Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CHỨC NĂNG, CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.57 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
-----ooo0ooo-----

ĐỀ TÀI 08:

GVHD

: PHẠM QUANG HUY

SVTH

: TRẦN THỊ HẠNH DUNG

LỚP

: KẾ TOÁN NGÀY – K20

Tp.HCM, ngày 08 tháng 11 năm 2012


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 2

MỞ ĐẦU
Ngân hàng nhà nước (NHNN) là một tác nhân kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong
nền kinh tế thị trường. Việc hoạch định và thực thi các chính sách của nó có ảnh hưởng đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Là cơ quan cấp bộ, trực thuộc chính phủ, NHNN có
tính đặc thù riêng. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bước hội nhập với khu
vực và thế giới các chức năng cũng như cơ chế tài chính của NHNN cũng liên tục được bổ sung,
củng cố nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước. Chính vì thế mà đề tài nghiên cứu “Chức


năng và cơ chế tài chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam” rất cần thiết nhằm nghiên cứu và
tìm ra những điều còn bất cập trong cơ chế nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế tài chính nói
chung của nền kinh tế.
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.1. Lịch sử ra đời và khái niệm
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945: Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự
thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi
thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là
ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân
hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ
Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách
mạng Tháng 8 lúc bấy giờ là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập
tự chủ. Tại Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), ngày 6 tháng 5 năm 1951 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam – Ngân hàng của Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành
giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với
mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng
về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm
4 thời kỳ như sau:
a. Thời kỳ 1951 – 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành
lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 3

chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính;


Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi
ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực
lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
b. Thời kỳ 1955 – 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây
dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh
tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều
kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục
và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam.
c. Thời kỳ 1975 – 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải
phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền
cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống
ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền
Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các
loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam – Bắc
vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động
như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc
thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng – chuyển dần sang hoạt
động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho
tới ngày nay.
d. Thời kỳ 1986 đến nay:
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi
chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh
xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần .
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế

hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp – Trong đó lần đầu tiên đối
tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 4

- Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền

tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung
ương, là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân
hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ
giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành
cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.
- Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại
hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng
và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời
hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng
thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của
ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính…
Tháng 12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998. Theo đó, NHNN là cơ quan của Chính phủ và là NHTW của nước CHXHCN Việt
Nam. NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân
hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho
Chính phủ.
Từ đó đến nay, ngành Ngân hàng nói chung và NHNN Việt Nam nói riêng đã có những
bước tiến khá dài trên con đường phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như
trong nước có nhiều biến động khó lường, những mặt hạn chế của ngành ngân hàng nói chung và
của NHNN nói riêng là điều khó tránh khỏi. Nhận thức được tầm quan trọng của việc cải cách
NHNN, Đảng và Chính phủ đã xác định rõ: “Tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với cơ

cấu và tính chất hoạt động như một Ngân hàng Trung ương hiện đại, hoạt động theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN”
1.1. Mô hình NHTW ở một số nước và vận dụng kinh nghiệm vào VN
Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở Châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền
mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán (promises
to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Châu Á.
Ngược lại 500 năm trước đấy, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền (Knight Templar) thời Trung Cổ sử
dụng một cơ chế có thể nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng trung ương. Các giấy tờ cam kết
thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho rằng các hoạt động này đặt nền


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 5

tảng cơ bản cho hệ thống ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó, Thành Cát Tư Hãn phát hành
tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển (Bank of Sweden) năm 1668 với
sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh (Bank of England) ra đời tiếp sau đó
năm 1694 bởi doanh nhân người Scotland là William Paterson tại London theo yêu cầu của chính
phủ Anh với mục đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó.
Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu cầu của Quốc hội tại đạo luật
mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen (Glass-Owen Bill). Tổng thống Woodrow Wilson
ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (Tiếng Anh là People’s Bank of China – Ngân hàng
Nhân dân Trung Hoa) bắt đầu các chức năng ngân hàng trung ương năm 1979 cùng với chính
sách cải cách kinh tế. Vai trò ngân hàng trung ương của nó được đẩy mạnh năm 1989 khi đất
nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc đã là một ngân hàng trung ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có
tham khảo Ngân hàng Trương ương Châu Âu vốn là mô hình ngân hàng trung ương mới nhất,
chi phối ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản lý kinh tế
quốc gia cho các ngân hàng đó.

Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW:
(a) NHTW độc lập với Chính phủ
(b) NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ
(c) NHTW thuộc Bộ Tài chính.
Liên quan đến việc lựa chọn mô hình NHTW, nhiều chuyên gia kinh tế nhất trí rằng
không có mô hình NHTW nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không hoàn toàn
nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội
và thể chế chính trị của từng nước. Điều đó có nghĩa rằng mỗi một quốc gia có thể vận dụng một
mô hình NHTW khác nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Ở nước ta, NHNN là cơ
quan trực thuộc Chính phủ và Thống đốc là thành viên Chính phủ.
Theo một nghiên cứu được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào tháng 12/2004, về cơ
bản, các NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ gồm:
(i) Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động;
(ii) Độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động;
(iii) Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành;
(iv) Độc lập tự chủ hạn chế.


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 6

Để góp phần làm sáng tỏ phần nào vấn đề đặt ra, chúng ta hãy cùng phân tích từng cấp độ

độc lập tự chủ nói trên và đối chiếu với điều kiện thực tế ở Việt Nam để có thể rút ra kết luận hợp
lý; cụ thể là:
- Thứ nhất, độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, NHTW
có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ (CSTT), chế độ tỷ giá (nếu không theo chế độ thả
nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được
pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất mà một NHTW có thể đạt được mà ví
dụ điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc
lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt

thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi CSTT thắt chặt. Bên
cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTW có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở
các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTW mới có thể thực hiện được mục tiêu
đề ra. Ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp
luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong
quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó
khăn. Hơn nữa, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức
độ tự chủ này là không phù hợp với NHNN ít nhất là trong thời gian trung hạn.
- Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ này này, NHTW
cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nhưng khác với cấp độ độc lập tự
chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động ở chỗ một mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW được
quy định cụ thể trong Luật, ví dụ như mục tiêu hoạt động hàng đầu của NHTW Châu Âu (ECB)
là “duy trì sự ổn định giá cả”. Với cấp độ độc lập tự chủ này, việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi
hỏi phải sửa đổi Luật NHTW. Vả lại, tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ
này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai,
cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế- tài
chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện;…);
- Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, Chính phủ
hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTW. Khi quyết
định được thông qua, NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm
quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất.
Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand (The Reserve Bank
of New Zealand) và Ngân hàng Canada (The Bank of Canada). Nói cách khác, NHTW được trao


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 7

đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt
được các chỉ tiêu đã được thỏa thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTW.
- Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ


là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá
trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt
động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là
trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt
đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập.
Một số công trình nghiên cứu khác nhau cũng đã đi đến kết luận rằng những nước mà
NHTW có mức độ độc lập tự chủ cao thường có tỷ lệ phạm phát thấp (Eijffinger & De Haan,
1996). Nói chung, các nghiên cứu về NHTW thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc
xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTW chuyên sâu, độc lập và kiên định với
mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các
tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính
độc lập của NHTW cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu tôn
trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTW độc lập về mặt
hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.
Như vậy, cấp độ “Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp nhất với
NHNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, đặc biệt là trong bối
cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần
loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ
này cho phép dung hòa giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong
một giai đoạn nhất định.
Như vậy trong thời gian trước mắt, chúng ta không nên đặt vấn đề lựa mô hình NHTW
độc lập với Chính phủ. Thay vào đó, để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và mục
tiêu đề ra, NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra các quyết
định chính sách mà không có sự can thiệp từ phía các cơ quan nhà nước hay các áp lực chính trị;
đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT,
nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn chế việc tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính
phủ. Bên cạnh đó, cũng cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự
chủ về ngân sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ
một cách có hiệu quả nhất.



CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 8

CHƯƠNG 2. CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
2.1. Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam

Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII
thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 16 tháng 6 năm 2010 đã xác định chức năng của NHNN như
sau:
- Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân
hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng
trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho
Chính phủ (khoản 3 điều 2).
Nhiệm vụ và quyền hạn của NHNN Việt Nam được quy định cụ thể như sau:
1. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống
thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2. Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt và tổ chức thực hiện.
4. Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn bản quy phạm
pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
5. Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực
hiện.
6. Tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ.
7. Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và

ngân hàng theo quy định của pháp luật.
8. Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền giấy, tiền kim loại; thực hiện nghiệp vụ phát hành,
thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại.
9. Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy
phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ
chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy
phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng;
cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 9

thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của
pháp luật.
10. Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng có vốn nhà nước theo quy định của pháp
luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
11. Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo
quy định của pháp luật.
12. Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng
các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây
mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình
chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp
nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt;
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức
tín dụng.
13. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức thực
hiện phòng, chống rửa tiền.
14. Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm

tiền gửi.
15. Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế.
16. Tổ chức, quản lý, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng dịch vụ thanh toán cho
các ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ thống thanh toán trong nền
kinh tế.
17. Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.
18. Quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước.
19. Quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của pháp luật.
20. Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm phán, ký kết
điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là
đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân công, uỷ quyền của
Chủ tịch nước hoặc Chính phủ.
21. Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ và ngân hàng.
22. Đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân
hàng quốc tế.


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 10

23. Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng; thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng.
24. Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước.
25. Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ
bảo lãnh.

26. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa
học và công nghệ ngân hàng.
27. Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Cơ chế tài chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam thực chất vừa là cơ quan của chính phủ, vừa là

ngân hàng trung ương (NHTW) của đất nước. Với tư cách là cơ quan của chính phủ, NHNN làm
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, về tổ chức và hoạt động ngân hàng (NH) của các tổ chức
tín dụng (TCTD), về hoạt động NH của các tổ chức khác. Với tư cách là NHNN của đất nước,
NHNN làm vai trò của NH phát hành tiền; NH của các TCTD và NH làm dịch vụ tiền tệ, thanh
toán cho chính phủ. Để làm chức năng là NHTW, NHNN trước tiên phải là một NH thực sự,
khác với các bộ ngành khác cũng là cơ quan của chính phủ bởi đặc thù là NHTW với tư cách
pháp nhân, được cấp vốn pháp định và trực tiếp hoạt động sinh lời, mặc dù NHTW không phải là
doanh nghiệp, NHTW không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. NHNN Việt Nam cũng như các bộ phận
khác đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Nhưng khác với các bộ phận khác, NHNN quản
lý nhà nước trong lĩnh vực của minh không phải chỉ bằng các biện pháp hành chính, cưỡng chế
mà chủ yếu thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô và hoạt động nghiệp vụ sinh lời. Kinh tế thị
trường ngày càng phát triển, hoàn thiện và đi vào chiều sâu, nền kinh tế Việt Nam được xác định
là nền kinh tế mở. Do gắn với đặc thù kinh tế thị trường, hoạt động nghiệp vụ và hoạt động tài
chính của NHNN hết sức linh hoạt và khó dự báo trước, NHNN phải lấy thu bù chi hàng ngày,
lấy các khoản thu nghiệp vụ và dịch vụ để trang trải các chi phí hoạt động, nhất là trong các
trường hợp can thiệp của thị trường để thực hiện chính sách tiền tệ. Mặt khác là NHNN của đất
nước, NHNN có tính độc lập tương đối trong hoạt động, đặc tính này vừa biểu hiện trong việc
hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, vừa đòi hỏi tính chủ động của NHNN về thu chi tài
chính.
Thực tiễn ở nước ta cũng đã không coi NHNN là một cơ quan hành chính sự nghiệp, các
văn bản pháp quy lâu nay quy định đã thể hiện nội dung này. Chẳng hạn: - Thông tư 72/TTg của


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 11

Thủ tướng chính phủ ngày 23/02/1961 đã quy định “NHNN được áp dụng chế độ hạch toán kinh
tế toàn ngành từ 01/01/1961”, - Pháp lệnh NHNN Việt Nam ban hành ngày 24/05/1990 quy định
“NHNN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế”;

- Thông tư của Bộ tài chính số 72-TC/CĐTC ngày 25/11/1992 quy định “NHNN được nhà nước
tái cấp vốn pháp định, có quyền tự chủ về tài chính theo pháp luật”; - Luật Ngân hàng Nhà nước
có hiệu lực 01/11/2011 quy định “Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở
hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội”
Chế độ tài chính của NHNN Việt Nam hiện nay được thực hiện theo Nghị định
07/2006/NĐ-CP ban hành ngày 10/01/2006 và Thông tư 35/2006/TT-BTC ban hành ngày
20/04/2006. Theo Nghị định và Thông tư hướng dẫn, Ngân hàng Nhà nước được sử dụng các
nguồn thu để trang trải chi phí hoạt động của mình. Chênh lệch thu, chi sau khi trích lập quỹ theo
quy định số còn lại nộp Ngân sách Nhà nước.
Trong giai đoạn 2001-2010 NHNN Việt Nam đã thực hiện chương trình đổi mới cơ chế
quản lý tài chính của NHNN theo hướng phân cấp cho các đơn vị; thực hiện khoán chi hành
chính đối với một số đơn vị có khả năng và điều kiện thực hiện; thông báo công khai dự toán chi
phí quản lý để các đơn vị chủ động thực hiện trong phạm vi được duyệt.
Về cải cách tài chính công, với mục tiêu trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn
vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài

chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với
chất lượng cao cho xã hội, tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao
động, NHNN đã giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
biên chế và tài chính cho 3 trên 7 đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Sau một thời gian chuyển đổi mô
hình hoạt động theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp đã có nhiều
chuyển biến tích cực về chất lượng, hiệu quả hoạt động, mặt bằng thu nhập của cán bộ, người lao
động đều tăng hơn so với giai đoạn trước đây.
Thực hiện cơ chế công khai tài chính, hàng năm NHNN đã thực hiện thông báo công khai
tình hình thực hiện kinh phí khoán và tình hình mua sắm, trang bị tài sản cố định của các đơn vị.
Trong quản lý tài chính, NHNN đã thực hiện việc phân cấp quản lý tài chính, tài sản cho các đơn
vị chức năng thuộc NHNN, các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc NHNN, cụ thể:
(i)

Thực hiện phân cấp quản lý và thẩm quyền xét duyệt về tài chính đối với các đơn

vị trực thuộc hệ thống NHNN, các đơn vị được tự chủ trong việc sử dụng số kinh
phí được giao theo các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành nhưng không vượt quá
mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 12

(ii)

Thực hiện phân cấp về quyết định mua sắm tài sản đối với các đơn vị sự nghiệp

(iii)

công lập trực thuộc NHNN;
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc NHNN: đã ban hành văn bản hướng
dẫn quản lý tài chính, tài sản tại đơn vị.

CHƯƠNG 3. MỘT SỒ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Thời gian qua, khi bàn đến vấn đề cải cách NHNN, một số ý kiến cho rằng chúng ta nên
lựa chọn mô hình NHTW độc lập với lý do cơ bản được đưa ra là NHTW càng độc lập thì mục
tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. Về mặt lý thuyết, điều này là đúng, tuy nhiên,
trong thời điểm hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, mô hình NHNN là một cơ quan thuộc
Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp nhất với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế - xã hội và hệ
thống luật pháp của nước ta.
Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong
nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết. Nâng cao tính
độc lập không có nghĩa là phải tách NHNN ra khỏi bộ máy Chính phủ. Vấn đề là cần phải trao
thêm quyền cho Thống đốc, người đứng đầu NHNN trong việc chủ động điều hành các công cụ
chính sách tiền tệ.

Như vậy, trong bối cảnh nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là thay đổi mô hình
mà là lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN.
Về nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính đối với một ngành, một tổ chức kinh tế vừa phải
bao quát được toàn bộ hoạt động tài chính của đơn vị trong xu thế phát triển, vừa thể hiện được
yêu cầu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, đảm bảo được quyền và trách nhiệm pháp lý
theo phân cấp và lợi ích của Nhà nước, đơn vị và thành viên của tập thể theo Luật pháp. Từ một
chế độ quản lý tài chính chung cho toàn ngành ngân hàng, chế độ quản lý tài chính đối với
NHNN được tách ra quy định riêng theo pháp lệnh, NHNN đã góp phần đáng kể vào việc thúc
đẩy và hỗ trợ sự lớn mạnh của NHNN, tăng cường tích lũy cho Ngân sách nhà nước, tăng cường
kỷ luật tài chính và bước đầu tạo điều kiện khuyến khích, động viên người lao động trong
NHNN. Tuy nhiên thực tiễn phát triển công cuộc đổi mới nền kinh tế cùng với việc đổi mới và
lành mạnh hóa hệ thống tài chính, tiền tệ đã làm cho chế dộ tài chính đối với NHNN tỏ ra bất
cập, cần được sửa đổi để phù hợp với những yêu cầu mới. Những tồn tại cơ bản của chế độ tài
chính đối với NHNN hiện hành cần được nghiên cứu sửa đổi là:
-

Chế độ quản lý tài chính của Bộ tài chính chưa phản ánh toàn bộ hoạt động tài chính
của NHNN và yêu cầu quản lý đối với các hoạt động đó, mới chỉ đề cập đến việc


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 13

quản lý các hoạt động thu, chi đơn thuần của NHNN. Đến nay NHNN cùng với sự

phát triển của hệ thống NH ở Việt nam các hoạt động nghiệp vụ ngày càng phức tạp
và mở rộng như: Hoạt động thị trường mở, thị trường liên ngân hàng, kinh doanh
ngoại hối, quản lý quỹ dự trữ ngoại hối…do vậy đòi hỏi phải có một chế độ quản lý
-

tài chính mới bao hàm đầy đủ các hoạt động tài chính của NHNN

Trong khi Nhà nước đã có nhiều văn bản điều chỉnh nhiều quy định về quản lý tài
chính hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước cho phù hợp yêu cầu phát triển
mới (Chế độ quản lý tài sản, khấu hao tài sản cố định, chế độ quản lý vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, chế độ chi tiêu cho công tác, hội nghị, điện thoại…) thì nhiều quy định
của chế độ quản lý tài chính đối với NHNN trong thực tế đã không còn hiệu lực thi

-

hành, dẫn đến tình trạng chắp vá trong thực hiện và quản lý quá trình thực hiện
Chưa giải quyết thỏa đáng yêu cầu khách quan về đổi mới công nghệ ngân hàng đối
với NHTW trên cả hai phương diện tạo lập nguồn vốn và quản lý sử dụng vốn hiệu

-

quả.
Chế độ quản lý tài chính đối với NHNN chưa giải quyết hài hòa quyền chủ động, tự
chịu trách nhiệm của Thống đốc NHNN với quyền quản lý của NN về phương diện
tài chính theo Luật ngân sách nhà nước.

KẾT LUẬN
Nhìn chung Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong chặng đường phát triển và đổi mới trong hoạt
động đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản. Trong thời gian tới cần phát huy mạnh mẽ chức năng
của NHNN trong việc quản lý tài chính. Tăng cường trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp trực thuộc.


CHỨC NĂNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NHNN VIỆT NAM 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Tham khảo từ:

- Pháp lệnh NHNN Việt Nam ngày 24/05/1990.
- Luật Ngân sách nhà nước ngày 16/12/2002
- Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12
- Chế độ tài chính NHNN theo Nghị định 07/2006/NĐ-CP ngày 10/01/2006 và Thông tư hướng
dẫn số 35/2006/TT-BTC ngày 20/04/2006
[2] Tham khảo từ: Website Ngân hàng nhà nước Việt Nam


MỤC LỤC



×