
này đợc KTV bên ngoài nới rộng ra, ngoại trừ trờng hợp có thể về bản chất đặc
biệt.
Trao đổi những báo cáo. Việc trao đổi những báo cáo giữa KTV nội bộ và
KTV bên ngoài cũng là hợp lý và là thực tế mang tính đặc thù chung. Những báo
cáo của KTV nội bộ đã có ảnh hởng đến những nguyên tắc tơng tự nh hồ sơ kiểm
toán. Do đó, những báo cáo của KTV nội bộ thờng đợc cung cấp một cách tự
nguyện cho KTV bên ngoài và chúng thiết lập nên một phơng tiện quan trọng để
tiếp tục thông báo một cách hợp lý cho KTV bên ngoài. Tuy nhiên trong một số tr ờng hợp, những báo cáo đặc biệt của KTV nội bộ có thể đợc giữ kín hoặc không
Đào Thị Nhung

12

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

phải là mối quan tâm của KTV bên ngoài.

Đối với KTV bên ngoài cần phải nhận thức rằng những kiểu báo cáo mô tả bổ
sung cho ý kiến mang tính nguyên tắc là ít phổ biến hơn và chúng thay đổi theo
những điều khoản tuyển dụng kiểm toan riêng. Những báo cáo đặc biệt của KTV
bên ngoài có thể cũng đợc giữ kín và không nên đa lý do vì sao chúng không đợc
cung cấp cho KTV nội bộ. Do đó trong việc cung cấp này, thông thờng nó là thực tế
mang tính chuẩn mực.
1.2.3.2. Chia sẻ trực tiếp thông tin
KTV nội bộ có thể đi sâu vào những vấn đề trong việc trình bày rộng hơn và
chi tiết hơn về những hoạt động điều hành mà sẽ là quan trọng đối với KTV bên
ngoài. Đồng thời, KTV bên ngoài phụ thuộc rất nhiều vào dòng thông tin hữu ích.
Do đó, sự chia sẻ trực tiếp thông tin giữa hai nhóm kiểm toán là rất cần thiết nhằm
đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cả hai nhóm.
1.2.3.3. Sử dụng những thủ tục kiểm toán phổ biến
Trong nhiều trờng hợp, ngời ta tin rằng hai nhóm kiểm toán đều mong muốn
rắng nhóm kiểm toán nội bộ sẽ tuân theo những thủ tục kỹ thuật tơng tự với những
thủ tục đợc KTV bên ngoài áp dụng. Những ví dụ phổ biến nhất về điều này là
những thủ tục kiểm toán đợc áp dụng trong những phần riêng của toàn bộ nỗ lực
kiểm toán và sự sắp xếp những hồ sơ kiểm toán có liên quan. Sự hợp lý ở đây là tất
cả những thủ tục này đã làm cho KTV bên ngoài dễ dàng hơn trong việc xem xét và
sử dụng công việc của KTV nội bộ.
Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng những thủ tục phổ biến này chỉ là yếu tố tơng đối không quan trọng và dựa nhiều hơn vào năng lực nghề nghiệp cơ bản.
Trong bất kỳ tình huống nào, các mục tiêu của KTV nội bộ là rộng hơn so với
những mục tiêu của KTV bên ngoài và ở điểm nào đó cấn có sự tiếp cận khác nhau
đối với những nhiệm vụ kiểm toán riêng rẽ này. ở một mức độ nào đó các thủ tục
phổ biến này có thể là hữu ích đối với những tình huống mang tính tập thể nhng sự
xét đoán cần phải đợc kiểm nghiệm trong việc áp dụng thực tế. Tóm lại, nhũng thủ
tục kiểm toán phổ biến là một công cụ đợc sử dụng cùng với sự cẩn thận và thận
trọng hợp lý.
1.2.3.4. Hỗ trợ công việc hợp tác
Đào Thị Nhung


13

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

Trong những năm trớc đây khi mà sự nhấn mạnh vào nỗ lực phối hợp là ban
đầu nhằm giảm thời gian và giá phí kiểm toán của KTV bên ngoài, nhân viên của
phòng kiểm toán nội bộ có thể đợc bổ sung cho KTV bên ngoài và làm việc trực
tiếp dới sự giám sát của KTV bên ngoài. Ngày nay, theo những điều kiện của việc
thực hành hiện tại, bất kỳ sự sắp xếp công việc cộng tác nào phải đợc cân nhắc cẩn
thận. KTV nội bộ phản đối việc chỉ định trực tiếp nh là sự ngụ ý về một vị trí công
việc hạng hai đã dẫn đến việc anh ta không đợc tiếp tục năng lực nghề nghiệp của
chính mình. Điều này tồn tại đặc biệt khi KTV nội bộ đợc chỉ định thật sự nhiều
tuổi đời và nhiều kinh nghiệm hơn KTV bên ngoài. Vấn đề này có thể đợc giải
quyết bằng cách KTV nội bộ có vai trò nh một nhà t vấn đợc chỉ định hoặc cùng
với sự hiểu biết thấu đáo rằng sự sắp xếp này liên quan đến những ngời ngang hàng
làm việc vì một nền tảng tạm thời nhằm đáp ứng nhu cầu đã đợc thừa nhận một
cách rõ ràng. Một giải pháp khác là phân công ngời có chuyên môn tốt nhất chịu
trách nhiệm về nỗ lực công việc chung dù cho ngời đó là KTV nội bộ hoặc KTV
độc lập.
1.2.3.5. Hợp tác trong đào tạo cán bộ
Một tình hình đang tồn tại khá phổ biến là khi nào thì hoặc KTV nội bộ hoặc
KTV bên ngoài có đợc năng lực đào tạo hữu ích cho cả hai nhóm. KTV bên ngoài,
ngời cung cấp dịch vụ cho rất nhiều khách hàng, có thể có đợc các nguồn lực cho
việc phát triển các kiểu chơng trình đào tạo khác nhau hữu ích cho KTV nội bộ

thuộc những công ty đi thuê kiểm toán. Tuy nhiên, trong những ví dụ khác, KTV
nội bộ có thể đang chỉ đạo những khoá đào tạo hoặc triển khai những tài liệu đào
tạo khác mang tính duy nhất đối với công ty. Về phần KTV bên ngoài, có thể có
nhu cầu sử dụng những tài liệu này cho nhân viên của mình, đặc biệt cho những cá
nhân thực hiện công việc kiểm toán riêng biệt. Tuy nhiên trong thực tế, việc KTV
nội bộ và KTV bên ngoài có những nhiệm vụ ban đầu khác nhau có nghĩa là mỗi
nhóm kiểm toán thờng có nhiều thuận lợi hơn trong việc triển khai và điều hành các
chơng trình đào tạo của chính mình.
Thông thờng, khi những tài liệu đào tạo của một nhóm này đợc nhóm kia sử
dụng thì việc sử dụng này đợc cung cấp mà không có trách nhiệm kèm theo bởi vì
những mối quan tâm chung do đó đã đợc đáp ứng. Tuy nhiên trong những năm gần
đây, các hãng kiểm toán bên ngoài đã phát triển các chơng trình đào tạo cho KTV
nội bộ nh là một công việc kinh doanh mạo hiểm riêng và tạo ra nguồn thu nhập bổ
Đào Thị Nhung

14

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

sung mang tính nghề nghiệp.
1.2.3.6. Triển khai trợ giúp những tài liệu kiểm toán
Hai nhóm kiểm toán nội bộ và bên ngoài sẽ phát triển những tài liệu tìm they
và các khuyến nghị làm ảnh hởng tới các hoạt động của tổ chức. Mặc dù những
nhân viên trong tổ chức sẽ có trách nhiệm chính một cách cá nhân hay tập thể với
việc đa ra cân nhắc cuối cùng cho những khuyến nghị nh vậy và hành động sửa

chữa có liên quan nhng cả hai nhóm kiểm toán đều có chung mối quan tâm tới bản
chất và phạm vi của tất cả những thiếu sót đã đợc biết đến và việc sửa chữa sau này
của những thiếu sót đó. Do đó, cả hai sẽ rất nhạy cảm với tất cả những phát triển
trong lĩnh vực này và sẽ phối hợp nhau trong việc đạt đến mức độ hiệu quả mong
muốn trong những thủ tục hoạt động cơ bản.
Nh chúng ta đã thấy, mối quan tâm ban đầu của KTV bên ngoài chính là tính
đúng đắn của báo cáo tài chính và sẽ không phải dính líu quá sâu vào các thủ tục
hoạt động ngầm nh KTV nội bộ. Do đó, KTV bên ngoài sẽ thờng có ít các phát
hiện kiểm toán và khuyến cáo liên quan đến những thủ tục hoạt động này hơn.
Cũng vì thế mà KTV bên ngoài sẽ ít liên quan đến việc triển khai các kết quả kiểm
toán hơn KTV nội bộ. Tuy nhiên, một số phát hiện kiểm toán và khuyến cáo đặc
biệt của KTV bên ngoài có tầm quan trọng rất lớn đối với việc quản trị công ty. Kết
quả là kế hoạch triển khai kết quả kiểm toán ban đầu và tiếp theo của KTV bên
ngoài đợc các bên liên quan xem xét với độ quan tâm đặc biệt.
Điều quan trọng là KTV nội bộ và bên ngoài phối hợp với nhau bằng mọi cách
để có thể chia sẻ thông tin liên quan tới những gì thuộc về tính hiệu quả hiện nay và
trong tơng lai của các quá trình hoạt động trong công ty, đặc biệt trong nhiều lĩnh
vực liên quan tới hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ. Bằng cách làm việc cùng nhau,
họ đảm bảo một cách tốt nhất hoạt động sửa chữa cần thiết. Đồng thời cả hai cũng
sẽ có khả năng tốt hơn để hình thành những nỗ lực kiểm toán đang tiến triển của
riêng mình nhằm phục vụ một cách tốt nhất lợi ích chung của họ và sau đó là lợi
ích riêng của từng phía.
1.2.3.7. Lập kế hoạch chung
Khi KTV nội bộ và KTV bên ngoài làm việc một cách hợp tác nhằm đạt tới
một sự phối hợp kiểm toán có hiệu quả họ sẽ ngày càng nhận thấy rằng họ cần phải
ngồi lại cùng nhau để vạch ra những chơng trình kiểm toán riêng của mỗi bên trớc
Đào Thị Nhung

15


Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

khi bắt tay vào công việc kiểm toán thực tế. Quá trình lên kế hoạch liên quan đến
uỷ ban kiểm toán và mỗi nhóm kiểm toán sẽ phụ trách một số năm. Quá trình này
cũng đã đợc trình bày một phần trong chơng trình ngân sách đợc thông qua cho
năm tới. Mặc dù KTV bên ngoài sẽ thờng tham gia tới một mức độ nào đó vào quá
trình lên kế hoạch dài hạn này, nhng những kế hoạch của KTV bên ngoài sẽ tập
trung hơn vào nhu cầu mỗi năm của mình nhằm phát triển đề nghị của mình để đạt
đợc sự chấp nhận của hội đồng quản trị. Đặc biệt, đề nghị đó đợc đa ra sau khi
kiểm toán hàng năm đã hoàn tất.
Thông qua việc lên kế hoạch chung, yêu cầu của mỗi nhóm kiểm toán đợc hoà
hợp với nhau. Một mặt, KTV nội bộ quyết định xem lên làm gì trong công việc
kiểm toán của mình, nhng với độ linh hoạt thích hợp, nhằm tạo điều kiện tốt nhất
cho các nhu cầu kiểm toán trong năm tới của KTV bên ngoài. Mặt khác KTV bên
ngoài lại xác định những việc cần làm nhằm thực hiện trách nhiệm kiểm toán của
mình, có cân nhắc tới những gì mà nhóm kiểm toán nội bộ có thể cung cấp, khi làm
việc đó thì một trọng số thích hợp đợc gắn cho quy mô của đội ngũ nhân viên kiểm
toán nội bộ, những khả năng đợc biểu hiện và mức độ sẵn sàng với công việc kiểm
toán của đội ngũ này.
Những lợi ích thu đợc từ sự phối hợp này về bản chất cũng giống nh những lợi
ích thu đợc từ bất kỳ loại lên kế hoạch trớc nào. Các KTV giống nh các quản trị gia
khác, cần phải xác định trớc cái gì họ phải thực hiện và thực hiện nh thế nào. Điều
này là đúng bất chấp thực tế là những kế hoạch đã đợc đồng ý nh vậy có thể và cần
phải đợc sửa đổi khi có sự thay đổi các điều kiện. Nhờ áp dụng những công cụ quản
lý trình độ cao này vào thành quả của toàn bộ những mục tiêu kiểm toán đã cung

cấp cơ sở cần thiết nhất cho một cố gắng kiểm toán đợc phối hợp có hiệu quả và là
sự thực hành chuẩn mực trong một tổ chức lớn điển hình đợc quản lý tốt.

1.2.3.8. Phân đoạn công việc kiểm toán
Trong khi việc lên kế hoạch trớc giữa KTV bên ngoài và KTV nội bộ cung cấp
cơ sở thiết yếu cho một nỗ lực phối hợp có hiệu quả thì những lợi ích của nó cũng
sẽ đạt đợc một cách tốt nhất khi công việc kiểm toán - đã đợc lên kế hoạch trớc - đợc phân chia theo cách phù hợp nhất với yêu cầu của hai nhóm nhân viên chuyên
môn. Yêu cầu này sẽ chia công việc kiểm toán đã đợc lên kế hoạch sao cho mỗi
nhóm có thể xử lý những phân đoạn công việc kiểm toán của mình bằng cách độc
Đào Thị Nhung

16

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

lập. Việc phân đoạn này đạt đợc nhờ sự phân công cho mỗi nhóm kiểm toán những
trách nhiệm kiểm toán ban đầu đối với từng thiết bị sản xuất, phòng ban, bộ phận,
công ty hay là những thủ tục nhất định. Với trách nhiệm ban đầu của mình, nhóm
kiểm toán sẽ tiếp tục lên kế hoạch chi tiết hơn cho những nỗ lực kiểm toán đòi hỏi
và triển khai kế hoạch đó với đội ngũ nhân viên của mình và sự giám sát của chính
nó. Đồng thời, hồ sơ kiểm toán, báo cáo, tài liệu và các khuyến nghị cũng đợc chia
sẻ theo cách đã đợc thoả thuận trớc. Cũng vào thời gian ấy, công việc của KTV nội
bộ sẽ tuỳ thuộc vào mức độ cần xem xét thêm khi cần phải đáp ứng yêu cầu của
KTV bên ngoài tơng ứng. Đây là một phần của việc hỗ trợ cho đánh giá cuối cùng
của KTV bên ngoài đối với tính chính xác của báo cáo cuối năm của công ty.

1.2.3.9. Tổng hợp các báo cáo kiểm toán
Sự truy nhập của một nhóm kiểm toán này vào nhóm kia ở các lĩnh vực nh các
thủ tục kiểm toán, hồ sơ kiểm toán và báo cáo đã đợc thoả thuận. Mức độ và cách
thức mà sự truy nhập này diễn ra đã trở thành những yếu tố chủ yếu của mọi cố
gắng phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài. Trong trờng hợp kiểm toán nội
bộ đã thực hiện rất tốt công việc của mình thì hồ sơ kiểm toán trở thành tài liệu chủ
yếu cho cả hai nhóm kiểm toán. Trờng hợp này KTV bên ngoài vốn có những tài
liệu riêng của mình nhng những tài liệu đó rất hạn chế về phạm vi. Những tài liệu
này thờng là những nhận xét của KTV bên ngoài với hồ sơ của KTV nội bộ và kết
quả kiểm tra hạn chế thêm công việc của KTV nội bộ ở đằng sau những hồ sơ trên.
1.2.3.10. Lập báo cáo chung lên cấp cao hơn
Một khía cạnh đặc biệt quan trọng của một nỗ lực phối hợp có hiệu quả là
khuynh hớng hớng tới việc báo cáo chung lên các cấp tổ chức ở cấp cao hơn.
Những cấp trên này thờng là những quản trị viên tập đoàn, uỷ ban tập đoàn hoặc
ban giám đốc (gồm cả uỷ ban kiểm toán của nó). Báo cáo chung này bao gồm một
phạm vi rộng. Ví dụ nó có thể dới dạng thảo luận chung ở cấp độ tổ chức cao hơn
với những báo cáo riêng của mỗi nhóm kiểm toán. Trờng hợp khác nó có thể thông
qua nhiệm vụ chung với cả hai nhóm giải quyết một câu hỏi mà cả hai có mối quan
tâm chung. Hai nhóm kiểm toán khi đó có thể đa ra một báo cáo chung duy nhất
hoặc báo cáo riêng đợc phối hợp. Khi đó, nhóm nhận báo cáo - chẳng hạn nh uỷ
ban kiểm toán không buộc một nhóm riêng nào giải quyết vấn đề đó mà để cho
hai nhóm kiểm toán tự chọn cách phân chia và xử lý công việc kiểm toán.
Đào Thị Nhung

17

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán


Khoa Kế toán

1.2.3.11. Đánh giá chéo
Việc hai nhóm kiểm toán có chung một cơ sở kiến thức chuyên môn, đồng
thời việc họ biết rất rõ công việc của nhau đã cung cấp cơ sở đáng kể cho sự đánh
giá chéo có hiệu quả. Sự đánh giá của KTV bên ngoài đối với KTV nội bộ thể hiện
qua sự tin tởng với công việc của KTV nội bộ. Hơn nữa, lợi ích riêng của KTV bên
ngoài khi kiểm toán nội bộ là tốt, kết hợp với khả năng tiếp cận của mình với cấp tổ
chức bên trên đã giúp KTV nội bộ có đợc vị thế tốt hơn và tiềm lực trong tổ chức.
Do đó KTV nội bộ nên khuyến khích việc đánh giá chéo của KTV bên ngoài và lợi
dụng triệt để nó.
Sự đánh giá của KTV nội bộ với KTV bên ngoài cũng là không tránh khỏi và
hữu dụng mặc dù có những sự khác biệt truyền thống. Trong một vài trờng hợp
KTV bên ngoài có thể quá coi thờng khả năng hoặc thái độ đúng đắn của những ý
kiến xây dung từ ngời ngoài và do đó không thật sự tán thành sự đánh giá của KTV
nội bộ. Tuy nhiên, việc chấp nhận sự đánh giá chéo có tính xây dung là phù hợp
hơn với cách tiếp cận theo kiểu quan hệ đối tác chuyên môn đã đợc thảo luận. Do
vậy, có thể mong đợi rằng sẽ có nhiều hơn sự đánh giá chéo hai chiều. Điều này
cũng đã đợc chấp nhận thực hành trong nhiều tổ chức lớn.
Nh vậy, mối quan tâm chung của cả kiểm toán nội bộ lẫn kiểm toán bên ngoài
đối với sự hoàn chỉnh của hệ thống kiểm soát kế toán nội bộ tạo ra một động lực
đáng kể cho từng nhóm kiểm toán nhằm tiếp thêm nỗ lực hợp lý để đạt đợc nỗ lực
hợp tác hiệu quả. Sự phối hợp hiệu quả là điều có ý nghĩa đối với các bên có liên
quan. Đồng thời, sự phối hợp hiệu quả cũng quan trọng trong việc thoản mãn mối
quan tâm chung của tổ chức. Thách thức dối với các bên là nhận thức đợc và ủng hộ
các nhân tố đóng góp vào việc đạt đợc sự phối hợp hiệu quả; hiểu đợc mục tiêu chủ
yếu của mỗi nhóm kiểm toán trong khi tạo dung lên những mối quan tâm chung
chắc chắn làm cơ sở cho việc đạt tới những mục tiêu đó.


Đào Thị Nhung

18

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

chơng II
thực trạng ktnb trong các doanh nghiệp nhà nớc và sự phối hợp với kiểm toán viên bên ngoài ở
việt nam hiện nay
2.1. Sự cần thiết phát triển KTNB trong các doanh nghiệp nhà nớc hiện nay
Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán đợc tiến hành trong phạm vi doanh
nghiệp, do ngời của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý
sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của bản thân doanh nghiệp. Với mục tiêu
nh vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản ếy tài chính hiện nay - DNNN đợc quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến
mức cao nhất - thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các DNNN.
Theo Nghị định số 59/1996/NĐ-CP ra ngày 3/10/1996 của Chính phủ, từ năm
1997 cơ quan quản lý tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt
quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công
khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây
là một quy định nhằm nâng cao tính tự động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các
DNNN nhng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trớc năm
1997, sau khi quyết toán năm đợc duyệt, lãnh đạo doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm
về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về các mặt hoạt động và các
giải pháp tài chính trong năm vì đã đợc cơ quan có thẩm quyền của Nhà nớc xác

nhận. Mọi sai sót, vi phạm của doanh nghiệp cũng đã đợc giải quyết hoặc xoá bỏ
thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra
phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung
thực và hợp lí, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh
đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công
khai báo cáo tài chính theo cơ chế mới về quản lý tài chính DNNN.
ở Việt Nam hiện nay mô hình Hội đồng quản trị ở các Tổng công ty đợc
thành lập theo nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nớc. Trong mỗi Tổng
công ty nhà nớc còn có Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị. Ngoài các
thành viên chuyên trách, Hội đồng quản trị còn có một số thành viên kiêm nhiệm.
Trong Ban kiểm soát, ngoài Trởng ban kiểm soát, phần lớn các uỷ viên và các thành
viên kiêm nghiệm, có thành viên không tuộc tổng công ty. Với bộ máy nh vậy, ban

Đào Thị Nhung

19

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà
nớc mới đợc ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nớc. Vì vậy ở các
DNNN trớc hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB giúp chủ
doanh nghiệp điều hành và quản lí mọi mặt hoạt động, đó là một nhu cầu cần thiết
và nên làm vì sự phát triển của doanh nghiệp.
2.2. Thực trạng hoạt động KTNB và sự phối hợp với KTV bên ngoài ở nớc ta

trong thời gian qua
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng và cần thiết nhng những hiểu biết của
chúng ta về lĩnh vực này còn quá ít so với kiểm toán Nhà nớc và kiểm toán độc lập.
Trên thực tế, hầu nh có rất ít các công trình hay đề tài nghiên cứu khoa học một
cách hệ thống và sâu sắc về KTNB .Trong điều kiện đó, vớng mắc về nhận thức là
lẽ đơng nhiên, việc triển khai thực hiện hoạt động KTNB ở các doanh nghiệp lại
càng lúng túng.
Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện
cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị. Tuy nhiên vì là giai
đoạn đầu nên việc hình thành mới đợc rất ít và chậm chạp, chủ yếu tập trung ở các
tổng công ty lớn, các doanh nghiệp có qui mô lớn. Hơn thế nữa, KTNB bớc đầu còn
gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá
mỏng manh so với cả một khối lợng công việc khổng lồ.
Có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam vẫn cha thực sự phát
triển mà vẫn ở giai đoạn hình thành và hoàn thiện. Lực lợng kiểm toán viên còn quá
ít, hệ thống chính sách, qui chế về KTNB cha đợc xây dựng đồng bộ, cha đáp ứng
đợc nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động cha cao. Mặc dù vậy,
hiện nay Nhà nớc ta đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB
trong doanh nghiệp. Theo điều 36, chơng 5, nghị định số 59/1996/NĐ-CP ngày
3/10/1996 qui định : Doanh nghiệp tự tổ chức kiểm toán nội bộ báo caó tài chính
của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết chính là nhằm tạo cho
DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong doanh nghiệp hay
không. Mặt khác giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam
hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của nhà nớc về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu
thuẫn.
Về việc phối hợp giữa KTV nội bộ với KTV bên ngoài, ở nớc ta hiện nay, tầm
quan trọng cũng nh hiệu quả của hoạt động này cha đợc đánh giá đúng mức nên
Đào Thị Nhung

20


Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

việc phối hợp thực hiện không chặt chẽ và không đạt đợc đúng mục tiều của sự
phối hợp; phối hợp mới chỉ dừng lại ở việc KTV nội bộ cung cấp tài liệu cho KTV
bên ngoài, giữa KTV nội bộ và KTV bên ngoài cha có hoạt động lập kế hoạch
chung để hoà hợp các hoạt động kiểm toán của hai nhóm với nhau; hoạt động tổng
hợp các báo cáo kiểm toán với nhau cũng cha phát huy đợc tác dụng của nó
Nh vậy, xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì
chúng ta thấy rõ rằng KTNB vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành và phát triển,
việc thí điểm mới chỉ dừng lại ở các Tổng công ty, các doanh nghiệp có qui mô lớn.
Việc hình thành mô hình KTNB nói chung còn gặp nhiều khó khăn, lúng tong, do
đó cha khai thác hết hiệu quả của sự phối hợp với kiểm toán viên bên ngoài. Tuy
nhiên, việc phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nớc ta trong điều kiện
nền kinh tế thị trờng là một đòi hỏi cần thiết và tất yếu vì sự tồn tại và hng thịnh
của chính các DNNN trong cơ chế thị trờng canh tranh khốc liệt.
2.3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức hoạt động KTNB
Về mặt pháp lý
Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ
ban hành nghị định số 59/1996/ND-CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 về Quy chế
quản lí tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN. Theo đó các báo
cáo tài chính của các DNNN buộc phải đợc kiểm toán bởi kiểm toán viên độc lập
hoặc kiểm toán viên nội bộ. Trên cơ sở nghị định 59/ CP này, Bộ tài chính đã ban
hành quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng 10 năm 1997 và thông t số
52/1998/TT-BTC ngày 16 tháng 04 năm 1998 nhằm đa ra những quy chế về KTNB

và tổ chức thực hiện công việc thiết lập bộ máy KTNB trong các DNNN.Với các
quyết định và thông t này, việc tổ chức bộ máy KTNB là một yêu cầu bắt buộc. Xét
về khía cạnh pháp lý thì mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế
cho kiểm toán độc lập, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào ngời lãnh đạo cao
nhất trong doanh nghiệp nên tính độc lập của KTNB cha cao và kém hiệu quả. Mặt
khác bộ phận KTNB tuy độc lập vơí các bộ phận khác trong doanh nghiệp nhng
vẫn là một bộ phận trong doanh nghiệp nên không thể hoàn toàn độc lập với doanh
nghiệp. Vì vậy báo cáo KTNB đợc doanh nghiệp rất tin tởng nhng ít có giá trị pháp
lý. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp không tích cực trong việc bộ phận
KTNB trong doanh nghiệp mình vì phải bỏ ra chi phí thành lập mà hiệu quả lại ch a

Đào Thị Nhung

21

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

cao, cha tạo đợc niềm tin cho những ngời sử dụng thông tin về báo cáo tài chính do
KTNB thực hiện kiểm toán.
Đồng thời trong quá trình thực hiện NĐ 59/CP và QĐ số 832/TC/QĐ/CĐKT
(28/10/1997) và thông t số 52/1998/TT-BTC (16/4/1998) đã nảy sinh vớng mắc
rằng có những DN với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt đông đặc thù và đội
ngũ kế toán viên đủ mạnh mà không nhất thiết phải thiết lập bộ máy KTNB. Đối
với các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, lãnh đạo doanh nghiệp có thể kiểm tra chặt
chẽ mọi hoạt động thì viêc thành lập một bộ phận KTNB này là quá thừa, hoàn toàn

không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm công tác này. Nh
đã nói, việc thành lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, nhiều trờng hợp lợi ích từ việc thiết lập bộ máy KTNB nhỏ hơn so với chi phí bỏ ra nên sự
bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải có bộ phân KTNB là điều không hợp lí.
Chính vì thế, Bộ tài chính tiếp tục ra thông t số 171/1998/TT-BTC (22/12/1998)
nhằm thay thế thông t số 52/1998/TT-BTC. Theo đó, việc tổ chức bộ máy KTNB là
không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tuỳ theo qui mô sản xuất kinh doanh,
địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán... mà tổ chức cho phù hợp
hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN đã tổ chức bộ máy KTNB theo
qui định tại thông t số 52/1998/TT-BTC thì tuỳ theo tình hình cụ thể của doanh
nghiệp có thể tiếp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức lại theo quy định ở thông t
này.
Nh vậy, một hệ thống chính sách cha hoàn thiện, triệt để lại hay thay đổi khiến
cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các doanh nghiệp
đang thực hiện theo chính sách này thì lại chuyển đổi theo chính sách khác gây
lãng phí tiền của, công sức và thời gian. Đồng thời do tính chất cha ổn định của hệ
thống pháp lí làm cho các DNNN chần chừ trong việc thành lập bộ phận KTNB mà
vẫn còn đợi tính hoàn thiện của hệ thống này, thấy rõ hơn tính thiệt hơn khi thành
lập bộ phận KTNB so với việc thuê kiểm toán nhà nớc hay kiểm toán độc lập. Đây
cũng là những lí do làm cho tiến trình thành lập KTNB trong các DNNN ở nớc ta
còn chậm và cha hiệu quả.
Mặt khác, tại điều 6, mục 2, quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT đã nêu rõ: Bộ
phận KTNB đợc tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh
trong doanh nghiệp (cả phòng kế toán - tài chính), chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực
tiếp của (Tổng) giám đốc DN. Đây là một quy định hoàn toàn đúng với nguyên tắc
và thông lệ chung về tổ chức bộ máy KTNB. Tuy vậy đến thông t 171/1998/TTĐào Thị Nhung

22

Kiểm toán 46b



Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

BTC ở điểm 3 lại có sự nới lỏng nh sau: tuỳ thuộc vào qui mô sản xuất kinh
doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể của trình độ năng
lực đội ngũ kế toán, doanh nghiệp có thể chọn lựa hình thức tổ chức bộ máy KTNB
cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy KTNB không bắt buộc
đối với các doanh nghiệp. Vậy đối với các doanh nghiệp tổ chức bộ máy KTNB thì
tổng giám đốc doanh nghiệp lựa chọn và ra quyết định hình thức tổ chức bộ máy
cho phù hợp. Theo sự nới lỏng này, nhiều đơn vị đã sát nhập trở lại bộ phận KTNB
vào bộ máy kế toán, từ đó làm mất đi nguyên tắc tối quan trọng của tổ chức bộ máy
KTNB là độc lập với các bộ phận còn lại và chỉ phụ thuộc vào ngời lãnh đạo cao
nhất của đơn vị. Chính điều này đã làm mất đi tính hiệu quả trong công việc của
KTNB do phụ thuộc vào bộ phận kế toán, tao ra cái nhìn thiếu tin tởng vào hiệu quả
hoạt động của KTNB ở các doanh nghiệp cha thành lập bộ phận KTNB, làm cho
các doanh nghiệp này cha thực sự muốn hình thành bộ phận KTNB trong doanh
nghiệp mình.
Đó là những nguyên nhân chủ yếu của hệ thống chính sách pháp lý ảnh hởng
đến sự hình thành bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt cán bộ và quy mô của bộ phận KTNB trong DNNN ở nớc ta hiện
nay
Trớc hết, xét về mặt tiêu chuẩn KTV nội bộ: Do KTV nội bộ là ngời kiểm toán
các hoạt động của doanh nghiệp cả về tài chính và kiểm toán hoạt động cho nên đòi
hỏi về mạt đạo đức, KTV nội bộ phải là ngời thẳng thắn, trung thực, công minh,
nhiệt tình với công việc, có tác phong làm việc thận trọng, có uy tín trong doanh
nghiệp, đợc lãnh đạo và quần chúng tin tởng. Về trình độ chuyên môn, KTV nội bộ
phải là những chuyên gia có trình độ nghề nghiệp vững vàng. Trớc hết, đó là những
ngời có trình độ kế toán thành thạo, có thể là những cán bộ đã tốt nghiệp đại học kế

toán hoặc đại học ngành kế toán, ngân hàng, tài chính nhng đã làm nghiệp vụ kế
toán ít nhất 5 năm hoặc đã qua chức vụ kế toán trởng đơn vị. Nói chung về mặt
nghiệp vụ, KTV nội bộ ít nhất phải tơng đơng kế toán trởng một đơn vị. Tuy nhiên
trên thực tế, cán bộ về kiểm toán ở nớc ta cha có nhiều nên nhu cầu về KTV là rất
lớn và vẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ phận KTNB lại phải hội đủ các tiêu chuẩn
ở trên. Do vậy, hiện nay một số DNNN có quy mô nhỏ rất khó khăn khi thành lập
KTNB vì không có nhân sự theo tiêu chuẩn, nhất là chọn trởng phòng (trởng ban)
KTNB. Điều này dẫn đến hiện tợng điều động, luân chuyển cán bộ không hợp lý.
Rất nhiều kế toán viên vừa là ngời của bộ phận KTNB, vừa kiêm nhiệm cả công tác
Đào Thị Nhung

23

Kiểm toán 46b


Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

kế toán. Đây là vấn đề trái với nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong quy chế KTNB.
Hơn thế nữa, khi thành lập bộ phận KTNB thờng làm phát sinh tăng biên chế, chi
phí, ảnh hởng đến hiệu quả hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
thế, việc hình thành KTNB ở các doanh nghiệp nhỏ là rất khó và không mấy hiệu
quả.
Trong điểm 4, thông t 171/1998/TT-BTC lại bổ sung thêm tiêu chuẩn của
KTV: trờng hợp KTV nội bộ cha có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính
hoặc quản trị kinh doanh thì tối thiểu phải có trình độ từ trung cấp chuyên ngành
kinh tế tài chính hoặc quản trị kinh doanh, đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản
lý tài chính kế toán ít nhất 5 năm, đã làm việc tại doanh nghiệp 3 năm trở lên nhng

không thấp hơn trình độ nghiệp vụ chuyên môn của kế toán trởng doanh nghiệp
đó. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, quy định tiêu chuẩn KTV nội bộ nh
vậy là cha thật hợp lý. Bộ máy đào tạo của các doanh nghiệp cha phát triển nên hệ
thống đào tạo ở các trờng đại học phải mang tính chuyên sâu mới có thể đồng nhất
trình độ nghiệp vụ của các cử nhân quản trị kinh doanh với cử nhân kế toán, kiểm
toán. Quy định này đối với KTV nội bộ có phần quá cao, có thể chỉ phù hợp đối với
kiểm toán trởng đơn vị. Hơn nữa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của kế toán và
kiểm toán có phần gần gũi nhng không hoàn toàn đồng chất và thuộc các chức
danh công tác khác nhau nên rất khó so sánh. Bộ máy KTNB do đơn vị tự quyết
định (đợc nêu ở điểm 3 của thông t này) và tiêu chuẩn KTV nội bộ là đã qua huấn
luyện về nghiệp vụ kế toán, kiểm tra nội bộ theo nội dung chơng trình thống nhất
của Bộ tài chính và đợc cấp chứng chỉ (điều 12 mục 4 quyết định
832/TC/QĐ/CĐKT) nên qui định này thiếu sự nhất quán và cũng không hoàn toàn
cần thiết.
Nh vậy ngay trong bản thân các chế định pháp lý đã có những điểm không phù
hợp nh vậy nên việc thành lập KTNB gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề nhân sự.
Một nguyên nhân chính nữa dẫn đến sự khó khăn và chậm chạp trong việc
hình thành KTNB ở các DNNN nớc ta hiện nay là đại đa số các DNNN có quy mô
nhỏ và trung bình. Nh đã nói ở trên, việc thành lập bộ phận KTNB trong các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ là hết sức khó khăn, chỉ có các doanh nghiệp quy mô lớn,
các Tổng công ty mới có nhiều điều kiện để thành lập bộ phận KTNB mà số này lại
rất ít.

Đào Thị Nhung

24

Kiểm toán 46b



Đề án môn học Kiểm toán

Khoa Kế toán

Với những khó khăn nh vậy, hiện nay bộ phận KTNB trong các DNNN ở Việt
Nam còn rất ít, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp có quy mô lớn, các Tổng
công ty. Quá trình hình thành nói chung còn gặp phải rất nhiều trở ngại.
Khó khăn về phơng tiện vật chất, kĩ thuật
Hiện nay do giới hạn về mặt phơng tiện kĩ thuật ở nớc ta, do cha có điều kiện
cơ sở, vật chất để áp dụng các thành tựu của khoa học kĩ thuật vào công việc nên
với một khối lợng công việc kiểm toán rất lớn. Nh vậy, trong một doanh nghiệp đòi
hỏi phải có KTV nội bộ, để duy trì bộ phận KTNB phẩi tốn nhiều thời gian, công
sức, tiền của mà hiệu quả kiểm toán lại không cao. Hoặc nếu các DNNN nào có đủ
các điều kiện để áp dụng các phơng tiện thiết bị khoa học kĩ thuật vào công việc thì
lại bị giới hạn về trình độ sử dụng, không phát huy đợc tối đa các tính năng của
công cụ hiện đại, gây lãng phí giá trị sử dụng của máy móc. Đây là hai mặt của một
vấn đề cần phải giải quyết để phát huy tính hiệu quả, hữu ích của KTNB. Song
không phải muốn giải quyết là làm đợc ngay một sớm một chiều mà cần phải có
thời gian, vật chất và một chiến lợc phát triển ở tầm vĩ mô.
Trên đây là một số khó khăn và nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng chậm
chạp, kém hiệu quả của quá trình hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam
hiện nay. Nhận thức đơc khó khăn là để tìm ra giải pháp khắc phục, đó mới chính là
mục tiêu, gốc rễ của mọi vấn đề.

Đào Thị Nhung

25

Kiểm toán 46b



×