Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Tiểu luận quan hệ kinh tế quốc tế HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY TRONG NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.41 KB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LỚP NGOẠI THƯƠNG K17

Môn học:
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN NHÓM
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ
ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY TRONG NƯỚC



1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LỚP NGOẠI THƯƠNG K17

Môn học:
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN NHÓM
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ ẢNH
HƯỞNG ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY TRONG NƯỚC
GVHD: Th.S Hoàng Thu Hằng
Sinh viên thực hiện:
Huỳnh Ngọc Thúy Tiên
Đặng Thị Bích Trang
Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Vũ Thị Luyến


Nguyễn Thị Mến
Vũ Thị Phượng
Nguyễn Thị Thu Thủy

2


TP HCM, 20/9/2015

MỤC LỤC
1. Tổng quan về hiệp định TPP (Trans-Paciffic Partnership)................................4
1.1. Lịch sử hình thành và tiến trình đàm phán............................................................4
1.2. Nội dung chính của hiệp định TPP........................................................................5
1.3. Mục đích của hiệp định TPP................................................................................13
1.4. Ý nghĩa của hiệp định TPP..................................................................................14
2. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP.......15
2.1. Cơ hội...................................................................................................................15
2.2. Thách thức............................................................................................................18
3. Tác động của TPP đến ngành dệt may Việt Nam..............................................23
3.1. Tổng quan về ngành dệt may Việt Nam..............................................................23
3.1.1. Đôi nét về ngành dệt may Việt nam..................................................................23
3.1.2. Cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chính......................................................24
3.1.3. Tình hình xuất khẩu ngành dệt may.................................................................25
3.1.4. Tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu..............................................................26
3.2. Cơ hội...................................................................................................................27
3.3. Thách thức............................................................................................................29
3.3.1. Cấu trúc ngành có vấn đề..................................................................................30
3.3.2. Quy tắc xuất xứ.................................................................................................30
3.3.3. Giá trị gia tăng thấp...........................................................................................33
3.3.4. Năng suất lao động thấp đẩy giá thành lên cao................................................35

3.4. Giải pháp..............................................................................................................36
3.4.1. Giải pháp từ phía cơ quan nhà nước.................................................................36
3.4.1.1. Chính sách......................................................................................................36
3.4.1.2. Đào tạo nguồn nhân lực.................................................................................41
3.4.1.3. Xúc tiến thương mại......................................................................................42
3.4.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp........................................................................43
3.4.2.1. Hiện đại hóa công nghệ.................................................................................43
3.4.2.2. Có chiến lược dài hạn....................................................................................45
3.4.2.3. Hình thành liên kết trong ngành....................................................................46
3.4.2.4. Chú trọng thị trường nội địa..........................................................................47
KẾT LUẬN

3


1. Tổng quan về hiệp định TPP (Trans-Pacific Partnership)

1.1.

Lịch sử hình thành và tiến trình đàm phán

Hiệp định TPP (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement) hay còn được
biết đến dưới cái tên Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương đang là một
trong những đề tài được nhắc đến nhiều nhất trong suốt thời gian qua bởi tham vọng và
một quá trình đàm phán kéo dài. Hiệp định ban đầu được khởi xướng bởi 3 quốc gia gồm
Chile, New Zealand và Singapore với mong muốn tiến đến ký kết Hiệp định Đối tác kinh
tế chiến lược giữa các quốc gia này với nhau nhân Hội nghị cấp cao Apec được tổ chức
tại Mexico năm 2002. Chính vì vậy hiệp định còn có tên gọi là hiệp định P3. Đến tháng 4
/2005, Brunei xin tham gia với tư cách là thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán
cuối cùng kết thúc và lúc này P3 đã trở thành P4.


4


Tính đến nay, đã có 12 nước tham gia vòng đàm phán và đã có khoảng 19 cuộc đàm phán
chính thức nhưng hiệp định vẫn chưa được chính thức ký kết. Theo chuyên gia kinh tếTS Cấn Văn Lực, cố vấn cao cấp Ngân hàng BIDV, dự báo tại tọa đàm “TPP – Điều gì ở
phía trước” do Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 25-2 cho biết theo
đánh giá của giới nghiên cứu kinh tế, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có
thể sẽ kết thúc đàm phán vào tháng 5-2014 và đi đến ký kết vào quý III-2014. “Đây cũng
là thời điểm một số nước tham gia đàm phán TPP chuẩn bị tiến hành bầu cử, do đó lãnh
đạo các nước sẽ tính đến phương án hoàn tất TPP vào thời gian này để đạt được mục tiêu
chính trị” – ông Lực phân tích nguyên nhân. Tuy nhiên trái với những dự đoán của các
chuyên gia tiến trình đàm phán TPP tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có dấu hiệu kết
thúc.
Với mục tiêu duy trì tính “mở” của Hiệp định TPP, tức là có cơ chế kết nạp thêm thành
viên mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục đàm phán những vấn đề phát sinh sau
khi Hiệp định có hiệu lực, các nhóm đàm phán cũng đang nỗ lực đưa ra nhiều đề xuất và
biện pháp liên quan để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại lợi ích nhiều nhất cho tất cả những
nước đang và sẽ tham gia Hiệp định.
So với các FTA truyền thống trước đây, nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP là sự
tham gia của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức xã hội. Tại mỗi
phiên đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo cơ hội để trao đổi thông tin cũng như
bày tỏ quan điểm và nguyện vọng đối với các nội dung đàm phán của Hiệp định thông
qua các buổi hội thảo và diễn đàn dành cho các đối tượng liên quan được tổ chức bên lề
các phiên đàm phán.
1.2.

Nội dung chính của hiệp định TPP.

Hiệp định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm toàn bộ các lĩnh vực then chốt về

thương mại và có liên quan đến thương mại. Bên cạnh việc cập nhật các cách tiếp cận
truyền thống đối với những vấn đề đã có trong các Hiệp định mậu dịch tự do (FTAs)
trước đây, Hiệp định TPP bao gồm thêm những vấn đề thương mại mới, đang nổi và
những vấn đề xuyên suốt. Ngoài các nội dung đàm phán mang tính truyền thống trong
5


các FTA, các quốc gia thành viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và biện pháp để
thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề liên quan tới hoạch định chính sách, tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp, phát triển chuỗi cung cấp và sản xuất giữa các nước thành viên, nâng cao
sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào quá trình lưu thông hàng hóa giữa các
quốc gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy sự phát triển chung của các quốc gia thành
viên. Lời văn của Hiệp định sẽ bao trùm toàn bộ các khía cạnh của quan hệ thương mại
giữa các thành viên TPP. Sau đây là các vấn đề đang được đàm phán và tóm tắt những
tiến bộ đã đạt được.
Trong lĩnh vực Cạnh tranh: Lời văn của Chương Cạnh tranh sẽ giúp thúc đẩy môi trường
kinh doanh cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho
các doanh nghiệp của các thành viên TPP. Các nhà đàm phán đã đạt được tiến bộ quan
trọng về lời văn, bao gồm các cam kết về việc thiết lập và duy trì các luật và các cơ quan
quản lý cạnh tranh, thủ tục công bằng trong việc thực thi luật cạnh tranh, minh bạch hóa,
bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư về hành động và hợp tác kỹ thuật.
Trong lĩnh vực Hợp tác và Nâng cao năng lực: Các thành viên TPP nhất trí rằng việc
nâng cao năng lực và các hình thức hợp tác khác là hết sức quan trọng, cả trong giai đoạn
đàm phán và giai đoạn sau khi kết thúc đàm phán, trong việc hỗ trợ các nước thành viên
nâng cao khả năng thực thi và tận dụng lợi ích của Hiệp định. Các thành viên thừa nhận
các hoạt động nâng cao năng lực có thể là công cụ hiệu quả giúp giải quyết những nhu
cầu cụ thể của các nước đang phát triển nhằm đáp ứng những các tiêu chuẩn cao của Hiệp
định mà các thành viên TPP đã nhất trí hướng tới. Với tinh thần đó, các thành viên đã
triển khai một số hoạt động hợp tác và nâng cao năng lực nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ
thể và đang lên kế hoạch về những hoạt động bổ sungnhằm hỗ trợ các nước đang phát

triển đạt được các mục tiêu của Hiệp định. Các thành viên TPP cũng đang trong quá trình
thảo luận lời văn về xây dựng một cơ chế dựa trên nhu cầu và linh hoạt về thể chế nhằm
điều phối hiệu quả và hợp tác, hỗ trợ nâng cao năng lực sau khi TPP đi vào thực thi.
Trong lĩnh vực Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Các thành viên TPP đã nhất trí về phần
lớn các vấn đề cốt lõi của lời văn liên quan đến cung cấp dịch vụ qua biên giới. Sự đồng
thuận này tạo cơ sở cho việc đảm bảo các thị trường công bằng, mở và minh bạch cho
6


thương mại dịch vụ, bao gồm dịch vụ qua giao dịch điện tử và do các doanh nghiệp vừa
và nhỏ cung cấp, đồng thời vẫn đảm bảo quyền của chính phủ trong việc điều tiết lợi ích
công cộng.
Trong lĩnh vực Hải quan: Các nhà đàm phán TPP đã đạt được thỏa thuận về các vấnđề
chính trong lời văn về hải quan cũng như về tầm quan trọng của việc xây dựng các thủ
tục hải quan dễ dự báo, minh bạch, góp phần đẩy nhanh và tạo thuận lợi cho thương mại,
qua đó giúp gắn kết các doanh nghiệp TPP vào chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng khu
vực. Cam kết về hải quan sẽ giúp đảm bảo rằng hàng hóa được thông quan nhanh chóng,
đồng thời vẫn duy trì khả năng của các cơ quan hải quan trong việc thực thi nghiêm túc
các quy định và luật hải quan. Các thành viên TPP cũng nhất trí về tầm quan trọng của
việc hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan hải quan của các thành viên nhằm đảm bảo việc
triển khai và áp dụng hiệu quả thỏa thuận này cũng như các vấn đề hải quan khác.
Trong lĩnh vực Thương mại điện tử: Lời văn về thương mại điện tử sẽ giúp nâng caokhả
năng phát triển nền kinh tế số thông qua việc đảm bảo giải quyết những vướng mắc đối
với người tiêu dùng và doanh nghiệp tham gia vào hình thức thương mại này. Các nhà
đàm phán đạt được những tiến bộ quan trọng, trong đó có các điều khoản giải quyết vấn
đề thuế hải quan trong môi trường số, việc chứng nhận các giao dịch điện tử và bảo vệ
người tiêu dùng. Các đề xuất bổ sung về các luồng thông tin và việc xử lý các sản phẩm
số đang được tiếp tục thảo luận.
Trong lĩnh vực Môi trường: Những cam kết có ý nghĩa về môi trường sẽ giúp đảm bảo
rằng Hiệp định giải quyết thỏa đáng những thách thức thương mại và môi trường quan

trọng cũng như nâng cao tính hỗ trợ lẫn nhau giữa thương mại và môi trường. Các thành
viên TPP đã nhất trí lời văn của “Chương Môi trường” nên bao gồm những điều khoản
chặt chẽ về các cấp độ bảo vệ môi trường và việc thực thi luật, đồng thời tiếp tục thảo
luận việc xây dựng một cơ chế hiệu quả để giám sát việc triển khai và hình thành một
khuôn khổ hợp tác đặc thù nhằm đáp ứng những nhu cầu về xây dựng năng lực. Các
thành viên cũng đang thảo luận những đề xuất về những vấn đề mới như đánh bắt thủy
sản và các vấn đề bảo tồn khác, đa dạng sinh học, sự xâm lấn của các sinh vật lạ, biến đổi
khí hậu, hàng hóa và dịch vụ môi trường.
7


Trong lĩnh vực Dịch vụ tài chính: Lời văn của chương này đề cập đến đầu tư vào các thể
chế tài chính và thương mại qua biên giới trong dịch vụ tài chính sẽ giúp đảm bảo tính
minh bạch, không phân biệt đối xử, đối xử công bằng với các dịch vụ tài chính mới, các
biện pháp bảo vệ đầu tư và một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả để thực hiện những
biện pháp bảo vệ này. Những cam kết này sẽ tạo ra những cơ hội mở cửa thị trường, làm
lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng về các sản phẩm tài chính, đồng thời đảm bảo
quyền của các cơ quan quản lý tài chính trong việc đảm bảo tính liêm chính và duy trì sự
ổn định của các thị trường tài chính, bao gồm cả trong tình huống khủng hoảng tài chính.
Trong lĩnh vực Mua sắm Chính phủ: Lời văn “Chương Mua sắm Chính phủ” đảm bảo
rằng các hoạt động mua sắm được điều chỉnh ở chương này sẽ được thực hiện một cách
công bằng, minh bạch và không phân biệt đối xử. Các nhà đàm phán TPP về cơ bản đã
nhất trí về các nguyên tắc và các thủ tục tiến hành các hoạt động mua sắm chính phủ
được điều chỉnh bởi chương này, và đang xây dựng các nghĩa vụ cụ thể. Các thành viên
TPP đang tham chiếu các phạm vi về mua sắm hiện hành của tất cả các nước, đồng thời
công nhận nhu cầu tạo thuận lợi cho việc mở cửa thị trường mua sắm chính phủ của các
nước đang phát triển thôngqua việc sử dụng các biện pháp mang tính quá độ.
Trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ: Các thành viên TPP đã nhất trí tăng cường và xây dựng các
quyền và nghĩa vụ dựa trên Hiệp định của Tổ chức Thương mạiThế giới (WTO) về
những khía cạnh liên quan đến thương mại củaquyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) nhằm đảm

bảo một cách tiếp cận hiệuquả và cân bằng đối với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ giữa các
nướcthành viên TPP. Các thành viên đang thảo luận các đề xuất về các đối tượng sở hữu
trí tuệ, bao gồm nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý,quyền tác giả và các quyền liên quan,
bằng sáng chế, bí mật thương mại và các dữ liệu cần thiết để xin phê duyệt đối với một số
sản phẩm thuộc diện quản lý, cũng như các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ,
nguồn gen và tri thức truyền thống. Các thành viên TPP đã nhất trí đưa những cam kết
chung về Tuyên bố Đô-ha liên quan tới TRIPS và Y tế công cộng vào lời văn của chương
này.
Trong lĩnh vực Đầu tư: Lời văn về đầu tư sẽ quy định sự bảo vệ cơ bản về pháp lý đối với
các nhà đầu tư và các hoạt động đầu tư của mỗi quốc gia thành viên TPP trong lãnh thổ
8


các nước thành viên TPP khác, trong đó có các quy định đang tiếp tục được thảo luận
nhằm đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử, tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử, các quy
định về xung công và nghiêm cấm một số hoạt động đặc thù bóp méo thương mại và đầu
tư. Lời văn “Chương Đầu tư” cũng sẽ bao gồm các quy định về cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư và Nhà nước một cách nhanh chóng, công bằng và minh bạch trên
cơ sở cơ chế phù hợp bảo vệ Nhà nước, với các nội dung về phạm vi và diện đàm phán
còn đang được tiếp tục thảo luận. Lời văn Chương Đầu tư sẽ bảo vệ quyền của các nước
thành viên TPP trong việc đảm bảo lợi ích cộng đồng.
Trong lĩnh vực Lao động: Các thành viên TPP đang thảo luận về các yếu tố cấu thành của
“Chương Lao động” trong đó sẽ gồm các cam kết về bảo vệ quyền lao động và các cơ
chế nhằm đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại về các vấn đề lao động mà các thành
viên cùng quan tâm. Các thành viên TPP đã nhất trí về tầm quan trọng của sự phối hợp
nhằm giải quyết những thách thức về lực lượng lao động trong thế kỷ 21 thông qua hợp
tác song phương và khu vực về thực tiễn tại nơi làm việc nhằm cải thiện quyền lợi và và
khả năng làm việc của người lao động, cũng như thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và
môi trường làm việc hiệu suất cao.
Trong lĩnh vực Các vấn đề pháp lý: Các thành viên TPP đã đạt được tiến bộ thực chất về

các điều khoản liên quan đến thực thi hiệp định, bao gồm các quy tắc rõ ràng và hiệu quả
nhằm giải quyết các tranh chấp và đang thảo luận một số vấn đề cụ thể liên quan đến tiến
trình này. Các thành viên TPP cũng đã đạt được những tiến bộ về các trường hợp ngoại lệ
đối với các nghĩa vụ của hiệp định cũng như về các quy tắc xử lý vấn đề minh bạch trong
việc xây dựng các điều luật, quy định hay các quy tắc khác. Ngoài ra, các thành viên
cũng đang thảo luận về các đề xuất liên quan đến quản trị tốt và tính công bằng trong thủ
tục ở một số lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực Tiếp cận thị trường hàng hóa: Các thành viên TPP đã thống nhất xây dựng
các nguyên tắc và các nghĩa vụ liên quan đến thương mại hàng hóa cho tất cả các nước
TPP nhằm đảm bảo tiếp cận thị trường mà các nước dành cho nhau là tham vọng, cân
bằng và minh bạch. Lời văn về thương mại hàng hóa quy định việc xóa bỏ thuế quan giữa
các thành viên, trong đó có những cam kết quan trọng cao hơn các nghĩa vụ WTO hiện
9


nay, cũng như xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan đang tạo ra các rào cản thương mại.
Các thành viên TPP cũng đang cân nhắc các đề xuất liên quan đến cấp phép nhập khẩu và
xuất khẩu và hàng tân trang. Các điều khoản bổ sung liên quan đến cạnh tranh xuất khẩu
hàng nông nghiệp và an ninh lương thực cũng đang được thảo luận.
Các thành viên TPP cũng thống nhất tầm quan trọng của việc đưa ra cam kết ở mức cao
đối với hàng dệt may - một trong những nội dung được thảo luận ở Chương Tiếp cận thị
trường hàng hóa. Một số đề xuất đã được đưa ra về hàng loạt các vấn đề nguyên tắc trong
lĩnh vực này như hợp tác hải quan về quy trình thực thi pháp luật, quy tắc xuất xứ và tự
vệ đặc biệt.
Trong vấn đề Quy tắc xuất xứ: Các thành viên TPP đã nhất trí xây dựng một bộ quy tắc
xuất xứ chung nhằm xác định liệu một sản phẩm có xuất xứ từ khu vực TPP hay không.
Các nước cũng nhất trí rằng các quy tắc xuất xứ của TPP cần khách quan, minh bạch và
dễ dự đoán, hiện đang thảoluận cách tiếp cận liên quan tới khả năng cộng gộp hoặc sử
dụng nguyên vật liệu trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do để khẳng định một sản phẩm
có xuất xứ. Ngoài ra, các thành viên TPP cũngđang thảo luận các đề xuất xây dựng một

hệ thống chứng nhận xuất xứ ưu đãi đơn giản, hiệu năng và hiệu quả.
Trong lĩnh vực các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ về kiểm dịch động, thực vật (SPS): Nhằm
nâng cao sức khỏe cây trồng ,vật nuôi, cũng như chất lượng an toàn thực phẩm và tạo
thuận lợi cho thương mại giữa các nước TPP, quốc gia thành viên đã nhất trí tăng cường
phát triển nội dung nên dựa trên các quyền và nghĩa vụ hiện tại của các bên theo Hiệp
địnhvề kiểm dịch động thực vật (SPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Lời
văn “Chương SPS” sẽ bao gồm một loạt các cam kết mớivề cơ sở khoa học, minh bạch
hóa, khu vực hóa, hợp tác và công nhận lẫn nhau. Ngoài ra, các bên đàm phán đã nhất trí
xem xét một loạt các đề xuất hợp tác song phương và đa phương mới, trong đó có các
biện pháp kiểm tra về chứng nhận nhập khẩu.
Trong lĩnh vựcCác rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT): Lời văn về TBT sẽ củng
cố việc phát triển các quyền và nghĩa vụ hiện tại quy định ở Hiệp định về Các rào cản kỹ
thuật đối với thương mại của WTO, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa
các nước TPP và giúp các nhà quản lý thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong việc bảo
10


vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường và đạt được các mục tiêu chính sách chính đáng khác.
Lời văn bao gồm các cam kết về lộ trình thực hiện, các thủ tục đánh giá sự phù hợp, các
tiêu chuẩn quốc tế, cơ chế thể chế, về minh bạch hóa. Các thành viên TPP cũng đang thảo
luận các quy định đánh giá thực hiện, hợp tác quản lý,thuận lợi hóa thương mại, minh
bạch hóa về các vấn đề khác, cũng như các đề xuất do nước đưa ra liên quan đến các lĩnh
vực cụ thể.
Trong lĩnh vực Viễn thông: Lời văn về viễn thông sẽ thúc đẩy sự tiếp cận cạnh tranh cho
các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong thị trường TPP, đem lại lợi ích cho người tiêu
dùng và các doanh nghiệp trên thị trường TPP trở nên cạnh tranh hơn. Ngoài một hiệp
định rộng thể hiện sự cần thiết về tiếp cận mạng lưới một cách hợp lý dành cho nhà cung
cấp thông qua kết nối và tiếp cận với cơ sở vật chất, các thành viên TPP đang tiến gần tới
sự đồng thuận về các điều khoản nhằm tăng cường tính minh bạch của quy trình ban hành
chính sách, bảo đảm quyền khiếu nại các quyết định. Các bên cũng thảo luận các đề xuất

mới được đưa ra về lựa chọn công nghệ và giải quyết vấn đề cước phí cao của điện thoại
di động chuyển vùng quốc tế.
Trong lĩnh vực Di chuyển thể nhân: Các thành viên TPP đã kết thúc về cơ bản các
điều khoản chung của chương liên quan đến tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong
quá trình giải quyết nhập cảnh tạm thời, đồng thời thúc đẩy hợp tác kỹ thuật hiện tại giữa
các nước TPP. Các nghĩa vụ cụ thể liên quan đến các loại hình doanh nhân cũng đang
được thảo luận.
Trong lĩnh vực Các biện pháp phòng vệ thương mại: Các thành viên TPP đã nhất trí
khẳng định các quyền và nghĩa vụ của mình trong WTO và đang xem xét các đề xuất
mới, bao gồm các nghĩa vụ sẽ được xây dựng trên cơ sở những quyền lợi và nghĩa vụ
hiện hành trong lĩnh vực minh bạch hoặc các quy trình tố tụng. Các thành viên cũng đưa
ra một số đề xuất về cơ chế tự vệ khu vực quá độ.
Lộ trình xóa bỏ thuế quan và các gói mở cửa thị trường: Lộ trình xóa bỏ thuế quan của
Hiệp định TPP sẽ áp dụng cho tất cả các hàng hóa, tương đương khoảng 11.000 dòng
thuế. Các nước thành viên đang xây dựng quy tắc chung về xuất xứ hàng hóa vẫn hiện
đang cân nhắc các đề xuất nhằm thực hiện việc này hiệu quả và đơn giản nhất.
11


Các gói cam kết về dịch vụ và đầu tư sẽ bao gồm tất cả các ngành dịch vụ. Nhằm đảm
bảo một kết quả đạt tiêu chuẩn cao mới cho các quốc gia hướng tới. Các thành viên TPP
đang đàm phán theo nguyên tắc “chọn- bỏ” với giả định hiệp định sẽ bao trùm trên một
phạm vi toàn diện nhưng vẫn cho phép các nước đàm phán các ngoại lệ cụ thể trong cam
kết ở các ngành dịch vụ cụ thể. Gói các cam kết về mua sắm chính phủ đang được đàm
phán, trong đó mỗi thành viên phải nỗ lực mở cửa thị trường mua sắm chính phủ hơn nữa
nhằm đảm bảo sự tiếp cận tối đa của nước khác trong lĩnh vực này, đồng thời ghi nhận
những vấn đề nhạy cảm của từng thành viên. Nhìn chung, phạm vi và nội dung điều
chỉnh của TPP được xem là “bị quy định” bởi ít nhất 03 yếu tố sau:
TPP – Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Về nguyên tắc, các Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreements - FTA) đòi hỏi

mức độ cam kết mở cửa sâu hơn các cam kết mở cửa thương mại thông thường (thể hiện
chủ yếu ở các lĩnh vực phải cam kết mở cửa rộng hơn, mức độ mở cửa như cắt giảm thuế
quan, loại bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường…). Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa
hoạt động thương mại trên thế giới đã chứng kiến 03 thế hệ các FTA, bắt đầu từ các FTA
thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt giảm thuế
quan, loại bỏ các rào cản phi thuế), sang các FTA thế hệ thứ hai với việc mở rộng phạm
vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ nhất định (xóa bỏ các điều kiện tiếp cận thị trường
trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan), và FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự
do về dịch vụ, đầu tư. Các hiệp định FTA trong thời gian gần đây (đặc biệt là các FTA mà
Hoa Kỳ đàm phán) chứng kiến một xu hướng mới trong đó không chỉ những lĩnh vực
thương mại mở cửa được đề cập mà cả những vấn đề phi thương mại như lao động, môi
trường cũng được đưa vào đàm phán và ký kết.
Là một hiệp định mới nhất được đàm phán trong thời gian này, rõ ràng TPP sẽ khó đi
chệch xu hướng này. Phạm vi của Hiệp định này, vì vậy, được dự kiến là sẽ rất rộng và
phức tạp, với các vấn đề thương mại và phi thương mại đan xen.
TPP – Sự phát triển của P4

12


Với “nền tảng” là Hiệp định P4, TPP được dự kiến là mở rộng và đa dạng hóa các lĩnh
vực cam kết mà P4 đã đề cập. Theo một logic tự nhiên TPP được suy đoán có phạm vi
rộng hơn P4. Trong khi đó P4 đã có cam kết mạnh về thuế quan và nhiều vấn đề phi thuế
quan như (xuất xứ hàng hóa, các biện pháp phòng vệ thương mại, các biện pháp vệ sinh
dịch tễ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, chính sách
cạnh tranh…và cả những vấn đề phi thương mại như lao động, môi trường).Vì vậy TPP
mới chắc chắn sẽ có phạm vi lớn hơn nữa.
TPP – “FTA của thế kỷ 21”
Tham gia đàm phán TPP, Hoa Kỳ tuyên bố nước này kỳ vọng TPP sẽ tạo dựng một chuẩn
mới cho các “FTA của thế kỷ 21”. Rõ ràng đây không phải là một tuyên bố hình thức khi

người ta nhìn vào các FTA mà Hoa Kỳ đàm phán trong thời gian gần đây (FTA với
Panama, Colombia và đặc biệt là FTA với Hàn Quốc ). Mong muốn đằng sau tuyên bố
này là Hoa Kỳ sẽ cố gắng để TPP có phạm vi lớn nhất có thể, và với mức độ mở cửa rộng
nhất có thể. Với tham vọng như vậy của “người cầm trịch”, đàm phán TPP khó có thể là
một đàm phán ở mức độ “tự do cầm chừng” hay phạm vi “tự do hạn chế”.
1.3.

Mục đích của hiệp định TPP.

Mục tiêu của hiệp định TPP là nhằm thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho
các nước đối tác trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Cho đến nay, đã có 12 nước
tham gia vào đàm phán TPP (bao gồm New Zealand, Brunei, Chile, Singapore, Australia,
Peru, Hoa Kỳ, Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản).
TPP hiện đã trải qua 16 phiên đàm phán chính thức, được kỳ vọng là một Hiệp định kiểu
mẫu của thế kỷ 21 với những lĩnh vực đàm phán gồm không chỉ các vấn đề về mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả những vấn đề phi thương như các vấn để về sở
hữu trí tuệ , mua sắm chính phủ, môi trường, lao động, các vấn đề pháp lý…Khi so sánh
TPP với các hiệp định thương mại khác ta có thể thấy rằng:


TPP cũng như mọi hiệp định về hội nhập quốc tế khác đều nhằm mở rộng hợp tác
kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài vào các nước thành viên.

13




Các thỏa thuận tự do hóa của TPP sẽ làm lợi hơn cho nền kinh tế bằng cách
khuyến khích thương mại và thương mại đến lượt nó, sẽ thực hiện được vai trò




củng cố sự thịnh vượng của các nước thành viên.
TPP có ý nghĩa trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược gắn kết khu vực lại

với nhau.
• TPP yêu cầu một cường độ tự do hóa mậu dịch mạnh mẽ hơn, sâu rộng hơn, toàn
diện hơn trên nhiều lĩnh vực bao gồm mua bán hàng hóa dịch vụ, quy định về xuất
xứ, can thiệp của chính phủ, rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, sử dụng lao


động…
Các hiệp định thương mại thông thường (như BTA với Hoa Kỳ hay WTO) chỉ cắt
giảm thuế suất và theo một lộ trình dài hạn, còn các hiệp định thương mại tự do
như TPP là loại bỏ thuế suất (0%). Ví dụ hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ, sau
khi ký hiệp định thương mại song phương thì thuế suất bình quân giảm còn 17,
3%; mức này được giữ nguyên sau khi vào WTO (vì đây đã là mức thuế MFN mà

Mỹ dành cho các nước thành viên WTO). Nay với TPP thuế suất chỉ còn 0%.
• Các cam kết trong TPP sẽ phải bình đẳng cho tất cả các nước thành viên, không
phân biệt nước đang phát triển hay nước phát triển như WTO. Vì vậy, các nước
đang phát triển mà tham gia TPP sẽ phải cố gắng để rút ngắn thời gian thực hiện
cam kết đó.
1.4. Ý nghĩa của hiệp định TTP.
Nếu đàm phán thành công, TPP có thể là sự lựa chọn thay thế cho Vòng Đàm phán Doha
đã lâm vào bế tắc, trở thành cơ chế thúc đẩy tự do hóa đa biên nổi bật trong thế kỷ XXI.
TPP được tiến hành trên cơ sở quy tụ các đối tác có tư duy giống nhau và cùng lợi ích
kinh tế trong quá trình mở cửa. TPP có thể là khuôn mẫu để thống nhất các FTA hiện
đang


đan

xen,

chằng

chịt,

tự

do

hóa

thị

trường

trong

nước…

Một kỳ vọng lớn mà các nước tham gia đàm phán TPP hướng tới là khả năng tạo ra chuỗi
giá trị trong vực có khả năng cạnh tranh cao tận dụng tốt thế mạnh về vốn, công nghệ, và
năng lực của các thành viên. TPP thúc đẩy hợp tác doanh nghiệp nội khối trên cơ sở loại
bỏ hầu hết rào cản thương mại và môi trường pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của
các nước thuận lợi, minh bạch và có tính tương đồng cao. TPP cũng được kỳ vọng là sẽ
14



thúc đẩy cho thị trường lao động nội khối giữa các nước thành viên, Quy tắc xuất xứ sẽ
đem đến những cơ hội mới cho các nhà xuất khẩu TPP và giúp họ gia nhập chuỗi cung
ứng toàn cầu TPP còn được kỳ vọng là nền tảng xây dựng một FTA khu vực châu Á- Thái
Bình Dương (FTAAP). TPP đại diện cho nguồn động lực thúc đẩy chương trình nghị sự
APEC. Các vòng đàm phán hiệp định có tiềm năng đem đến một kết quả tốt đẹp, cho
phép APEC đạt một bước tiến bộ lớn trong việc tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, đáp
ứng mục tiêu về thương mại tự do, cởi mởi và thúc đẩy tính hội tụ khu vực APEC. Nếu
thành công, TPP sẽ là cơ hội tốt để quy tụ các thành viên APEC trong một FTA duy nhất.
Bất chấp những viễn cảnh tốt đẹp mà TPP tạo ra, hiệp định này vẫn còn đang trong quá
trình đàm phán và liên tục gặp phải rất nhiều khó khăn. Nếu mọi việc tiến hành suôn sẻ,
TPP sẽ trở thành một khu vực thương mại được tự do hóa cao nhất, có quy mô lớn nhất
thế giới. Tuy nhiên, với các nước thành viên ở ‘chiếu dưới’ thì việc tham gia TPP là sẽ
một thách thức lớn. Những thách thức về mặt kỹ thuật, pháp lý, cơ chế, hay ngay cả vấn
đề nhân quyền sẽ là thách thức nhưng cũng đồng thời là động lực nếu các nước đó có ý
chí và quyết tâm vượt qua. Có thể ví con TPP được “như một bông hồng đẹp nhưng đầy
gai nhọn”. Chính vì vậy mà bông hồng xinh đẹp này chỉ dành tặng cho những người
xứng đáng.
2. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP.
2.1. Cơ hội
Thứ nhất, hội nhập khu vực đang nổi lên thành một xu hướng chủ đạo với nhiều hình
thức phong phú, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Xu thế này không chỉ
phản ánh sự mưu cầu lợi ích kinh tế mà còn phản ánh cục diện chính trị quốc tế mới, sau
sự nổi lên nhanh chóng của một số nước đang phát triển hàng đầu. Tham gia vào Hiệp
định TPP, một cấu trúc quan trọng của khu vực, sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt
hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội
nhập kinh tế khu vực đem lại.
Thứ hai, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện để tranh thủ sự
hợp tác quốc tế nhằm phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai các chiến


15


lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán với Hoa Kỳ để mở
cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất khẩu, kiềm
chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ góp phần thúc đẩy hơn
nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam.
Thứ tư, lợi ích từ việc cắt giảm thuế sẽ giúp hàng hóa Việt Nam được tiếp cận các thị
trường thành viên TPP với mức thuế quan thấp hoặc bằng 0. Rõ ràng lợi ích này chỉ thực
tế nếu hàng hóa Việt Nam đang phải chịu mức thuế quan cao ở các thị trường này và thuế
quan là vấn đề duy nhất cản trở sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường
đó. Vì là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, việc chúng ta có thể tiếp cận các thị
trường lớn như Hoa Kỳ với mức thuế suất bằng 0 hoặc thấp như vậy sẽ mang lại một lợi
thế cạnh tranh vô cùng lớn và một triển vọng hết sức sáng sủa cho nhiều ngành hàng, kéo
theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục
vụ xuất khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở những nhóm mặt hàng mà Việt Nam đang
có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như dệt may, giầy dép…) mà còn là động lực để nhiều
nhóm mặt hàng khác hiện chưa có kim ngạch đáng kể có điều kiện để gia tăng sức cạnh
tranh. Nói một cách khác, lợi thế này không chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn
thấy ở cả tiềm năng trong tương lai.
Tuy nhiên, lợi ích này cần được đánh giá một cách chừng mực hơn, đặc biệt khi quyết
định đánh đổi quyền tiếp cận thị trường Việt Nam của hàng hóa nước ngoài để có được
những lợi ích này. Bởi trên thực tế, cơ hội tăng mạnh xuất khẩu không phải cho tất cả khi
mà ví dụ đối với Hoa Kỳ, hàng thủy sản chưa chế biến hay đồ gỗ (hai lĩnh vực xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam sang thị trường này) thực tế đã đang được hưởng mức thuế suất
gần bằng 0, vì vậy có TPP hay không cũng không quan trọng. Cũng như vậy, dù rằng
tương lai không hẳn chắc chắn nhưng một số mặt hàng có thể được Hoa Kỳ xem xét cho
hưởng GSP “miễn phí” nếu chúng ta có nỗ lực vận động tốt mà không cần TPP với những

cái giá phải trả có thể lớn (bằng việc mở cửa thị trường nội địa cũng như những ràng
buộc khác). Đối với các ngành thuộc nhóm này, lợi ích thuế quan là không đáng kể (hoặc
16


không có). Tình trạng tương tự với một số thị trường khác (ví dụ Úc, New Zealand, Peru
hiện đã áp dụng mức thuế 0% cho các sản phẩm thủy sản như cá, tôm, cua… của Việt
Nam). Đối với những mặt hàng khác, trong khi cơ hội tăng xuất khẩu với giá cạnh tranh
là có thật và rất lớn (ví dụ dệt may, da giầy), những rào cản dưới dạng quy định kỹ thuật,
vệ sinh dịch tễ hay kiện phòng vệ thương mại với quy chế nền kinh tế phi thị trường mà
Hoa Kỳ thực hiện rất có thể sẽ vô hiệu hóa lợi ích từ việc giảm thuế quan. Cũng như vậy
những điều kiện ngặt nghèo về lao động, về xuất xứ nguyên liệu cũng có thể khiến hàng
hóa Việt Nam không tận dụng được lợi ích từ việc giảm thuế trong TPP. Nói một cách
khác, những lợi ích về thuế quan trên thị trường nước đối tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ)
chỉ thực sự đầy đủ khi xem xét tất cả các yếu tố. Và nếu bất kỳ yếu tố nào trong số những
rào cản đối với hàng xuất khẩu không được cải thiện thì lợi ích thuế quan từ TPP sẽ bị
giảm sút, thậm chí nếu những rào cản này bị lạm dụng, lợi ích từ thuế quan có thể bị vô
hiệu hóa hoàn toàn. Phương án đàm phán về thuế quan vì vậy cần phải lưu ý đến tất cả
những yếu tố này.
Thứ năm, lợi ích tiếp cận thị trường (đối với thương mại dịch vụ và đầu tư). Về lý thuyết
Việt Nam sẽ được tiếp cận thị trường dịch vụ của các nước đối tác thuận lợi hơn, với ít
các rào cản và điều kiện hơn. Tuy vậy trên thực tế dịch vụ của Việt Nam hầu như chưa có
đầu tư đáng kể ở nước ngoài do năng lực cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp Việt
Nam còn yếu kém. Trong tương lai, tình hình này có thể thay đổi đôi chút (với những nỗ
lực trong việc xuất khẩu phần mềm, đầu tư viễn thông hay một số lĩnh vực dịch vụ khác)
tuy nhiên khả năng này tương đối nhỏ.
Ngoài ra, với hiện trạng mở cửa tương đối rộng về dịch vụ của các đối tác quan trọng
trong TPP như hiện nay, lợi ích này có thể không có ý nghĩa (bởi có hay không có TPP thì
thị trường dịch vụ của họ cũng đã mở sẵn rồi). Đây cũng chính là lý do nhiều ý kiến cho
rằng các nước phát triển sẽ được lợi về dịch vụ trong TPP trong khi những nước như Việt

Nam

hầu

như

không

hưởng

lợi



từ

việc

này.

Thứ sáu, trong thực thi các FTA, thị trường nội địa thường được hiểu là nơi chịu thiệt
hại.Tuy nhiên, đối với trường hợp của Việt Nam, nhiều chuyên gia nhấn mạnh rằng
chúng ta có thể “có lời” từ TPP ngay cả ở thị trường nội địa, nơi vốn được xem là “chỉ
17


chịu thiệt” từ các FTA nói chung. “Khoản lời” này nằm ở việc giảm thuế hàng nhập khẩu
từ các nước TPP. Nhờ đó, người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu
nhập khẩu từ các nước này làm nguyên liệu đầu vào sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa,
nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, từ đó có thể giúp nâng cao

năng lực cạnh tranh của những ngành này.
Thứ bảy, lợi ích đến từ những thay đổi thể chế hay cải cách để đáp ứng những đòi hỏi
chung của TPP. Những cam kết về những vấn đề xuyên suốt như sự hài hòa giữa các quy
định pháp luật, tính cạnh tranh, vấn đề hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuỗi
cung ứng, hỗ trợ phát triển… đòi hỏi các thành viên TPP phải nỗ lực hết mức để thực
hiện đầy đủ trên tinh thần thiện chí, tôn trọng cam kết quốc tế. Đây là những lợi ích lâu
dài và xuyên suốt các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt có ý nghĩa đối với
nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Thứ tám, lợi ích đến từ việc mở cửa thị trường mua sắm công. Mặc dù mức độ mở cửa
đối với thị trường mua sắm công trong khuôn khổ TPP chưa được xác định cụ thể nhưng
nhiều khả năng các nội dung trong Hiệp định về mua sắm công trong WTO sẽ được áp
dụng cho TPP, và nếu điều này là thực tế thì lợi ích mà Việt Nam có được từ điều này sẽ
là triển vọng minh bạch hóa thị trường quan trọng này – TPP vì thế có thể là một động
lực tốt để giải quyết những bất cập trong các hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu
thầu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện nay;
Cuối cùng là những lợi ích đến từ việc thực thi các tiêu chuẩn về lao động, môi trường.
Mặc dù về cơ bản những yêu cầu cao về vấn đề này có thể gây khó khăn cho Việt Nam
(đặc biệt là chi phí tổ chức thực hiện của Nhà nước và chi phí tuân thủ của doanh nghiệp)
nhưng xét một cách kỹ lưỡng một số tiêu chuẩn trong đó (ví dụ về môi trường) sẽ là cơ
hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường (đặc biệt trong đầu tư từ các
nước đối tác TPP) và bảo vệ người lao động nội địa.
2.2. Thách thức
Thứ nhất, khi tham gia FTA nói chung và TPP nói riêng, Việt Nam sẽ phải mở cửa nhanh
và mạnh thị trường nội địa của mình cho hàng hóa, dịch vụ từ các nước đối tác. Việc cam
18


kết và thực hiện các cam kết sâu và rộng trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định TPP sẽ đặt
ra những thách thức không nhỏ, đặc biệt là sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối
với các doanh nghiệp của Việt Nam, vốn ít, khả năng quản lý còn nhiều thiếu sót. Nếu

không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ rơi vào tình thế
khó khăn. Tham gia TPP có thể gây ra một số hệ quả xã hội tiêu cực như tình trạng phá
sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh yếu. Ngoài ra, kết quả đàm
phán nội dung lao động trong Hiệp định TPP có thể sẽ có tác động tới môi trường lao
động ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải
trải qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, để thực thi cam kết trong Hiệp định TPP, Việt Nam có thể sẽ phải điều chỉnh,
sửa đổi nhiều quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ… Với
những kinh nghiệm có được từ quá trình đàm phán gia nhập WTO, đây có thể không phải
là một thách thức quá lớn đối với Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam hiện vẫn còn là thị trường tương đối đóng với nhiều nhóm mặt hàng
còn giữ mức thuế MFN khá cao (và với lộ trình mở cửa dài hơi). Vì thế việc phải cam kết
giảm thuế đối với phần lớn các nhóm mặt hàng từ các nước đối tác TPP dự kiến sẽ gây ra
02 bất lợi trực tiếp, bao gồm (i) giảm nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu và (ii) cạnh
tranh trong nước gay gắt hơn.
Thứ tư, giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt
Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn. Hệ quả tất yếu là thị phần hàng hóa liên quan tại
Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Đây là thực tế đã từng xảy ra khi
chúng ta thực hiện các FTA đã ký mà đặc biệt là ACFTA với Trung Quốc. Nguy cơ này
đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sản, vốn gắn liền với nhóm đối tượng dễ bị
tổn thương trong hội nhập là nông dân và nông thôn. Tuy vậy, các ý kiến lạc quan lại cho
rằng trong trường hợp cụ thể của TPP, cái “mất” này có thể không phải là quá nghiêm
trọng, ví dụ với đối tác Hoa Kỳ, hàng hóa của Hoa Kỳ có phân khúc và khách hàng khác
với hàng hóa tương tự của Việt Nam, vì vậy đối với một số ngành, cạnh tranh đến từ hàng
19


hóa Hoa Kỳ sẽ không quá nguy hiểm. Theo cách hiểu này, thị phần nội địa có thể sẽ bị
phân chia lại sau TPP, nhưng là giữa các đối thủ Hoa Kỳ với những đối thủ nước ngoài

khác trên thị trường Việt Nam chứ không phải là với các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ năm, bất lợi từ việc mở cửa các thị trường dịch vụ. Dịch vụ là mảng hoạt động
thương mại mà mức độ mở cửa thị trường của Việt Nam là hạn chế và dè dặt nhất. So với
cách thức đàm phán chọn-cho của WTO, phương pháp chọn-bỏ dự kiến trong đàm phán
TPP sẽ khiến cho bức tranh mở cửa dịch vụ của Việt Nam đối với các đối tác TPP thay
đổi mạnh mẽ. Đây cũng chính là điểm được suy đoán là sẽ tạo ra bất lợi lớn cho doanh
nghiệp Việt Nam khi tham gia TPP. Với TPP, sự tham gia mạnh mẽ và tự do hơn của các
nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm lâu năm, có ưu thế về dịch vụ trên thế giới
(đặc biệt là các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ) có thể khiến cho các đơn vị cung cấp dịch
vụ của Việt Nam gặp khó khăn nghiêm trọng.
Tuy nhiên, kịch bản thực tế có thể không toàn bất lợi như vậy. Nhìn từ góc độ tích cực thì
cạnh tranh có thể là động lực để các doanh nghiệp tự đổi mới và nâng cao năng lực để
phát triển tốt hơn. Cạnh tranh cũng giúp xóa những đơn vị sản xuất yếu kém, không thích
hợp với tình hình mới (đây cũng là điều nên xảy ra, dù rằng Việt Nam chưa quen với tình
trạng phá sản của các doanh nghiệp yếu kém). Ngoài ra, không thể không nhắc tới những
khả năng hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác từ TPP để cùng phát triển. Mở
cửa thị trường cũng là cơ hội để thu hút đầu tư vào các ngành dịch vụ, đặc biệt các ngành
cần vốn và công nghệ quản lý cao. Đây có thể là cơ sở để phát triển nhiều ngành dịch vụ
ở Việt Nam trong tương lai.
Thứ sáu, bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh… và
các ràng buộc mang tính thủ tục khi ban hành các quy định liên quan đến rào cản kỹ
thuật, vệ sinh dịch tễ...Các kết quả đàm phán FTA của Hoa Kỳ trong giai đoạn gần đây
cho thấy nước này nhấn mạnh việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường (theo một
danh mục tương đối dài các công ước quốc tế về môi trường), lao động (tiêu chuẩn ILO)
hay các ràng buộc nhiều hơn về mặt thủ tục khi ban hành hay thực thi các quy định về
cạnh tranh, phòng vệ thương mại, TBT, SPS (theo hướng tăng cường thủ tục tham vấn
20


trao đổi trước khi ban hành quy định/biện pháp, quyền tiếp cận tư pháp để giải quyết

vướng mắc)…Các đối tác phát triển như Úc, New Zealand khá quan tâm đến các vấn đề
này. Hiệp định P4 (tiền thân của TPP) cũng bao gồm các quy định liên quan. Vì vậy khả
năng TPP tương lai có thể bao trùm các lĩnh vực này là tương đối lớn. Một mặt, việc tổ
chức thực hiện các yêu cầu này sẽ là một gánh nặng lớn đối với Nhà nước (trong việc gia
nhập các công ước liên quan, sửa đổi quy định pháp luật nội địa, xây dựng các cơ chế,
thủ tục ban hành thực thi mới…). Việc thực thi cũng tao ra nhiều chi phí cho doanh
nghiệp để thực thi (ví dụ như thay đổi công nghệ nuôi trồng – sản xuất, thay đổi nguồn
cung nguyên vật liệu, bổ sung cơ chế kiểm soát…). Ngoài ra, có những vấn đề thuộc về
thể chế không dễ thay đổi (như quyền lập hội, quyền đàm phán tập thể…). Mặt khác,
thực hiện các cam kết dạng này sẽ là cơ hội tốt để chúng ta cải thiện hệ thống pháp luật,
đặc biệt là từ góc độ phát triển bền vững (môi trường), vì quyền con người (lao động),
minh bạch hóa và cải cách hành chính (các vấn đề còn lại). Từ góc độ này, những lợi ích
mà việc thực hiện những cam kết này mang lại có thể là rất lớn và có giá trị lâu dài (vượt
xa những chi phí bỏ ra để tổ chức thực hiện các yêu cầu này).
Thứ bảy, bất lợi từ việc thực thi các yêu cầu cao liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ Hoa Kỳ là đối tác có tiếng là cứng rắn trong những vấn đề liên quan đến bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ cả trong WTO lẫn trong các FTA của nước này. Đối với TPP, vấn đề
này cũng đã được Hoa Kỳ thể hiện tương đối rõ ràng (với mong muốn đạt được TRIPs +
trong lĩnh vực này). Tuy nhiên, đây lại là vấn đề lớn đối với Việt Nam trong hoàn cảnh
thực tế vi phạm còn lớn và các thiết chế bảo hộ còn thiếu hiệu quả. Việc bảo hộ chặt chẽ
các quyền sở hữu trí tuệ cũng sẽ dẫn tới những khó khăn trước mắt cho nhiều doanh
nghiệp Việt Nam (khi phải bỏ vốn nhiều hơn cho những sản phẩm thuộc loại này) và
người tiêu dùng (khi phải trả giá đắt hơn cho dản phẩm).
Thứ tám, bất lợi từ việc mở cửa thị trường mua sắm công. Mua sắm công là một vấn đề
phức tạp và hiện vẫn đang là lĩnh vực tương đối đóng đối với tự do thương mại. Trong
WTO, Hiệp định về mua sắm công có sự tham gia của một số lượng rất hạn chế các nước
và mặc dù bị Hoa Kỳ kêu gọi hoặc thúc ép, nhiều nước vẫn giữ quan điểm thận trọng đối
với lĩnh vực này . Trong TPP, có nhiều ý kiến cho rằng Hoa Kỳ sẽ lại đưa ra yêu cầu này
21



cho các đối tác tham gia đàm phán (ví dụ bằng việc yêu cầu các đối tác TPP tham gia
Hiệp định về mua sắm công của WTO hoặc đưa các quy định của Hiệp định này vào
TPP).
Đối với Việt Nam, việc mở cửa thị trường mua sắm công theo cách này có được suy đoán
là sẽ gây ra những tác động bất lợi (với những lo ngại tương tự như lo ngại của nhiều
nước về sự “tấn công” của các nhà cung cấp nước ngoài khiến doanh nghiệp nội địa
không cạnh tranh nổi trong các vụ đấu thầu lớn) trong khi khả năng Việt Nam tiếp cận
được với thị trường mua sắm công của các đối tác TPP là hầu như không có.
Ngoài những thách thức kể trên, Việt Nam cũng gặp phải nhiều bất lợi ở thị trường các
nước đối tác TPP. Cụ thể, trong đàm phán FTA nói chung, thị trường nước ngoài thường
được suy đoán là nơi mà nước đàm phán thu được lợi ích. Tuy nhiên, riêng đối với trường
hợp TPP (với việc Hoa Kỳ thuộc nhóm đi đầu trong việc sử dụng các biện pháp rào cản,
và lại rất nhấn mạnh các vấn đề phi thương mại trong đàm phán TPP) khả năng “mất” ở
thị trường nước ngoài vẫn được đề cập tới. Tuy nhiên, vấn đề này cần được làm rõ hơn.
Cụ thể:
Một là, các yêu cầu/tiêu chuẩn cao về môi trường và lao động. Như đã đề cập, khả năng
những vấn đề về môi trường và lao động được đưa vào phạm vi điều chỉnh của TPP theo
hướng nâng cao các tiêu chuẩn/yêu cầu về các lĩnh vực này là rất lớn. Trên thực tế, các
yêu cầu này ở các thị trường đối tác TPP (đặc biệt là Hoa Kỳ) đã từng hoặc đang khiến
nhiều loại hàng hóa xuất khẩu gặp nhiều thách thức ở các thị trường này (ví dụ tiêu chuẩn
về nguồn gốc đối với các sản phẩm có chứa gỗ). Vì vậy đây luôn luôn là vấn đề hóc búa
đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Hai là, các thủ tục ràng buộc về ban hành và thực thi các quy định về TBT, SPS, phòng
vệ thương mại…Khả năng TPP tương lai có các điều khoản về TBT, SPS, phòng vệ
thương mại…là rất lớn. Đây lại là những rào cản mà hàng hóa xuất khẩu Việt Nam lâu
nay phải đối mặt ở các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là Hoa Kỳ. Do đó lo lắng rằng
những cam kết về các vấn đề này có thể khiến cho những lợi thế về thuế quan mà hàng
hóa xuất khẩu Việt Nam được hưởng từ TPP bị vô hiệu hóa không phải không có cơ sở.
22



Tuy nhiên, cần phải thực tế hơn khi xem xét vấn đề này. Đúng là những lợi ích từ việc
giảm thuế sẽ không là gì nếu các rào cản kiểu TBT, SPS hay phòng vệ thương mại ngày
càng dựng cao hơn đối với hàng Việt Nam. Tuy nhiên, tham khảo các điều khoản liên
quan trong các FTA mà Hoa Kỳ hay các đối tác TPP ký gần đây thì chúng hầu như chỉ
bao gồm những nội dung liên quan đến thủ tục (theo hướng tăng cường các thủ tục ràng
buộc các chính phủ khi ban hành hay thực thi những quy định TBT, SPS, phòng vệ
thương mại) chứ không quy định cụ thể về các tiêu chuẩn/yêu cầu xác định cho từng loại
hàng hóa (trừ một số rất hãn hữu các trường hợp, ví dụ quy định liên quan đến ô tô trong
FTA Hoa Kỳ - Hàn Quốc). Do đó TPP được suy đoán là cũng không thể xử lý các vấn đề
về mức độ rào cản cụ thể trên thực tế. Và vì vậy, cũng tương tự như vấn đề môi trường
hay lao động, hàng hóa Việt Nam dù có hay không có TPP vẫn phải đáp ứng các yêu cầu
thực tế về những nội dung này của đối tác TPP. Thậm chí, từ một góc độ khác, những
ràng buộc mới về thủ tục trong TPP còn có thể khiến cho Việt Nam có thêm cơ hội để
tham gia ý kiến, bình luận và do đó có thể can thiệp nhiều hơn vào quá trình ban hành
mới những quy định thuộc nhóm này.Vì vậy, các vấn đề này nếu được TPP điều chỉnh
cũng sẽ không làm hàng hóa Việt Nam bất lợi hơn so với hiện tại ở thị trường các nước
TPP.
Tóm lại, việc tham gia vào TPP nói riêng hay bất kỳ một FTA nào cũng đem lại nhiều cơ
hội và thách thức cho Việt Nam. Việc nhìn nhận một yếu tố dưới góc độ tích cực hay tiêu
cực hoàn toàn chỉ mang tính tương đối. Dù nhìn nhận từ góc độ nào thì Việt Nam cũng
cần phải giữ vững tâm thế chào đón bằng những giải pháp linh hoạt. Chỉ khi có một định
hướng đúng đắn cùng với những quyết sách đúng đắn, kịp lúc thì chúng ta hoàn toàn có
khả năng biến bất cứ thách thức nào thành cơ hội để thực hiện mục tiêu phát triển đất
nước và gia tăng vị thế trên trường quốc tế.
3. Tác động của TPP đến ngành dệt may Việt Nam
3.1. Tổng quan về ngành dệt may
3.1.1. Đôi nét về ngành dệt may Việt Nam


23


Dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của ngành công nghiệp Việt Nam, là ngành sản xuất
mũi nhọn, có tiềm lực phát triển cao. Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về dệt may, với
trên 90 triệu người, đa số dân số trẻ, giá nhân công rẻ, chi phí thấp… là lợi thế lớn so với
các quốc gia khác. Trong những năm gần đây ngành công nghiệp dệt may đã có những
bước tiến vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khoảng 30%/năm, trong lĩnh
vực xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm và chiếm 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Tính đến nay cả nước có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may, trong
đó doanh nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 370
doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 221 doanh nghiệp. Ngành dệt
may có năng lực như sau:


Về thiết bị: có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải; 450 máy dệt kim và



190.000 máy may.
Về lao động: ngành dệt may đang thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động, chiếm



25% lực lượng lao động công nghiệp.
Về thu hút đầu tư nước ngoài: tính đến nay có khoảng 180 dự án sợi-dệt-nhuộm
-đan len-may mặc còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ USD, trong đó
có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao động trực tiếp




và hàng ngàn lao động gián tiếp.
Tổng nộp ngân sách thông qua các loại thuế ngày càng tăng, tốc độ tăng bình quân



khoảng 15%/ năm.
Về thì trường xuất khẩu: chúng ta xuất khẩu nhiều sang các thị trường Mỹ, EU,
Canada và Nhật Bản trong đó các nước EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may
lớn nhất của Việt Nam chiếm 34%-38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của
Việt Nam. Còn sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản đã được hưởng thuế
ưu đãi theo hệ thống GSP nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
này tăng khá nhanh trong những năm gần đây, thị phần hàng dệt thoi và dệt kim
của nước ta trên thị trường hàng dệt may của Nhật Bản tương ứng là 3,6% và
2,3%, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 30% sản phẩm dệt may.

24


3.1.2. Cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường chính
Nhà nhập khẩu chính của Việt Nam: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Năm 2013,
tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 4 thị trường này đạt 15,3 tỷ USD, chiếm tới
85,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Kim ngạch đạt 8,6 tỷ
USD năm 2013; chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam. Việt Nam
xuất sang thị trường Hoa Kỳ thì hàng dệt may dẫn đầu với tỷ trọng chiếm 38% tổng
kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2013

Năm 2014


Nguồn: Tổng cục Hải quan

3.1.3. Tình hình xuất khẩu dệt may
Bảng 1:Tình hình xuất khẩu ngành dệt may năm 2012 - 2014
ĐVT:1,000,000 USD

KNXK

Năm

Năm

Năm

2012

2013

2014

15,090.2 17,933.4 21,063.6

So sánh 13/12

So sánh 14/13

Tăng

Tăng




trưởng %



trưởng %

2,843.19

118.8

3130.24

117.5

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may năm 2012-2014

25


×