Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VỚI VẤNĐỀ VỀ ĐÀO TẠO KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.31 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi xuất hiện nền kinh tế hàng hoá giản đơn cho tới ngày nay mục tiêu
lớn nhất mà con người đặt ra đó là sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phạm trù
này trong từng thời kỳ của nền kinh tế đều có những biểu hiện khác nhau và đã
đạt được một số thành tựu nhất định. Các thành tựu đó dù nhỏ bé hay lớn lao
đều nhằm mục đích phục vụ cho sự tăng trưởng không ngừng và sự phát triển
bền vững của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay, tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng
trưởng cao và bền vững đang là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau về tốc độ, các điều kiện và xử
lý các mối quan hệ đảm bảo tốc độ, các điều kiện và xử lý các mối quan hệ đảm
bảo tốc độ tăng trưởng cao và phát triển bền vững. Trong hội thảo "Hoàn thiện
chính sách và cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn mới" của chương trình
Khoa học công nghệ cấp nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh
tế và cơ chế quản lý kinh tế" mã số KX03 tổ chức vào tháng 7 - 1995 cho thấy
nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề này cần được tiếp tục trao đổi và làm sáng tỏ.
Nhiều ý kiến đã nhấn mạnh vai trò nhân tố nguồn lực và hệ thống quản lý
trong tăng trưởng kinh tế hiện đại. Dựa vào kinh nghiệm của nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, các ý kiến đó đã đề xuất tới việc giáo dục con người,
nâng cao trình độ dân trí, đào tạo chuyên môn nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế nói chung và đội ngũ kế toán viên, kiểm toán viên nói riêng là
cực kỳ quan trọng.
Thực tế các nước phát triển đã chứng minh, nếu việc đào tạo và tổ chức
hoạt động của đội ngũ kế toán viên, kiểm toán viên tốt có thể thúc đẩy nền kinh
tế phát triển mạnh với tốc độ và đạt tới bền vững. Nhưng ngược lại, ở các nước
chậm phát triển, do chưa nhận thức được vai trò của bộ phận kế toán - kiểm toán
nên nền kinh tế dễ rơi vào sự trì trệ, khủng hoảng hoặc lạm phát kéo dài dẫn tới
sự suy thoái nặng nề.
1



Vì vậy trong tiến trình phát triển kinh tế, sự ra đời của 92 tổ chức kinh tế
lớn của nhà nước, tập đoàn kinh doanh theo mô hình tổng công ty được thành
lập theo quyết định số 90/91 - TTG là rất cần thiết. Như vậy việc tổ chức và hoạt
động của kế toán, kiểm toán là cần thiết cho tổng công ty này và sẽ lớn mạnh
cùng với sự phát triển của tổng công ty và sự tăng trưởng bền vững của nền kinh
tế nước nhà.
Trong phạm vi của bài viết này vì điều kiện thời gian cũng như điều kiện
vật chất không cho phép. Chúng em xin đi sâu phân tích.
- Sự tác động của việc đào tạo kế toán kiểm toán tới sự tăng trưởng và
phát triển bền vững của nền kinh tế là một đề tài rộng lớn, phải được nghiên cứu
qua nhiều thời kỳ, trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi bài viết này
chúng em xin đi sâu nghiên cứu vai trò của việc đào tạo kiểm toán nhà nước đến
việc tăng trưởng bền vững nền kinh tế. Từ đó tìm ra những giải pháp thiết thực
nhất và vận dụng vào thực tế một cách nhuần nhuyễn tạo ra hiệu quả.
Để hoàn thành bài viết của mình, chúng em đã được sự giúp đỡ nhiệt tình
của thầy cô giáo và Khoa Kế toán. Tuy nhiên do điều kiện còn hạn chế về thời
gian cũng như trình độ, chúng em còn nhiều thiếu sót trong bài viết của mình.
Rất mong các bạn, thầy cô đưa ra ý kiến và giúp đỡ.

2


PHẦN I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VỚI VẤN
ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC
Thế kỷ 21 là thế kỷ của giao lưu văn hoá toàn cầu "bất kỳ nền kinh tế nào
muốn cất cánh đều phải phát huy nội lực nội lực mới là động lực chính của sự
phát triển, không gì bền vững và có thể thay thế được việc huy động các nguồn
tài nguyên quốc gia vào lao động sản xuất trong các lĩnh vực. Đó là con đường
phát triển duy nhất bền vững và cân đối. Nó đòi hỏi sự phát triển phải thông qua:

Tiết kiệm, kiểm soát tài chính chặt chẽ, đầu tư nội địa và không được coi nhẹ thị
trường trong nước.
Hiện nay theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế thì Việt Nam ở vào vị
thế có sức hấp dẫn kém nhất trong khu vực. Trong những năm gần đây Đảng và
Nhà nước ta đang không ngừng đưa ra mọi biện pháp để xây dưựg một mô hình
phát triển kinh tế Việt Nam đảm bảo sự tăng trưởng bền vững.
Về khái niệm: Tăng trưởng là tăng mức tổng sản phẩm trong nước tính
theo đầu người, thực chất cũng là tăng sức sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Vì tăng trưởng là tăng mức đầu ra GNP cho nên có thể nói mức tăng trưởng
được quyết định bởi các nhân tố đầu vào. Đối với nước ta hai nguồn lực được
coi là chủ yếu và quan trọng nhất là vật chất và con người. Trong phạm vi bài
viết này chúng em chỉ xin đề cập đến nhân tố con người sâu hơn là đội ngũ cán
bộ quản lý trong đó có lực lượng kiểm toán viên nhà nước.
Về mô hình: Tăng trưởng bền vững đảm bảo sự cân đối giữa công nghiệp
- nông nghiệp - dịch vụ. Mà trong đó lấy nông nghiệp làm nền móng thúc đẩy
công nghiệp và dịch vụ. Tăng trưởng kinh tế phải giải quyết được các vấn đề xã
hội như: lao động việc làm, y tế, giáo dục...
1. Dự báo tốc độ tăng trưởng và những điều kiện cần cho tăng trưởng
của Việt Nam đến năm 2010
Chuyển mình cùng thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế nước
ta đang đứng trước những thách thức lớn lao và sự lựa chọn hết sức khó khăn.
3


Hiện nay qua phân tích kết quả tăng trưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã xem xét
dưới giác độ cả quá trình phát triển nhưng cũng có tác giả phân chia giai đoạn
86 - 90 và 91 - 95. Giai đoạn 86 - 90 là thời kỳ mở đầu cho quá trình đổi mới
toàn diện, giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng chưa cao và thiếu ổn định vững
chắc. Giai đoạn 91 - 95 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao và
khá ổn định. Tuy nhiên tới giai đoạn 96 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á nền kinh tế nước ta lại có xu
hướng đi xuống. Biểu hiện ở chỉ số GDP và GNP giảm, lạm phát gia tăng. Sự
phát triển chưa đủ bền vững khủng hoảng cục bộ khủng hoảng tiềm ẩn trên một
số lĩnh vực còn nặng và đang rình rập chuyển thành khủng hoảng kịch phát. Do
đó cần có những chính sách và biện pháp để tạo ra những nguồn lực tăng trưởng
bền vững trong những năm đầu thập kỷ 21. Dự kiến từ năm 2000 - 2020 nước ta
sẽ hoàn thành CNH - HĐH. Khi đó nền kinh tế sẽ đi vào ổn định tăng trưởng với
tốc độ cao.
Các điều kiện quyết tăng trưởng cao và bền vững: Về mặt ý kiến nói
chung 3 yếu tố cơ bản cho mọi mô hình tăng trưởng là: Lao động, đầu tư và
công nghệ. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, bên cạnh sự coi trọng đung
mức nhân tố khoa học kỹ thuật và con người thì đa số các nước có tốc độ tăng
trưởng cao đều coi yếu tố đầu tư (vốn) là quyết định. Tuy nhiên, các yếu tố đề
xuất ra còn ở mức khác nhau. Có ý kiến cho rằng tổng mức đầu tư cho giai đoạn
96 - 2000 cần ít nhất 65 tỷ USD. Cũng có phương án tính toán trong giai đoạn
96 - 2000 nước ta cần 45 - 50 tỷ USD chiếm 29 - 31% GDP. Vậy quy mô đầu tư
và tỷ lệ đầu tư so với GDP từ nay tới năm 2010 phải ở mức nào?
Về cơ cấu nguồn vốn có những tính toán cụ thể như nguồn huy động
trong nước chiếm 18 - 20% GDP, còn đầu tư nước ngoài chiếm 10 - 12% GDP.
Thực tế đến nay, việc huy động vốn trong dân là rất khó khăn mới chỉ đạt
khoảng 1/2. Vậy Nhà nước cần đề ra những chính sách và biện pháp gì để có thể
khai thác nguồn vốn trong nước nói chung và trong dân nói riêng.
Về nhân tố con người, vấn đề đặt ra là trình độ cách tổ chức sắp xếp
nguồn lao động hiện nay. Đội ngũ công nhân Việt Nam đa phần có trình độ rất
4


thấp chưa đủ để tiếp thu trình độ khoa học tiến bộ. Đội ngũ trí thức vẫn còn quá
ít ỏi. Ngoài ra bộ phận cán bộ quản lý kinh tế nhiều nơi chưa được đào tạo chính
quy đặc biệt là đội ngũ kế toán viên kiểm toán viên.

Thậm chí nhiều cán bộ còn lạm dụng chức quyền dẫn tới quan liêu cửa
quyền làm ăn phạm pháp ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế như EFCO - Minh
Phụng.
Nhân tố công nghệ cho quá trình tăng trưởng cao và bền vững đang được
các nhà kinh tế quan tâm. Tuy nhiên việc xây dựng một chiến lược nghiên cứu
khoa học công nghệ như thế nào phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta trong
bối cảnh hoà nhập vào cộng đồng quốc tế và cạnh tranh quốc tế vẫn là vấn đề
cần được làm sáng tỏ.
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng bền vững đối với vấn đề đào tạo cán
bộ kiểm toán viên Nhà nước
Tăng trưởng bền vững

Vốn đầu tư

Con người

Người lao
động

Giám
đốc

Tài nguyên

Cán bộ
quản lý

T
ài nguyên
Công

nghệ

Trí thức kỹ


Hội

Hội

đồng

đồng

quản

giám

Kiểm

trị

đốc

toán

5

Tài vụ

Kế

toán


Thông qua sơ đồ trên ta thấy kế toán, kiểm toán là hệ thống không thể
thiếu góp phần vào nguồn lực con người tạo nên tăng trưởng bền vững.
Hiện nay kiểm toán nói chung vẫn là hoạt động hết sức mới mẻ ở Việt
Nam. Để đảm bảo cho việc xét duyệt các báo cáo quyết toán do các vụ tài vụ
của các bộ chủ quan, phòng tài chính của các sổ chủ quản tiến hành, ngày
11/07/1994 KTNN chính thức được thành lập theo nghị định 70/CP với chức
năng "xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán báo cáo
quyết toán của các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã
hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp".
Chỉ sau một năm thành lập, KTNN đã vừa ổn định bộ máy, xây dựng các
văn bản pháp quy, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ kiểm toán và thực hiện
những cuộc kiểm toán và thực hiện những cuộc kiểm toán có quy mô lớn góp
phần chấn chỉnh công tác quản lý tài chính kế toán và thu nộp cho ngân quỹ
hàng hàng trăm tỷ đồng.

6


PHẦN II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ KIỂM TOÁN
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
Khái niệm về kiểm toán viên Nhà nước: KTVNN là những công chức
làm nghề kiểm toán. Do đó, họ được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm
toán nhà nước phân công. Đồng thời họ được xếp vào ngành bậc chung của công
chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ):
- Kiểm toán viên
- Kiểm toán viên chính

- Kiểm toán viên cao cấp.
1. Những mặt đạt được trong đào tạo cán bộ kiểm toán Nhà nước.
Ngày 11/7/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 70/CP về việc thành lập
cơ quan Kiểm toán nhà nước. Đây là một cơ cấu mới thuộc Chính phủ, nó là
công cụ kiểm soát vi mô của Nhà nước. Sự ra đời của kiểm toán Nhà nước
(KTNN) là phù hợp với công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng từ trước
đây hơn 10 năm, nó phản ánh sự chuyển hướng tích cực của công cuộc cải cách
nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước pháp quyền và chuyển dần sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Như vậy KTNN hình hành ở
nước ta là sản phẩm tất yếu của công cuộc đổi mới, phù hợp với đòi hỏi khách
quan của nền kinh tế chuyển đổi, đồng thời cũng thể hiện sự gia tăng đáng kể
của công tác kiểm tra, kiểm soát trên bình diện vĩ mô của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, KTNN Việt Nam khi mới ra đời đã có những đặc trưng khác
biệt so với các nước. ở các nước có nền kinh tế phát triển, KTNN đã có hàng
trăm năm và đã chứng tỏ là một công cụ có hiệu lực cao của Nhà nước trong
việc kiểm soát nền tài chính công. Còn ở nước ta, KTNN ra đời trong điều kiện
không có tổ chức tiền thân, hệ thống kiểm soát của ta đang trong quá trình đổi
mới sắp xếp lại. Vì lẽ đó, công cuộc tạo dựng tổ chức, cơ chế hoạt động xây

7


dựng các cơ sở pháp lý cùng các chuẩn mực, quy trình công nghệ kiểm toán đều
như bắt đầu từ đầu.
Nhưng được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và sự chỉ đạo trực tiếp của
Chính phủ cho đến nay chúng ta đã làm được một số việc tuy mới chỉ là bước
đầu nhưng lại hết sức quan trọng: Chính phủ đã raNghị định 70/CP về việc
thành lập cơ quan KTNN, Thư tướng Chính phủ đã ra quyết định 61/TTG ngày
24/1/1995 ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Những cơ sở pháp

lý đó góp phần xây dựng tổ chức, tuyển dụng cán Bộ vận hành một bộ máy hoạt
động, lúc đầu năm 1994 chỉ có ba bốn chục người đến nay đã có xấp sỉ 500 kiểm
toán viên Nhà nước. Tất cả đều tốt nghiệp đại học chuyên ngành kế toán, tài
chính kế toán và một số ngành kinh tế kỹ thuật.
Đó là những thành tích đạt được về mặt số lượng đội ngũ cũng như chất
lượng. Bên cạnh đó còn nhiều mặt tốt trong tổ chức đào tạo như: dự án quản lý
tài chính Việt Nam - Canada với mục tiêu nâng cao năng lực hoạch định chính
sách tài chính bán bộ tài chính Việt Nam thông qua các hoạt động đào tạo là phù
hợp với yêu cầu tình hình hiện nay. KTNN Việt Nam là thành viên cua hai tổ
chức INTOSAI và ASOSAI, ngoài ra còn quan hệ với một số nước như: Đức,
Malaysia, Nhật, Vương quố Anh, Thái Lan... mối quan hệ đó đã giúp cho việc
đào tạo kiểm toán viên Nhà nước. Ngoài ra, việc tổ chức đào tạo trong nước ở
các trường Đại học đối với kiểm toán viên chính quy cũng được phát triển. Mới
đầu chỉ có trường Đại học KTQD sau đó mở rộng sang các trường khác hứa hẹn
cung cấp. Một khối lượng kiểm toán viên có trình độ cao trong tương lai
Bên cạnh đó đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đã góp phần tích cực trên
mặt trận chống tham nhũng, củng cố hoạt động tài chính, bộ máyNhà nước,
cung cấp thông tin, đòi hỏi về phía thực tế. Kiềm toán Nhà nước đã tiến hành
gần 1500 cuộc kiểm toán đối với hầu hết các tỉnh thành, nhiều bộ ngành và hàng
trăm doanh nghiệp lớn của Nhà nước, giúp tiết kiệm và tăng thu cho Nhà nước
hàng ngàn tỷ đồng. Như vậy nó chứng minh cho sự phát triển không ngừng của
năng lực kiểm toán viên Nhà nước.

8


Tuy nhiên, KTNN mới ra đời, trong điều kiện chưa có tổ chức tiền thân
hệ thống kiểm soát còn đang trong điều kiện đổi mới sắp xếp lại nền đội ngũ.
Kiểm toán viên vẫn còn "non trẻ" không tránh khỏi những hạn chế chưa đáp ứng
đòi hỏi của sự phát triển sự nghiệp KTNN trong thời kỳ đổi mới.

2. Những mặt hạn chế
2.1. Về mặt số lượng
Đội ngũ cán bộ và các chức danh KTV hiện nay đang còn thiếu trầm
trọng - cho đến nay tổng số mới có gần 500 cán bộ KTNN. Hơn nữa để phù hợp
với quá trình phát triển của chức năng nhiệm vụ và sự mở rộng khối lượng kiểm
toán, quy mô của KTNN, những yêu cầu gia tăng về số lượng, chất lượng của
đội ngũ cán bộ công chức KTNN sẽ xuất hiện ngày càng lớn, càng nhiều. Đòi
hỏi chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo để bổ sung cho lực lượng
cán bộ đang còn thiếu.
2.2. Về mặt chất lượng:
Thực tế cho thấy rằng những người đã giữ những cương vị công tác chức
ngành tài chính của khối trung ương và địa phương, kế toán trưởng của các tổng
công ty (hoặc tương đương), kế toán trưởng của các doanh nghiệp hạng I nhìn
chung là bề dày trong công tác quản lý, có khả năng tổng hợp ở tầm vĩ mô và có
thể tham gia việc hoạch định các chính sách, có khả năng chuyên môn nghiệp
vụ, nhưng số này chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số kiểm toán viên
Nhà nước. Bên cạnh đó đội ngũ công tác kiểm toán Nhà nước (từ lãnh đạo, quản
lý đến các kiểm toán viên) phần lớn chưa được bồi dưỡng cơ bản và bài bản về
chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các kiến thức có liên quan. Đội ngũ công
chức kiểm toán Nhà nước chủ yếu được điều động từ các Bộ, ngành và các cơ
quan đến, chưa tuân thủ những đòi hỏi nhất định.
Một vấn đề nữa là mặc dù đã được đào tạo chính quy chuyên ngành về kế
toán, tài chính và một số chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật khác họ có kinh nghiệm
về công tác kế toán, tài chính... nhưng cũng chính đội ngũ công chức đó hiện lại
chưa được trang bị đầy đủ những tri thức cần thiết để thích ứng với cơ chế mới,

9


cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và nghiêm ngặt của một công

chức Kiểm toán.
Tất cả những vấn đề đó được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, những kiến thức về kiểm toán:
Kiểm toán là một loại hình hoạt động nghề nghiệp, đòi hỏi phải có sự đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ, phong cách, kỹ năng, kỹ xảo thành thục trước khi
đảm đương, thực thi nhiệm vụ. Có năng lực để hiểu các chuẩn mực được sử
dụng, có đủ trình độ để hiểu biết các loại và số lượng bằng chứng cần thu thập
để đi đến một kết luận phù hợp, chuẩn xác sau khi kiểm tra xem xét các bằng
chứng có đủ trình độ mới làm chủ được quá trình thu nhập những tài liệu bằng
chứng cần thiết với những thông tin và suy nghĩ khách quan, độc lập để đưa ra
những phán đoán và quyết định chính xác. Như vậy việc thiếu hụt những tri thức
và nghiệp vụ thuộc công nghệ kiểm toán có thể nói là một rào cản lớn khi kiểm
toán viên thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó đến nay kiểm toán nhà nước vẫn
chưa có được chương trình đào tạo nghiệp vụ riêng cho các kiểm toán viên kiểm
toán nhà nước.
Tuy đã có 4 khoá tập huấn nghiệp vụ Kiểm toán nhà nước Trung ương và
khu vực, 2 khoá quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên. Ngoài ra còn phối hợp
với dự án ADB và dự án ODA của cộng hoà Liên bang Đức, kiểm toán nhà
nước đã cử nhiều đoàn cán bộ đi khảo sát, nghiên cứu chuyên đề ở nước ngoài,
cử một số thực tập sinh đi nước ngoài. Nhưng đây mới chỉ đáp ứng nhu cầu
trước mắt, hiện thời.
Hai là, những kiến thức về pháp luật.
Do trong một quá trình dài và đặc biệt là do chuyển sang một cơ chế mới,
chúng ta chưa có những điều kiện xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và
phù hợp. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, kinh tế, chủ yếu dựa vào các văn
bản dưới luật. Phần đông kiểm toán viên hiện có được đào tạo từ các trường
kinh tế từ thời kỳ trước, nên đội ngũ công chức kiểm toán nhà nước chưa được
trang bị căn bản và hoàn chỉnh mảng kiến thức về luật pháp, bao gồm ngành luật

10



chung và nhất là luật điều chỉnh các hoạt động kiểm toán cũng như điều chỉnh
hoạt động của các đối tượng kiểm toán.
Ba là, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề mới xuất hiện,
đặc biệt những phạm trù vĩ mô và vai trò của Nhà nước trong việc quản lý vĩ mô
đối với nền kinh tế thị trường. Những kiểm toán viên được đào tạo ở gian đoạn
đại học truớc đây chưa được đầy đủ, do đó cần có chiến lược đào tạo bổ sung
kiến thức.
Bốn là, những tri thức ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong kiểm
toán chưa được đáp ứng. Hiện nay, một mặt Nhà nước chưa đủ kinh phí trang bị
hiện đại và phương tiện máy tính cho kiểm toán Nhà nước nhưng xét kỹ hơn thì
đội ngũ kiểm toán viên kiểm toán nhà nước cũng chưa được đào tạo để thích
ứng với yêu cầu kiểm toán trong môi trường máy vi tính.
Năm là, sự tiếp cận với kiểm toán quốc tế tìm hiểu nghiên cứu về kinh
nghiệm kiểm toán của các nước trên thế giới còn hạn chế. Những phương thức
tổ chức, điều hành và chuẩn mực kiểm toán còn nhiều mặt chưa theo kịp với tiến
trình hội nhập kiểm toán quốc tế. Việc cần thiết phải tham khảo tài liệu nước
ngoài để tự học tập nâng cao trình độ và trao đổi kinh nghiệm tuy còn hạn chế
do trình độ ngoại ngữ của các kiểm toán viên còn chưa hoàn thiện nên không
phải đa số kiểm toán viên đều làm được điều đó.
3. Yêu cầu đối với việc đào tạo kiểm toán.
Xuất phát từ vai trò của kiểm toán viên Nhà nước là:
Cơ sở để Nhà nước đưa các chính sách kinh tế vĩ mô: như hệ thống pháp
luật, chính sách kinh tế củng cố hoạt động của các đơn vị thuộc khách thể kiểm
toán Nhà nước.
Góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động kế toán nói
chung và hoạt động của đơn vị nói riêng: qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán
viên Nhà nước đưa ra ý kiến nhằm xây dựng các quy định, quy tắc, chuẩn mực
cho hoạt động kiểm toán kế toán. Đồng thời giúp cho các doanh nghiệp kịp thời

phát hiện những sai sót, vi phạm chế độ kế toán nhằm xử lý chấn chỉnh kịp thời
các sai phạm.
11


Kiểm toán Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý của
các đơn vị thuộc khách thể kiểm toán Nhà nước.
Xuất phát từ tinh thần của Đảng và Nhà nước theo Nghị quyết hội nghị
lần 3 ban chấp hành TW Đảng (Khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá đất nước đã khẳng định :"Cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng" và "Xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy
Nhà nước". Trên quan điểm cơ bản đó, Nghị quyết TW 3 đã xác định yêu cầu
đối với cán bộ công chức Nhà nước trong gian đoạn hiện nay là "cần phải được
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết là về đường lối chính trị, về
quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế". Trong đội ngũ cán bộ quản lý đó có một bộ
phận rất quan trọng đó là lực lượng KTVNN. Nó góp phần cho sự vững mạnh,
trong sạch bộ máy Nhà nước... cho nên việc tiến hành phát triển việc đào tạo cán
bộ kiểm toán là yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Xuất phát từ thực tế
kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thì việc đào tạo kiểm toán viên là một
tất yếu và là xu hướng hiện nay. Theo ngài Emer.B.Taats nguyên tổng kiểm
toán Hoà kỳ đã từng khuyến cáo và khẳng định. "việc đào tạo KTVNN có thể là
một thử thách lớn nhất mà Nhà nước của chúng ta phải đương đầu hiện nay và
ngày mai. Các chuẩn mực kiểm toán có thể áp dụng và kiểm toán tối cao của
một quốc gia, nhưng nếu chẳng có một khả năng nào đảm bảo cho kiểm toán
hoạt động tồn tại thì chuẩn mực kiểm toán đó sẽ trở nên vô nghĩa"
Do vậy ta thấy rằng việc đào tạo kiểm toán viên nói chung và đào tạo
Kiểm toán viên nhà nước nói riêng là rất quan trọng.
Xuất phát từ thực trạng đội ngũ kiểm toán nhà nước và những bức bách

hiện nay cũng như trong tương lai khi bước sang thế kỷ 21. Ta thấy với nhiệm
vụ mà Chính phủ đã giao cho kiểm toán nhà nước rất lớn với 20.000 đơn vị dự
toán, 61 ngân sách tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương gồm 600 ngân sách
quận huyện, gần 10.000 ngân sách xã 26 ngân sách cán bộ và 21 ngân sách cơ
quan thuộc Chính phủ, các văn phòng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ các tổ
12


chức xã hội, trên 6000 doanh nghiệp Nhà nước hàng trăm công trình xây dựng
cơ bản trọng điểm và các dự án Chính phủ. Trong khi đó hiện nay kiểm toán nhà
nước mới có gần 500 cán bộ ở trung ương và 4 khu vực. Theo tương quan về số
lượng ta thấy yêu cầu bức bách với tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm toán
nhà nước hiện nay.
Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra là phải thông qua hoạt động kiểm toán phải
thúc đẩy sự lành mạnh hoá nền tài chính Quốc gia. Sau mỗi lần thực hiện kiểm
toán phải góp phần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là góp phần chấn chỉnh
nâng cao chất lượng kế toán trong các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà
nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công. Để làm như
vậy thì phải có đội ngũ kiểm toán viên không những đủ về số lượng mà còn phải
có phẩm chất và trình độ chuyên môn cao, phù hợp với đòi hỏi và yêu cầu của
kiểm toán. Trong khi đó với thực trạng chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà
nước hiện nay đã nêu và những căn cứ trên chúng ta cần có sớm một chiến lược
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm toán nhà nước như là một sự đảm bảo cho chiến
lược tăng trưởng và phát triển bền vững vào đầu thế kỷ 21.

13


PHẦN III
MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

1. Mục tiêu
Muốn xây dựng một chương trình đào tạo kiểm toán viên Nhà nước
chúng ta xác định rõ mục tiêu công tác.
Mục tiêu đó bao gồm:
1.1. Đạo đức nghề nghiệp: Đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước phải đáp
ứng những yêu cầu cơ bản sau: có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính trực,
khách quan, độc lập và phải tôn trọng bí mật.
1.2. Năng lực làm việc:
Có hiểu biết và kiến thức rộng, có đủ năng lực về chuyên môn và công
nghệ kiểm toán.
Nắm bắt, xử lý tình huống kiểm toán ngày càng đa dạng và phức tạp, có
bản lĩnh chủ động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kiểm toán.
Hiện nay đối với kiểm toán Nhà nước thì nhu cầu đào tạo là rất lớn nhưng
khả năng để đáp ứng còn bị hạn chế rất nhiều. Vì vậy vấn đề đặt ra là sớm hoạch
định một chiến lược đào tạo bồi dưỡng và phải có cơ sở vật chất để triển khai
một cách kiên trì và quyết liệt.
2. Các giải pháp để đào tạo kiểm toán viên Nhà nước ở Việt Nam
2.1. Xây dựng một chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ giải quyết những
vấn đề còn hạn chế nhằm tạo ra một đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đủ về số
lượng mạnh về chất lượng (bao gồm cả phẩm hạnh về nghề nghiệp kiến thức
hiện đại, trình độ và phương pháp kiểm toán, có đủ sức khoẻ để phục vụ lâu dài
trong ngành) nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho từng loại kiểm toán
viên.
2.2. Kiên trì thực hiện kế hoạch bồi dưỡng vào việc cập nhật hoá kiến
thức cho số cán bộ cũ, trợ giúp về kinh nghiệm và kiến thức chuyên ngành cho
đội ngũ cán bộ mới bao gồm cả kiến thức luật pháp, kinh tế vi mô, kinh tế vĩ

14



mô, luật về kế toán, kiểm toán và các kiến thức bổ trợ cho việc giảng dạy và học
tập...
2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả đào tạo. Xây dựng một đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm nhằm đảm bảo
qui trình đào tạo với chất lượng cao.
2.4. Xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo, củng cố và phát triển
tiềm lực cho trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước để
đảm bảo cho công tác đào tạo lâu dài.
2.5. Tổ chức công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo các kiểm
toán viên Nhà nước, tạo nguồn kiến thức và đúc rút kinh nghiệm cho quá trình
đào tạo kiểm toán viên.
2.6. Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ đầu vào nhằm cả vào hai đối
tượng. Chỉ lựa chọn cán bộ cũ có đầy đủ điều kiện và thi tuyển kiểm toán viên
từ những sinh viên ưu tú của trường đại học để bồi dưỡng thành một lực lượng
kiểm toán viên giỏi có đủ khả năng đảm trách nhiệm vụ lâu dài và đáp ứng được
nhu cầu mới.
2.7. Mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế về đào tạo bồi dưỡng kiểm toán
viên nhà nước, giúp kiểm toán viên có cơ hội và điều kiện hội nhập với Quốc tế.
Đây là một nhu cầu không thể thiếu được đặc biệt là trong điều kiện hiện nay,
kiểm toán viên Nhà nước là thành viên của hai tổ chức INTOSAI và ASOSAI và
có quan hệ hợp tác với một số nước như: Đức, Anh, Nhật... mối quan hệ quốc tế
đó sẽ giúp chúng ta trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm toán viên Nhà nước,
cung cấp những tư liệu giáo trình, những kinh nghiệm thực tiễn, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nghiên cứu của kiểm toán nhà nước.
3. Kiến nghị
Hiện nay, hoạt động của kiểm toán Nhà nước vẫn còn thiếu sự bảo đảm
của pháp luật. Hành lang pháp lý cao nhất cho loại hình hoạt động này chỉ dừng
ở Nghị định của Chính phủ. Để hoạt động kiểm toán thực sự có hiệu quả, nhu
cầu cấp thiết đặt ra là phải có một cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khuyến khích
kiểm toán nhà nước phát triển mạnh.

15


Bên cạnh đó, cần tiến hành xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn của
kiểm toán viên. Sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ hành nghề của
kiểm toán viên. Đặc biệt coi trọng việc gìn giữ phẩm chất đạo đức của kiểm toán
viên, chú trọng nâng cao chất lượng kiểm toán. Định kỳ tổ chức học tập chính
trị, rèn luyện, tu dưỡng lương tâm, đạo đức và việc hành nghề cho kiểm toán
viên. Nâng cao tính trách nhiệm cá nhân của kiểm toán viên trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ kiểm toán. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm trước kết quả
kiểm toán và những nhận xét, kết luận của mình trong báo cáo kiểm toán.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát về chất lượng kiểm toán và đạo đức
hành nghề của kiểm toán viên. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm qui
chế hoạt động, vi phạm đạo đức hành nghề, vi phạm pháp luật để công tác kiểm
toán đi vào kỷ cương nề nếp.
- Ngày nay, các cử nhân kiểm toán khi ra trường vẫn chưa đủ trình độ
hành nghề kiểm toán viên. Để có một đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước chất
lượng cao, chúng ta phải phấn đấu để trình độ kiểm toán viên nước ta tương
đương với Quốc tế. Vì vậy, việc đầu tư cho giáo dục đặc biệt là giáo dục sau đại
học cũng tạo ra một tương lai sáng sủa cho ngành trong thời gian tới. Có thể nói
đầu tư cho giáo dục trồng người, xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới là
đầu tư có hiệu quả nhất, lâu bền nhất. Hơn nữa hiện nay kiểm toán là hoạt động
hoàn toàn mới mẻ và còn non trẻ. Việc tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất để
có một hệ thống đào tạo hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng là vô cùng cấp
thiết. Ngoài ra Nhà nước ta nên thực hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ nói
chung và kiểm toán viên nói riêng để khuyến khích họ chuyên tâm công tác.
Bản thân mỗi kiểm toán viên Nhà nước, không ngừng rèn luyện nâng cao
trình độ nghề nghiệp tự hoàn thiện về đạo đức.

16



KẾT LUẬN
Em nhận thấy rằng từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế có
sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển. Sở dĩ
như vậy là do hoạt động kiểm toán nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và
nâng cao độ tin cậy của các thông tin nhưng điều quan trọng là để tạo ra một
hành lang pháp lý vững chắc và thước đo chất lượng. Kiểm toán đòi hỏi phải
sớm ban hành một chuẩn mực kiểm toán quy định rõ tính pháp lý của các báo
cáo kiểm toán và trách nhiệm pháp lý của những người kiểm tra để tránh được
một cách tối đa những sai sót ở cấp kiểm tra cao nhất. Chúng ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước có thể nói là tạo
điều kiện tự do hơn, tự chủ hơn cho các thành phần kinh tế đồng thời cũng nảy
sinh rất nhiều mối quan hệ phức tạp, kinh tế phát triển càng cao có nhiều mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế vì vậy muốn đảm bảo tăng trưởng bền vững trong những
năm đầu thập kỷ 21 thì càng phải đề cao hơn nữa vai trò của kiểm toán trong đó
có đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là thành phần nòng cốt. Chúng ta cũng thấy
được yêu cầu cấp bách trong công tác đào tạo đội ngũ kiểm toán viên. Cần sớm
có một chiến lược rõ ràng và hiệu quả để lực lượng kiểm toán sớm trở thành
cánh tay đắc lực của Nhà nước trong ổn định và tăng trưởng nền kinh tế một
cách bền vững.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kiểm toán - Vương Đình Huệ.
2. Kiểm toán - Auditing - Alvin A. Arens và James K. Loebbecke
(Do Đặng Kim Cương và Phan Văn Dược - dịch)
3. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế.

4. Nguyễn Hồng Thuỷ: Từ khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực
suy nghĩ về con đường phát triển của Việt Nam.
Tạp chí kinh tế phát triển số 7 (tháng 8+9 - 1999)
5. * Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền
vững giai đoạn 1996 - 2000.
* Mô hình phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tăng trưởng bền vững ở
nước ta.
Tạp chí kinh tế và phát triển số 7 (T8 +9 - 1995)
6. Mục tiêu và các giải pháp lớn của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
năm 2000 của thành phố Hà Nội.
Tạp chí kinh tế và dự báo số 10 - 1999
7. Nguyễn Chu Hồi + Bùi Trọng Định: về việc lập kế hoạch phát triển bền
vững ở Việt Nam.
Tạp chí kinh tế và dự báo số 9 năm 1999
8. Tạp chí kiểm toán các số 2,4,5 - 1998
9. Tạp chí kiểm toán số 4,5 - 1999
10. Tạp chí kế toán số 1,3,4,5 - 1998
11. Một số công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa kế toán.

18


MỤC LỤC
Tăng trưởng bền vững..............................................................................................5

19




×