Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Pháp luật về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.75 KB, 43 trang )

1

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã mang lại cho NTD Việt Nam nhiều cơ
hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Sự ứng dụng
và phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là thương mại điện
tử vào Việt Nam với cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho NTD Việt Nam được tiếp
cận với công nghệ mua bán cao, được sử dụng công nghệ tiêu dùng hiện đại. Tuy
nhiên, công nghệ càng cao thì càng nhiều vấn đề phát sinh, đặc biệt là hiện tượng vi
phạm pháp luật về bảo vệ thông tin của NTD.
Văn bản đầu tiên điều chỉnh vấn đề bảo vệ NTD là Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 1999. Tuy nhiên, văn bản này vẫn còn thiếu rất nhiều quy định
quan trọng, trong đó có quyền được bảo vệ thông tin của NTD. Phải đến năm 2010,
khi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời bổ sung quy định về bảo vệ thông tin
của NTD, từ lúc đó, những quy định liên quan mới được NTD quan tâm hơn cũng như
trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ thông tin NTD được quy định chặt chẽ
hơn.
Pháp luật về bảo vệ thông tin NTD hiện nay vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ
trong nghiên cứu khoa học, mặc dù trên thực tế, vấn đề này đang ngày càng trở nên
nóng hơn khi một số vụ việc bị phát hiện và người ta tìm ra được ngày càng nhiều
những hành vi khác từ hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin NTD. Do đó, em đã chọn
đề tài “Pháp luật về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng ở Việt Nam” làm khóa
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu

Mục đích của khóa luận là tìm hiểu rõ quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bảo vệ thông tin của NTD, từ đó tìm ra những hạn chế và đề xuất giải pháp khắc


phục để quy định về vấn đề bảo vệ thông tin của NTD hoàn thiện hơn.
Đối tượng nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu đề tài, em muốn đưa ra những
vấn đề lý luận khái quát nhất về quyền được bảo vệ thông tin của NTD, đi sâu phân
tích vai trò của quyền này trong cơ chế bảo vệ NTD hiện nay, trách nhiệm của các chủ
thể trong việc bảo vệ thông tin NTD, những hành vi vi phạm, các chế tài xử lý. Đặc
biệt, đi sâu tìm hiểu phân tích tình hình thực trạng vi phạm về bảo vệ thông tin NTD ở


2

2

Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế hành vi vi phạm cũng
như nâng cao hiệu quả thực thi quyền được bảo vệ thông tin của NTD trên thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, em nghiên cứu về vấn đề bảo vệ thông tin của NTD ở Việt
Nam xét trên bình diện luật thực định và thực tiễn thực thi pháp luật trên phạm vi toàn
lãnh thổ Việt Nam từ sau khi có Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999 cho
đến khi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 và các văn bản hướng dẫn có hiệu
lực.
4. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận đã sử dụng kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luật học
so sánh và phương pháp thu thập thông tin để giải quyết vấn đề mà đề tài đặt ra.
5.

Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận kết cấu


thành 3 chương:


Chương 1: Khái quát pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quyền

được bảo vệ thông tin của người tiêu dùng.
• Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo vệ thông tin người tiêu dùng.
• Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ THÔNG TIN CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái

quát pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


3

3
1.1.1. Khái niệm “người tiêu dùng”

Người tiêu dùng là chủ thể trung tâm, là nhân tố quyết định sự phát triển của thị
trường hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, trong quan hệ sản xuất – tiêu dùng thì NTD luôn
bị yếu thế so với nhà sản xuất, phân phối hàng hóa. Cho nên các nhà sản xuất, phân
phối hàng hóa thường trục lợi bằng cách xâm hại những lợi ích của NTD. Để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NTD, pháp luật bảo vệ NTD đã ra đời bên cạnh các quy
định của pháp luật dân sự, pháp luật thương mại truyền thống. Điều trước tiên và vô

cùng quan trọng đối với các nhà làm luật khi xây dựng cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ
NTD là phải xác định được nội hàm khái niệm “người tiêu dùng” – những chủ thể
được hưởng lợi ích từ pháp luật về bảo vệ NTD.
Hiện nay trên thế giới, thuật ngữ pháp lý “người tiêu dùng” (consumer) được sử
dụng khá phổ biến. Khác với “customer” (khách hàng) có thể là người mua, người sử
dụng hàng hóa cả với mục đích thương mại, “consumer” – người tiêu dùng được hiểu
là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh. Pháp luật
các nước trên thế giới thường dựa vào ba điều kiện để xác định chủ thể là NTD 1 gồm:
đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ hợp pháp và đáp ứng được nhu
cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân con người; tư cách chủ thể NTD phải là
cá nhân; và mục đích của việc mua hàng hóa, dịch vụ của NTD phải nhằm tiêu dùng,
sinh hoạt cho cá nhân, hộ gia đình. Quan điểm này được thể hiện trong pháp luật bảo
vệ NTD của nhiều quốc gia trên thế giới.
Trong hệ thống pháp lý Hoa Kỳ, tuy không có một khái niệm cụ thể về NTD
trong các đạo luật, nhưng theo các chuyên gia pháp luật Hoa Kỳ “NTD là cá nhân
tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia
đình”2.
Quan niệm về NTD của Liên minh châu Âu (EU) được thể hiện trong Chỉ thị số
1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có
liên quan. Theo Chỉ thị này thì “NTD là bất cứ tự nhiên nhân (tức là cá nhân) nào…
tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này…vì mục đích không liên quan
1 TS. Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên), Giáo trình “ Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2012, tr.9

2 Michael L.Rustad, Everyday Law for Consumers (Paradigm Publishers, 2007), tr.2


4

4


tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”. Quan điểm này trước đó cũng
đã từng được thể hiện trong phán quyết của Tòa Công lý châu Âu (European Court of
Justice) năm 1991 khi giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên.
Khái niệm về NTD trong pháp luật của Cộng hòa Pháp và Liên bang Đức cũng
thống nhất với Chỉ thị của Liên minh châu Âu (EU). Bộ luật bảo vệ NTD của Pháp
năm 1993 giải thích: “NTD là người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho cá nhân,
gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý định bán lại hoặc nhằm mục đích kinh
doanh”. Điều 13 Bộ luật dân sự Đức năm 2002 quy định: “NTD là bất cứ tự nhiên
nhân (cá nhân) nào tham gia giao dịch không thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh,
thương mại hoặc nghề nghiệp của người người này”.
Hệ thống pháp luật của các nước châu Á cũng có quan điểm tương đồng, coi
NTD chỉ là cá nhân mà không bao gồm các tổ chức, cho dù đều không nhằm mục đích
thương mại.
Điều 2(1) Luật về Hợp đồng tiêu dùng của Nhật Bản năm 2000 giải thích rõ:
“NTD theo quy định của luật này là cá nhân nhưng không bao gồm cá nhân tham gia
hợp đồng với mục đích kinh doanh”. Còn pháp luật của Indonesia quy định: “NTD là
cá nhân sử dụng hàng hóa và/hoặc dịch vụ được cung ứng trong xã hội vì lợi ích của
bản thân mình, lợi ích của gia đình mình, của người khác hoặc các vật thể sống khác
mà không có mục đích thương mại”.
Nhìn chung, pháp luật các quốc gia trên thế giới đều có quan niệm khá thống
nhất: NTD chỉ là cá nhân tiêu dùng mà không bao gồm các tổ chức. Triết lý của quan
niệm này là ở chỗ, so với các tổ chức (doanh nghiệp, thương nhân) có tiềm lực tài
chính và kinh nghiệm thương trường, các cá nhân (tự nhiên nhân) là nhóm tiêu dùng
yếu thế. Họ thường và luôn luôn là mục tiêu bị các nhà sản xuất, kinh doanh xâm hại
lợi ích, nhưng khả năng tự bảo vệ mình của họ lại rất yếu. Chính vì vậy, đây là đối
tượng mà pháp luật cần hướng đến, nhằm làm cho những lợi ích chính đáng, hợp pháp
của họ được bảo đảm.
Ở Việt Nam, khái niệm “người tiêu dùng” được quy định cụ thể lần đầu tiên
trong Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 và Nghị định 69/2001/NĐ – CP

ngày 2/10/2001 Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng. Điều 1
Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 quy định: “người tiêu dùng là người mua,
sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và


5

5

tổ chức”. Khái niệm này được giải thích cụ thể tại Nghị định 69/2001/NĐ – CP, theo
đó, “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt
và nhu cầu công việc của tổ chức, cá nhân, gia đình bao gồm: a, người mua và là
người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân mình; b, người mua hàng
hóa, dịch vụ cho người khác sử dụng, cho gia đình hoặc cho tổ chức sử dụng; c, cá
nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc do được
tặng cho”. Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng 1999 thì
NTD ở Việt Nam bao gồm cả cá nhân và tổ chức.
Trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, các nhà làm luật vẫn giữ
nguyên quan niệm về NTD như trong Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999.
Theo đó, “NTD là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh
hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức” (Điều 3, khoản 1 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng 2010). Có thể thấy, so với pháp luật của nhiều nước trên thế giới thì phạm vi đối
tượng tiêu dùng cần được bảo vệ theo pháp luật Việt Nam có sự mở rộng. Xét ở
phương diện tiêu dùng, điều này không hoàn toàn hợp lý. Bởi trên thực tế, hành vi tiêu
dùng của tổ chức rất khó xác định. Một tổ chức mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ cũng là
nhằm phục vụ cho công việc kinh doanh của mình, nếu đơn thuần là những hàng hóa
như nước uống phục vụ khách hàng đến giao dịch với tổ chức, thì khách hàng chính là
NTD. Xét cho cùng tổ chức là tập hợp những cá nhân tiêu dùng riêng lẻ nên hành vi
tiêu dùng này cũng là do từng cá nhân trong tổ chức đó thực hiện. Do đó, theo quan
điểm của em, NTD nên hiểu là cá nhân sẽ dễ hiểu và phù hợp với quy định của nhiều

quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Quan hệ tiêu dùng giữa NTD với nhà cung cấp không đơn thuần là một quan hệ
dân sự truyền thống, tính đặc thù trong mối quan hệ này không còn sự bình đẳng giữa
NTD và thương nhân. Điều chỉnh mối quan hệ này đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
luật dân sự, nguyên tắc hợp tác, thiện chí (pacta sunt servanda) không phát huy được
hết hiệu quả, không còn thích hợp với tư cách là phương tiện bảo vệ bên tham gia hợp
đồng khi họ trở thành NTD nữa. Do đó, cần có pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD
được các nhà làm luật chọn lựa để điều chỉnh mối quan hệ giữa NTD với thương nhân
trong giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng.


6

6

Từ khái niệm trên và xuất phát từ tính chất đặc thù của lĩnh vực bảo vệ NTD cho
thấy pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, áp đặt những điều kiện bắt buộc thương nhân phải tuân thủ để khắc
phục những bất lợi của NTD trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ: Cụ thể,
pháp luật bảo vệ NTD tập trung quy định các vấn đề kiểm soát điều kiện giao dịch
chung; cấm các điều khoản không công bằng; trình tự thực hiện giao dịch từ xa, giao
dịch điện tử. Việc can thiệp này làm cho nguyên tắc tự do khế ước chỉ còn có ý nghĩa
tương đối trong các giao dịch giữa NTD và thương nhân.
Thứ hai, xác định trách nhiệm sản phẩm một cách nghiêm ngặt và mở rộng về
chủ thể chịu trách nhiệm: Theo đó những người chịu trách nhiệm đối với khuyết tật
của sản phẩm tiêu dùng có thể không phải là người gây ra khuyết tật đó nhưng có tham
gia vào chuỗi hoạt động đưa sản phẩm đến tay NTD. Hầu hết các nước trên thế giới
đều có Luật trách nhiệm sản phẩm nằm trong hoặc độc lập với Luật bảo vệ người tiêu

dùng. Chẳng hạn ở Thái Lan, Luật trách nhiệm sản phẩm được ban hành năm 2008
trong khi Luật bảo vệ người tiêu dùng của họ có từ năm 1979. Ở Anh, Luật trách
nhiệm sản phẩm được biết đến sớm hơn Luật bảo vệ người tiêu dùng. Án lệ Donoghue
kiện Stevenson năm 1932 được coi là mốc quan trọng của quy định về trách nhiệm
sảm phẩm thì tới tận những năm 1970, họ mới có các quy định riêng về bảo vệ NTD
như Sale of Goods Act 1979 (Luật bán hàng),… Ở Việt Nam một số nội dung về trách
nhiệm sản phẩm được quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010.
Thứ ba, thiết lập những ngoại lệ so với những nguyên tắc tố tụng dân sự truyền
thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NTD tham gia giải quyết tranh chấp liên quan
đến việc quyền lợi của mình bị vi phạm. Đây là những ngoại lệ về điều kiện hình thức
khi khởi kiện hoặc giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh. Chẳng hạn khởi kiện tập thể hoặc
đảo nghĩa vụ chứng minh. Theo Điều 42 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010 của Việt Nam, NTD cũng được giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh, họ chỉ phải
chứng minh sự thiệt hại, còn nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ sẽ phải chứng minh về
việc không tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi sản xuất, cung cấp hàng hóa,
dịch vụ với những thiệt hại của NTD hay chứng minh mình không có lỗi.
Thứ tư, nguồn của pháp luật bảo vệ NTD rất phong phú. Luật bảo vệ người tiêu
dùng không phải là nguồn duy nhất của pháp luật bảo vệ NTD. Nhiều vấn đề liên quan


7

7

đến bảo vệ NTD được quy định trong các văn bản pháp luật khác thì không cần quy
định lại trong Luật bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ thông tin cá nhân của NTD là một
ví dụ. Rất nhiều nước trên thế giới ban hành Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân nên quyền
bảo vệ thông tin của NTD không được quy định trong Luật bảo vệ người tiêu dùng.
Tuy nhiên ở Việt Nam chưa có đạo luật riêng quy định về bảo vệ dữ liệu thông tin cá

nhân nên vấn đề này còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong
đó có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
1.2. Khái quát về quyền được bảo vệ thông tin của người tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm thông tin cá nhân và thông tin của người tiêu dùng

Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, sự ứng dụng công nghệ thông tin,
TMĐT trong giao dịch hàng ngày của con người trở nên phổ biến, khi mặt trái của sự
phát triển này nổi lên mạnh mẽ và rõ rệt người ta bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vấn
đề an ninh, an toàn thông tin trong giao dịch. Bởi lẽ mỗi khi thiết lập một quan hệ giao
dịch, nhất là đối với những giao dịch có giá trị lớn hay qua TMĐT, công nghệ thông
tin, việc khai thông tin cá nhân để xác lập giao dịch thành công là vô cùng phổ biến.
`Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm “thông tin cá nhân” được quy
định trong Thông tư 25/2010/TT – BTTTT ngày 15/11/2010 Quy định việc thu thập,
sử dụng, chia sẻ, đảm bảo an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên trang thông tin điện
tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. Khoản 3 Điều 3 quy định:
“Thông tin cá nhân là thông tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân, bao
gồm ít nhất một trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề nghiệp, chức
danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh nhân dân, số hộ
chiếu. Những thông tin thuộc bí mật cá nhân gồm có hồ sơ y tế, hồ sơ nộp thuế, số thẻ
bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác”
Ở một số nước, khái niệm thông tin cá nhân cũng được định nghĩa theo phương
pháp liệt kê các thông tin được coi là thông tin cá nhân tương tự như khái niệm trên.
Pháp luật Canada định nghĩa như sau: “Thông tin cá nhân bao gồm bất kỳ thông tin
thực tế hoặc chủ quan, có ghi nhận hay không, về việc nhận dạng được một cá
nhân. Điều này bao gồm các thông tin dưới bất kỳ hình thức nào, chẳng hạn như:


Tuổi tác, tên, số ID, thu nhập, nguồn gốc dân tộc, hoặc nhóm máu;




Ý kiến, đánh giá, ý kiến, địa vị xã hội, hoặc các biện pháp kỷ luật;


8



8

Các tập tin, hồ sơ tín dụng, hồ sơ vay vốn, hồ sơ y tế, sự tồn tại của một vụ tranh chấp
giữa NTD và một thương gia, ý định (ví dụ, để có được hàng hoá, dịch vụ, hoặc thay
đổi công việc)
Thông tin cá nhân không bao gồm tên, chức danh, địa chỉ kinh doanh hoặc số điện
thoại của một nhân viên của một tổ chức.”
Điều 2 Đạo luật về bảo vệ thông tin cá nhân của Nhật Bản cũng đã quy định khái
niệm thông tin cá nhân như sau: “1. Thuật ngữ "thông tin cá nhân" như được sử dụng
trong Đạo Luật này sẽ có nghĩa là thông tin về một cá nhân sống mà có thể xác định
các cá nhân cụ thể theo ngày, tên sinh hoặc mô tả khác chứa đựng trong thông tin đó
bao gồm cả các thông tin sẽ cho phép dễ dàng tham khảo các thông tin khác và do đó
cho phép xác định các cá nhân cụ thể.”
Khác với những khái niệm nêu trên, Luật Bảo mật và bảo vệ thông tin cá nhân
của Australia (Privacy and Personal Information Protection Act) có định nghĩa: “thông
tin cá nhân có nghĩa là thông tin hoặc ý kiến (bao gồm thông tin hoặc ý kiến hình
thành một phần của một cơ sở dữ liệu và có hoặc không được ghi lại trong một hình
thức vật chất) về một cá nhân có danh tính rõ ràng hoặc thích hợp để có thể xác định
được chắc chắn từ những thông tin hoặc ý kiến này”. Tuy vậy, về cơ bản, thông tin cá
nhân được hiểu là những thông tin cho phép người khác có thể dựa vào đó để biết về
người liên quan đến những thông tin đó, mang tính chất riêng tư, gắn với nhân thân
của người đó.

Thông tin của NTD là những thông tin cụ thể mà NTD cung cấp cho thương
nhân để thương nhân có thể dựa vào đó xác định chính xác được NTD có những thông
tin này là ai và những thông tin liên quan có đúng không. Về cơ bản, thông tin của
NTD vẫn là những dấu hiệu nhận biết NTD cụ thể khi họ tham gia quan hệ tiêu dùng.
Nhưng xét về phạm vi, thông tin của NTD hẹp hơn so với thông tin cá nhân. Bởi lẽ
thông tin NTD chính là những thông tin cá nhân khi đặt trong một hoàn cảnh cụ thể.
Điều đó đồng nghĩa với việc có thể có những thông tin cá nhân nhưng lại không phải
là thông tin của NTD. Ví dụ khi một cá nhân tham gia mua bán hàng hóa bình thường
thì nhóm máu của họ không phải là thông tin của NTD trong trường hợp này, mặc dù
tên nhóm máu cũng được coi là thông tin cá nhân của người đó, và nó sẽ trở thành
thông tin của NTD khi người này sử dụng dịch vụ y tế liên quan đến nhóm máu. Vì


9

9

vậy, nhìn chung tất cả thông tin cá nhân, trong đó có thông tin của NTD đều cần được
bảo vệ.
1.2.2. Vai trò của thông tin của người tiêu dùng trong quan hệ tiêu dùng

Ngày nay nền kinh tế với sự đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ cũng như cách thức
tiêu dùng hiện đại hơn là một trong những cách mà nhà sản xuất, kinh doanh sử dụng
để kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên, song song với sự phát triển tích cực đó là những
hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD diễn ra ngày càng nhiều, đặc biệt là việc thu
thập, xử lý và sử dụng thông tin của NTD bất hợp pháp.
Ngoại trừ những trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ đơn giản có giá trị thấp, có
tính thường nhật không cần thiết phải cung cấp thông tin, còn hầu hết mỗi NTD sử
dụng những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ cuộc sống như điện, nước, điện thoại,
y tế, chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp hoặc cao cấp hơn như internet, chứng khoán, bảo

hiểm, ngân hàng, bất động sản…đều phải cung cấp thông tin cá nhân để xác lập quan
hệ hợp đồng với cá nhân, tổ chức kinh doanh. Phần lớn NTD sử dụng hàng hóa dịch
vụ nói trên đều không nghĩ đến việc những thông tin cá nhân của mình có thể biến
thành một thứ hàng hóa được mua bán, trao đổi với giá trị không hề nhỏ. Thực tế cho
thấy, rất nhiều khách hàng không hề biết rằng thông tin cá nhân của mình đã được
cung cấp cho những đơn vị kinh doanh dịch vụ như viễn thông, bảo hiểm, dịch vụ tin
nhắn kết quả thi đấu thể thao, xổ số…cho đến khi họ thấy bị làm phiền liên tục bởi các
nhà cung cấp dịch vụ này.
Với tư cách là một công dân, NTD ở đây đã không ý thức được quyền bí mật đời
tư của mình bị xâm phạm, mà quyền bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ
theo Điều 38 Bộ luật dân sự 2005: “việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư
cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành
niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông
tin, tư liệu theo quyết điịnh của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”3.
Trong khi đó, sở thích và nhu cầu của NTD luôn là đối tượng các nhà sản xuất,
kinh doanh quan tâm tới. Do vậy, trong quá trình tiếp thị giới thiệu sản phẩm, hoặc quá
3 Phạm Khánh An, Mua bán thông tin cá nhân – hành vi vi phạm Pháp luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
(28/02/2012)


10

10

trình khảo sát mức độ quan tâm và đánh giá về sản phẩm của NTD thì thương nhân
luôn phải tìm hiểu cả thông tin cá nhân của NTD. Đôi khi việc lấy thông tin của
thương nhân gắn liền với những quyền lợi nhất định mà NTD không thể từ chối. Ví dụ
như việc cung cấp tên, thông tin liên lạc để tiện cho việc bảo hành sản phẩm 4. Hàng
ngày NTD tham gia vào rất nhiều quan hệ tiêu dùng với rất nhiều cá nhân, tổ chức sản

xuất, kinh doanh khác nhau, vì vậy thông tin của họ dễ dàng bị lợi dụng để sử dụng
vào mục đích khác mà họ không thể kiểm soát được. Do đó, không chỉ quyền được
thông tin, quyền được thỏa mãn nhu cầu … mới là quyền cơ bản, mà quyền được bảo
vệ thông tin của NTD cũng là quyền rất cơ bản cần được pháp luật quy định.
1.2.3. Sự cần thiết phải ghi nhận quyền bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu

dùng
Việc bảo vệ thông tin của NTD được hiện thực hóa sẽ nâng cao vị thế của NTD
so với nhà sản xuất, kinh doanh. Bởi trên thực tế, hiện tượng bất cân xứng giữa NTD
với cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh không chỉ thể hiện ở thông tin sản phẩm, mà
ngay ở việc bảo đảm an toàn, an ninh thông tin của NTD, cá nhân, tổ chức sản xuất,
kinh doanh cũng nắm thế chủ động khi họ là những người quản lý về thông tin mà
NTD cung cấp. Do lợi thế quá lớn của cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh so với
NTD nên thông tin của NTD được bảo vệ an toàn khi tham gia giao dịch sẽ giảm bớt
sự bất bình đẳng này. Đảm bảo quyền được bảo vệ thông tin của NTD, pháp luật về
bảo vệ quyền lợi NTD trở thành công cụ hiệu quả, “như một thứ bổ sung về khả năng
tự do và bình đẳng của người tiêu dùng trong quan hệ với nhà cung cấp”5.
Đảm bảo quyền được bảo vệ thông tin của NTD là cơ sở để đánh giá sự nghiêm
túc, tính hợp pháp của một đơn vị cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ. Từ đó xây dựng niềm tin của NTD đối với cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh
này. Ngày nay vẫn còn rất nhiều cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh chưa xây dựng
4 Hoàng Thu Trang (2012), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương
mại điện tử, khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.25

5 Nguyễn Vân Anh, (2011), Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền được thông tin của người tiêu dùng – thực
trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.15;
PGS – TS. Nguyễn Như Phát, Hội thảo Pháp ngữ khu vực “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dung: từ hai góc nhìn Á
– Âu” ngày 27 – 28/9/2010 do Nhà Pháp luật Việt – Pháp và Cục Quản lý cạnh tranh tổ chức với sự hỗ trợ của
Bộ Ngoại giao CH Pháp và Tổ chức quốc tế Pháp ngữ



11

11

quy chế bảo vệ thông tin của NTD khi xác lập giao dịch với mình, vì thế dẫn đến
thông tin của NTD khi cung cấp cho họ không được đảm bảo an toàn.
Nếu thông tin của NTD không được đảm bảo an toàn thì NTD có thể bị thiệt hại
về vật chất, danh dự, uy tín, … Những điều này hoàn toàn không có lợi cho NTD
nhưng cũng sẽ không mang lại lợi ích cho nhà cung cấp bởi NTD sẽ không có được
lòng tin đối với nhà cung cấp đó. Một khi các cá nhân, nhất là các doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có chế độ chăm sóc NTD, có quy định đảm bảo sự
an toàn thông tin của NTD khi thiết lập giao dịch với mình sẽ gây được niềm tin hơn
và thu hút nhiều NTD hơn. Bên cạnh đó, khi quyền được bảo vệ thông tin của NTD
đươc thực hiện sẽ hạn chế được những vụ việc đáng tiếc xâm hại tới quyền lợi của
NTD.
Đảm bảo quyền được bảo vệ thông tin của NTD không chỉ bảo vệ quyền lợi của
chính NTD mà còn góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh.
Thông tin của NTD được đảm bảo an toàn, không bị sử dụng bất hợp pháp, tràn lan,
các nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sẽ cùng nhau cạnh tranh công bằng
trong một môi trường lành mạnh. Bảo vệ thông tin NTD cũng góp phần vào việc cân
bằng mối quan hệ giữa nhà sản xuất và NTD, làm hài hòa hóa các quan hệ lợi ích
trong xã hội.
1.2.4. Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ thông tin người tiêu dùng ở Việt Nam

Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam được thể ra đời khá muộn, phải đến
năm 1999 khi Ủy ban thường vụ Quốc Hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng thì ở Việt Nam mới có văn bản pháp lý chính thức đầu tiên trực tiếp bảo vệ
quyền lợi của NTD. Sự ra đời của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có ý
nghĩa rất quan trọng vì đây là văn bản mang tính tổng hợp đầu tiên quy định khá đầy

đủ quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của NTD, của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
doanh cũng như của các chủ thể khác trong việc bảo vệ quyền lợi NTD.
Tuy nhiên, trong Pháp lệnh này chưa có điều nào quy định về quyền được bảo vệ
thông tin NTD cũng như trách nhiệm của nhà cung cấp trong việc bảo vệ thông tin
NTD. Sở dĩ Pháp lệnh chưa có quy định cụ thể về vấn đề này vì vào giai đoạn ấy, công
nghệ thông tin, thương mại điện tử chưa phổ biến ở Việt Nam, nền kinh tế đang trong
quá trình mở cửa thị trường, hoạt động tiêu dùng vẫn khá đơn giản, chưa thông tin hóa
như ngày nay. Do đó, hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin của NTD chưa rõ ràng nên


12

12

pháp luật chưa dự liệu hết. Tuy vậy, vào thời kì này, quyền được bảo vệ thông tin của
NTD phần nào được đề cập gián tiếp qua Bộ luật hình sự năm 1999 về các Tội xâm
phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125) và
Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226).
Từ sau năm 2000, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với sự gia tăng nhanh chóng
việc ứng dụng khoa học công nghệ vào nền kinh tế Việt Nam, hàng loạt văn bản có
quy định liên quan đến vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân ra đời tạo cơ sở pháp lý cho
việc hiện thực hóa quyền được bảo vệ thông tin của NTD như: Bộ luật dân sự 2005,
Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin 2006, Luật Viễn thông
2009, các nghị định, thông tư hướng dẫn những Luật trên như:

- Nghị định 63/2007/NĐ – CP ngày 10/04/2007 Quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực công nghệ thông tin
-

Nghị định 97/2008/NĐ – CP ngày 28/08/2008 Về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ


-

Internet và thông tin điện tử trên Internet
Nghị định 28/2009/NĐ – CP ngày 20/03/2009 Quy định xử phạt vi phạm hành chính

-

trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet
Nghị định 83/2011/NĐ – CP ngày 20/09/2011 Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh
vực viễn thông

- Thông tư 07/2008/TT – BTTTT ngày 18/12/2008 Hướng dẫn một số nội dung
về hoạt động cung cấp thông tin trên trang thông tin điện tử cá nhân trong Nghị định
số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet.

- Thông tư 25/2010/TT – BTTTT ngày 15/11/2010 Quy định việc thu thập, sử
dụng, chia sẻ, đảm bảo an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên trang thông tin điện tử
hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước
Năm 2009, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung, Điều 226 cũng quy định cụ thể
hơn và nghiêm khắc hơn đối với nhiều hành vi đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet.
Đến năm 2010, khi Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời thay thế cho
Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 thì vấn đề bảo vệ thông tin của
NTD đã được quy định trực tiếp thành một điều luật. Theo đó Điều 6 Luật này quy
định về bảo vệ thông tin của NTD trong đó nêu rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
kinh doanh trong việc thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của NTD, sau đó tại



13

13

Điều 5 Nghị định số 19/2012/ NĐ – CP ngày 16/03/2012 Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi NTD đã đưa ra các chế tài xử phạt hành
chính đối với hành vi vi phạm việc bảo vệ thông tin của NTD. Đây là một sự bổ sung
cần thiết và vô cùng quan trọng để đảm bảo cho NTD được thực hiện quyền năng một
cách đầy đủ hơn, nhất là sau khi Việt Nam đã trở thành một thành viên của WTO.
1.2.5.

Kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới về bảo vệ thông tin của
người tiêu dùng
Hiện nay, trên thế giới chưa có nhiều quốc gia ban hành văn bản pháp luật riêng

điều chỉnh về vấn đề bảo vệ dữ liệu thông tin cá nhân, nhưng hầu hết đều có đề cập
đến vấn đề này ở những quy định chung hoặc trong các văn bản pháp luật liên quan.
Vì vậy, bảo vệ thông tin của NTD ở các nước hầu như cũng được hiểu qua những quy
định chung về dân sự, hình sự hoặc pháp luật có liên quan khác.
Theo pháp luật Ấn Độ, quyền được bảo vệ thông tin cá nhân của NTD khi tham
gia giao dịch tuy chưa được đề cập trực tiếp trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng nhưng
vấn đề quyền được đảm bảo an toàn, bí mật thông tin cá nhân nói chung được đề cập
tới trong một số văn bản pháp luật khác như: Điều 21 Hiến pháp Ấn Độ về quyền tự
do cá nhân, Tòa án tối cao Ấn Độ trong các phán quyết của mình sau đó có công nhận
quyền riêng tư (“privacy”) là một phần cấu thành quyền tự do cá nhân (“personal
liberty”). Bộ Luật Tố tụng Hình sự Ấn Độ 1860 không đề cập trực tiếp đến vấn đề này
nhưng đã được áp dụng để xử lý một số vụ việc liên quan đến trộm dữ liệu. Điều 43A
và 72A Luật Công nghệ thông tin (sửa đổi) 2008 về các biện pháp tố tụng dân sự và
hình sự áp dụng cho các hành vi sai phạm liên quan đến thông tin và dữ liệu cá nhân.
Năm 2006, Ấn Độ có đưa ra thảo luận tại Quốc hội Dự Luật về Bảo vệ Dữ liệu cá

nhân, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thông qua được.
Trung Quốc chưa thông qua đạo luật nói chung nào về bảo vệ dữ liệu cá nhân,
cũng không đề cập tới vấn đề này trong Luật bảo vệ người tiêu dùng Trung Quốc. Tuy
nhiên, nội dung này cũng được đề cập đến và diễn giải trong nhiều văn bản pháp luật
của Trung Quốc, bao gồm cả Hiến pháp. Bên cạnh đó, một số chính quyền địa phương
tại Trung Quốc đã xây dựng các văn bản quy phạm dưới luật về bảo vệ thông tin cá
nhân cho NTD. Ví dụ, Quy định về Bảo vệ người tiêu dùng của Thượng Hải quy định
rằng một doanh nghiệp bị cấm không được tiết lộ cho bên thứ ba thông tin cá nhân của
NTD (bao gồm tên, giới tính, tình trạng công việc, trình độ giáo dục, thông tin liên lạc,


14

14

thu nhập, sức khỏe, v.v.), cũng như bị cấm truy vấn NTD để thu thập các thông tin cá
nhân của họ không có liên quan trực tiếp đến giao dịch cụ thể. Pháp lệnh về Thông tin
của Tỉnh Hải Nam quy định rằng nếu một cá nhân hoặc tổ chức sử dụng thông tin cá
nhân của ai, thì người đó có quyền đòi hỏi tổ chức và cá nhân đó giải thích về bối cảnh
sử dụng thông tin cũng như yêu cầu xóa bỏ các thông tin không chính xác. Luật Hình
Sự 2009 của Trung Quốc cũng có sửa đổi, đưa thêm vào một số quy định về các tội
hình sự liên quan đến thu thập và xâm phậm bí mật thông tin cá nhân.
Ở Thái Lan, Hiến pháp 2007 nêu rõ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ thông tin cá
nhân (right of privacy) không bị trục lợi theo quy định của pháp luật. Đây là một bước
tiến lớn so với Hiến pháp 1997 của Quốc gia này. Mặc dù Luật Bảo vệ người tiêu dùng
không quy định chung về đảm bảo bí mật thông tin cá nhân cho NTD, quy định này
hiện đang có mặt trong các quy chế điều tiết ngành trong các lĩnh vực cụ thể như viễn
thông, tài chính & ngân hàng, y tế cộng đồng. v.v. Ví dụ như các nhà cung cấp dịch vụ
mạng có nghĩa vụ đảm bảo bí mật thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ, cũng
như đảm bảo bên thứ ba phải tôn trọng quyền đảm bảo bí mật đó. Thái Lan đang trong

quá trình xem xét thông qua một dự Luật về Bảo vệ Dữ liệu cá nhân trong nhiều năm
qua.
Ở Indonesia chưa có quy định cụ thể về nội dung này, nhưng cũng đã thông qua
một số quy định liên quan như: Luật số 39/1999 về nhân quyền (Điều 14, Điều 21);
Luật số 8/1981 về thủ tục tố tụng hình sự (Điều 47); Luật số 6/1963 (Điều 2): yêu cầu
tất cả các nhân viên y tế phải giữ bí mật thông tin cho bệnh nhân.
Malaysia là một trong các quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á đã thông
qua và bắt đầu đi vào thực thi một đạo luật về nội dung này - Đạo luật về Bảo vệ Dữ
liệu cá nhân 2010. Mục tiêu chính của đạo luật này là điều chỉnh việc xử lý dữ liệu cá
nhân trong các giao dịch thương mại bởi bên sử dụng dữ liệu (các công ty, doanh
nghiệp) để đảm bảo bí mật thông tin cá nhân và theo đó đảm bảo lợi ích chính đáng
của các cá nhân đó. Đạo luật này đưa ra 7 nguyên tắc chủ đạo về vấn đề này và công ty
nào vi phạm một trong 7 nguyên tắc này sẽ bị xử lý hình sự. Một nguyên tắc quan
trọng nhất là việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân luôn phải có sự đồng ý của cá
nhân đó, chỉ với và không quá mục tiêu sử dụng ban đầu. Các công ty phải đưa ra cam
kết về đảm bảo bí mật thông tin cá nhân và không được tiết lộ thông tin cho bên thứ ba
mà không có sự đồng ý trực tiếp của cá nhân liên quan.


15

15

Như vậy, qua tìm hiểu quy định một số nước trên thế giới, đặc biệt là một số nước
Đông Nam Á như trên cho thấy Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ khi trong hệ thống
pháp luật còn thiếu một văn bản pháp lý riêng rẽ quy định về bảo vệ thông tin cá nhân.
Tuy nhiên, từ việc nghiên cứu luật các nước mà Việt Nam khi ban hành Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng 2010 đã kịp thời bổ sung Điều 6 – quy định trực tiếp trách
nhiệm của chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo đảm an toàn
thông tin của NTD. Điều đó chứng tỏ việc nghiên cứu quy định trong pháp luật của

một số nước để rút ra kinh nghiệm cho mình là vô cùng quan trọng và cần thiết. Trước
đó, dù chưa được quy định thành một điều luật riêng nhưng vấn đề bảo vệ thông tin cá
nhân ở Việt Nam cũng được quy định rải rác và gián tiếp trong các văn bản luật chung
hay các văn bản luật chuyên ngành tương tự như các nước trên, … . Nhìn chung việc
bảo đảm an toàn thông tin cá nhân nói chung và thông tin NTD nói riêng đều được các
nước quan tâm và việc cần có một Luật riêng điều chỉnh về bảo đảm an toàn dữ liệu
thông tin cá nhân là cần thiết ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Kết luận
Qua chương này đã giải thích khái niệm NTD, đồng thời cũng phân tích được
khái niệm thông tin cá nhân và những vấn đề liên quan đến bảo vệ thông tin của NTD
ở Việt Nam. Đây là vấn đề then chốt để có thể giải quyết những vấn đề tiếp theo liên
quan đến bảo vệ thông tin của NTD. Những lí luận chung này là bước tiếp cận đầu tiên
và vô cùng quan trọng trước khi đi vào tìm hiều thực trạng và đề xuất giải pháp. Hiểu
rõ các khái niệm này, đồng thời nhận định được vai trò, sự cần thiết cũng như sự phát
triển của bảo vệ thông tin của NTD ở Việt Nam và một số nước trên thế giới sẽ giúp
bài viết có đầy đủ cơ sở lí luận, định hướng rõ ràng cho toàn bộ khóa luận.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về bảo vệ thông tin của người
tiêu dùng
2.1.1. Quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ thông tin của
người tiêu dùng


16

16

2.1.1.1. Trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ;
Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là những chủ thể đầu
tiên và trực tiếp trong mối quan hệ với NTD khi quan hệ tiêu dùng được xác lập, và họ
là những chủ thể có nhiều lợi thế hơn so với NTD. Do đó, trách nhiệm của những cá
nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh luôn được pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng
như pháp luật liên quan quy định rất chặt chẽ, trong đó có trách nhiệm của cá nhân tổ
chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ thông tin của NTD. Họ
là những người thực hiện quản lý thông tin khi NTD cung cấp để thực hiện giao dịch
nên sự an toàn, an ninh thông tin của NTD cũng phụ thuộc rất nhiều vào những người
này.
Điều 6 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 là điều luật quy định
trực tiếp nhất về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh trong việc bảo
vệ thông tin của NTD. Theo đó khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của NTD
thì tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:
“a) Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục đích
hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng;
b) Sử dụng thông tin phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng và phải
được người tiêu dùng đồng ý;
c) Bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ khi thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin
của người tiêu dùng;
d) Tự mình hoặc có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi
phát hiện thấy thông tin đó không chính xác;
đ) Chỉ được chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi có sự đồng
ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Điều luật này là một cơ sở vững chắc cho NTD khi tham gia quan hệ tiêu dùng,
giúp NTD có cơ sở pháp lý cụ thể để xác định hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà mình mua hoặc sử dụng.
Trách nhiệm này trong Luật bảo vệ quyền lợi NTD là quy định chung cho các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Còn trong một số các luật khác cũng có những
quy định mang tính chuyên ngành về trách nhiệm của các chủ thể này. Luật Giao dịch

điện tử năm 2005 (Điều 44, 45, 46, 47), Luật Công nghệ thông tin 2006 (Điều 21, 22,


17

17

72), Luật Viễn thông 2009 (Điều 5, 6, 12) là những văn bản cũng có quy định chi tiết
đến vấn đề trách nhiệm của những nhà cung cấp thuộc những lĩnh vực này đối với việc
đảm bảo an toàn, an ninh thông tin của người tham gia do những luật này điều chỉnh.
Nhìn chung các văn bản này đều hướng đến quy định trách nhiệm của các chủ
thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong việc thu thập, sử dụng, xử lý, chuyển giao, lưu
trữ,… thông tin của NTD sao cho đảm bảo được tính an toàn của những thông tin đó.
Đó là trách nhiệm về việc thông báo, cần có sự đồng ý của NTD khi thu thập, sử dụng,
xử lý hay chuyển giao thông tin của người đó, trách nhiệm sử dụng đúng mục đích
thông tin của NTD, trách nhiệm đảm bảo tính an toàn những thông tin ấy, trách nhiệm
kịp thời sửa đổi, bổ sung khi phát hiện những thông tin của NTD bị sai lệch, đồng thời
trong một số Luật còn quy định cụ thể trách nhiệm của nhà cung cấp trong việc cung
cấp thông tin của NTD khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Điều
48 Luật Giao dịch điện tử 2005, Điều 5 Luật Viễn thông 2009.
2.1.1.2. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, với lợi nhuận là mục tiêu tối thượng đã thôi thúc
nhiều nhà sản xuất, kinh doanh sẵn sàng xâm hại đến những quyền lợi cơ bản, chính
đáng của NTD. Nếu chỉ dựa vào sự thiện chí, trung thực của nhà sản xuất mà không có
sự quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước thì quyền lợi của
NTD sẽ không được đảm bảo một cách chắc chắn, trong đó có vấn đề bảo vệ thông tin
của NTD. Nhận thức được tầm quan trọng này, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010 đã dành hẳn một chương để quy định về trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ NTD.
Nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD được quy định trong Luật

như sau:
“Điều 47. Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Bộ Công thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.”


18

18

Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 cũng quy định trách nhiệm
cụ thể của các cơ quan trực tiếp thực hiện quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi NTD.
Theo đó, Bộ Công Thương có trách nhiệm được quy định tại Điều 48; Ủy ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm quy định tại Điều 49. Trách nhiệm của các cơ quan này
cũng nằm xen kẽ trong các điều luật khác của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong đó, Cục quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương là cơ quan giữ vai trò
quan trọng khi được thành lập để giúp Bộ Công thương trong thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi NTD. Theo Nghị định số 06/2006/NĐ – CP ngày 91/2006,
trong Cục quản lý cạnh tranh có Ban bảo vệ người tiêu dùng. Ban này có nhiệm vụ và
quyền hạn cụ thể trong việc bảo vệ NTD được quy định tại Quyết định số 27/2006/QĐ
– BTM ngày 28/8/2006 của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Việc
giao cho Cục quản lí cạnh tranh thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ
NTD có ưu điểm nổi bật là góp phần đảm bảo tính liên thông giữa chính sách cạnh
tranh với chính sách bảo vệ quyền lợi NTD6.

Ngoài ra, Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, cùng với
các cơ quan chuyên ngành cấp dưới cũng có trách nhiệm trong bảo vệ thông tin NTD
khi những người này tham gia vào các quan hệ thuộc lĩnh vực do mình quản lý như
giao dịch điện tử, sử dụng mạng lưới viễn thông, công nghệ thông tin thông qua việc
tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra hoạt động của các chủ thể cung cấp những dịch
vụ này nhằm hạn chế, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
cũng như đảo bảo quyền được bảo vệ thông tin của NTD được thực hiện trong đời
sống kinh tế - xã hội.
2.1.1.3. Trách nhiệm của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng
Hiệp hội bảo vệ NTD là một tổ chức xã hội được thành lập ra để bảo vệ quyền
lợi NTD, Hiệp hội này được công nhận và được Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2010 có một số quy định liên quan tới tổ chức và hoạt động của các Hội bảo vệ quyền
lợi NTD. Theo đó, Hiệp hội bảo vệ NTD có vai trò rất lớn khi tham gia bảo vệ NTD
như: hướng dẫn, giúp đỡ, tư vấn NTD khi có yêu cầu; đại diện NTD khởi kiện hoặc tự
mình khởi kiện vì lợi ích công cộng; cung cấp cho cơ quan quản lý Nhà nước về bảo
vệ quyền lợi NTD thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh
6 TS. Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên), Giáo trình “ Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2012, tr.63


19

19

doanh hàng hóa, dịch vụ; tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách,
phương hướng, kế hoạch và biện pháp về bảo vệ quyền lợi NTD; tham gia tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng (Điều 28).
Vì vậy khi NTD bị xâm phạm đến quyền được bảo vệ thông tin thì Hiệp hội bảo
vệ quyền lợi NTD có trách nhiệm thực hiện việc bảo vệ quyền lợi cho NTD.
2.1.1.4. Trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức khác

Tổ chức, cá nhân khác là những tổ chức, cá nhân không nằm trong mối quan hệ
tiêu dùng trực tiếp giữa NTD cụ thể với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ. Tuy họ là những chủ thể bên ngoài nhưng họ cũng là một bộ phận cấu
thành nên xã hội, và trong một tình huống cụ thể họ cũng chính là những NTD. Do đó,
hoạt động của những chủ thể này cũng có tác động nhất định đến việc bảo vệ thông tin
NTD.
Tuy trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 không có điều nào quy
định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo vệ thông tin NTD
nhưng trong Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 đã thiết lập quy định khung về việc bảo vệ
quyền bí mật đời tư:
“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó
đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ
mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại
diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo
quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được
bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá
nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Ngoài ra, ta có thể tìm thấy trong một số luật có liên quan như khoản 2 Điều 46
Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử
dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu
không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định


20


20

này chỉ nêu các cơ quan, tổ chức, cá nhân chung chứ không chỉ là những tổ chức, cá
nhân tham gia trực tiếp vào giao dịch điện tử.
Hay trong Bộ luật hình sự, các nhà làm luật sử dụng cụm từ: “người nào” để mô
tả hành vi vi phạm pháp luật hình sự về tội xâm phạm bí mật, an toàn thư tín, điện
thoại, điện tín của người khác (Điều 125) và tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng
và máy tính (Điều 226). Những điều luật này cho thấy, pháp luật hình sự không chỉ
điều chỉnh hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh mà còn điều
chỉnh bất kì người nào có hành vi vi phạm bí mật thông tin của người khác, trong đó
có NTD.
Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi trên thực tế, những tổ chức, cá nhân khác cũng
có thể có rất nhiều cách để có được thông tin của NTD, qua đó lợi dụng để thực hiện
hành vi bất hợp pháp như buôn bán thông tin cá nhân, hoặc sử dụng thông tin của
NTD vào mục đích xấu của chính mình. Ví dụ, NTD khi cung cấp số điện thoại cho
cửa hàng bất kì để mua sản phẩm, sau đó một bên thứ ba liên hệ với cửa hàng để mua
số điện thoại đó để gửi tin nhắn rác hoặc gọi điện tư vấn dịch vụ ngoài ý muốn của
NTD.
Vì vậy, bảo vệ thông tin của NTD không chỉ là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là
trách nhiệm của toàn xã hội.
2.1.2. Quy định về các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông tin của người tiêu
dùng
2.1.2.1. Nhóm hành vi không thông báo và không có sự đồng ý của người tiêu dùng
khi thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD cũng như pháp luật khác có liên quan đều quy
định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cũng
như trách nhiệm của các chủ thể khác trong việc thu thập, xử lý, sử dụng thông tin
NTD. Do đó, khi các chủ thể này không thực hiện đúng trách nhiệm của mình tức là đã
vi phạm pháp luật bảo vệ thông tin NTD.

Nghị định 19/2012/NĐ – CP ngày 16/03/2012 Quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi quy định các mức xử phạt
hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD đã dành hẳn Điều
5 để quy định mức xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm bảo vệ thông tin NTD,


21

21

trong đó có hành vi khi thu thập, xử lý, sử dụng thông tin NTD, tổ chức cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: “a) Không thông báo rõ ràng, công khai với
người tiêu dùng về mục đích trước khi thực hiện hoạt động thu thập, sử dụng thông tin
của người tiêu dùng; đ) Chuyển giao thông tin của người tiêu dùng cho bên thứ ba khi
chưa có sự đồng ý của người tiêu dùng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Điều 21 Luật Công nghệ thông tin 2006 quy định: “Tổ chức, cá nhân thu thập,
xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng phải được
người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đồng thời Nghị định
63/2007/NĐ – CP ngày 10/04/2007 Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực công
nghệ thông tin cũng quy định mức xử phạt hành chính đối với những người có hành vi:
“d) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường
mạng mà không được sự đồng ý của người đó trừ quy định tại khoản 3 Điều 21 của
Luật Công nghệ thông tin; đ) Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người
khác mà không thông báo cho người đó biết hình thức, phạm vi, địa điểm và mục đích
của việc thu thập, xử lý, sử dụng thông tin đó;” tại khoản 3 Điều 6.
Hành vi không thông báo và không có sự đồng ý của NTD khi thu thập, xử lý, sử
dụng thông tin của người đó là vi phạm về ý chí của chủ thông tin. Pháp luật yêu cầu
trước khi thu thập, xử lý, sử dụng thông tin của NTD, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh phải thực hiện việc thông báo cho NTD những thông tin cần thiết liên quan đến
việc thu thập, xử lý, sử dụng ấy, nhất là mục đích các chủ thể đó muốn thu thập, xử lý,

sử dụng thông tin là gì để xem xét sự đồng ý, chấp thuận của NTD. Phải có sự đồng ý
của NTD thì những thông tin mà các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh đó thu
thập, xử lý, sử dụng mới được coi là hợp pháp, trừ một số trường hợp khác do pháp
luật quy định. Nếu vi phạm, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
hay kể cả những chủ thể khác cũng sẽ chịu trách nhiệm pháp lý do nhà nước quy định.
2.1.2.2. Nhóm hành vi sử dụng thông tin không đúng mục đích đã thông báo với người
tiêu dùng mà không có sự đồng ý của người đó
Mục đích thu thập, xử lý, sử dụng thông tin của NTD là cốt lõi của vấn đề vi
phạm pháp luật về bảo vệ thông tin NTD. Bởi lẽ, mục đích không rõ ràng hoặc bị sử
dụng trái ý muốn của NTD có thể gây tổn hại không nhỏ tới đời sống của NTD và vi
phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD cũng như pháp luật liên quan.


22

22

Nghị định 19/2012/NĐ-CP ngày 16/03/2012 Quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng xác định việc thu thập, xử
lý, sử dụng thông tin của NTD không đúng mục đích đã được thông báo trước đó hoặc
thu thập, xử lý, sử dụng với mục đích khác mà không có sự đồng ý của NTD là một
trong những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ thông tin NTD và phải chịu xử phạt
hành chính về hành vi này (Điều 5). Khoản 3 Điều 6 Nghị định 63/2007/NĐ – CP
ngày 10/04/2007 Quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin
cũng xác định đây là hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ thông tin của cá nhân, tổ chức:
“Sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng sai mục đích đã
thông báo cho người đó;”.
Những quy định này sẽ là cơ sở pháp lý để NTD có căn cứ nhằm bảo vệ thông
tin của mình một cách an toàn nhất.
2.1.2.3. Nhóm hành vi không đảm bảo an toàn thông tin của người tiêu dùng

Một trong những trách nhiệm quan trọng của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ cũng như các chủ thể khác là trách nhiệm đảm bảo sự an toàn
những thông tin mà NTD cung cấp khi giao dịch. Nếu những thông tin này không
được các nhà cung cấp đảm bảo an toàn thì việc vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi
NTD càng trở nên phổ biến và khó có thể kiểm soát được môi trường tiêu dùng lành
mạnh. Nghiêm trọng hơn là nó còn có thể làm đảo lộn cả đời sống riêng tư của NTD.
Vì vậy, Điều 5 Nghị định 19/2012 đặt hành vi này là một trong những hành vi vi
phạm trách nhiệm bảo vệ thông tin NTD của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ và sẽ bị xử phạt hành chính như những hành vi vi phạm trên. Cụ thể
hành vi đó là “c) Không bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ đối với thông tin của
người tiêu dùng khi thu thập, sử dụng, chuyển giao; d) Không tự điều chỉnh hoặc
không có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện
thấy thông tin không chính xác”.
Luật Công nghệ thông tin 2006 cũng quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của người khác phải: “Tiến hành các biện pháp
quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết
lộ, thay đổi hoặc phá huỷ; Tiến hành ngay các biện pháp cần thiết khi nhận được yêu
cầu kiểm tra lại, đính chính hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật


23

23

này; không được cung cấp hoặc sử dụng thông tin cá nhân liên quan cho đến khi
thông tin đó được đính chính lại.”
Việc không đảm bảo an toàn an ninh thông tin của NTD còn là nguyên nhân dẫn
đến mất lòng tin của NTD vào tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
cụ thể, làm suy giảm sức tiêu dùng của NTD vào nền kinh tế - xã hội. Do vậy, hành vi
này sẽ bị xử phạt hành chính và có thể sẽ phải chịu những trách nhiệm pháp lý khác

theo quy định của pháp luật.
2.1.3. Quy định về các chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông
tin của người tiêu dùng
Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ thông tin NTD là những
hậu quả pháp lý bất lợi mà tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm hại tới quyền được
bảo vệ thông tin của NTD phải gánh chịu theo quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
lợi NTD. Căn cứ quy định tại Điều 11 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì các
chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ thông tin NTD gồm chế tài
hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự và chế tài xử lý kỉ luật.
2.1.3.1. Chế tài hành chính
Chế tài hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ thông
tin NTD là hậu quả pháp lý bất lợi được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức trong việc
xâm hại tới quyền được bảo vệ thông tin của NTD. Theo đó cá nhân, tổ chức vi phạm
phải chịu các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính
khác. Chế tài hành chính được áp dụng khi có các hành vi vi phạm hành chính về bảo
vệ thông tin NTD mà mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm chưa nghiêm
trọng đến mức xử lý hình sự, nhưng đây được coi là mầm mống phát sinh tội phạm
nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời7.
Hiện nay, Nghị định 19/2012/NĐ – CP ngày 16/03/2012 Quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là văn bản điều
chỉnh trực tiếp việc áp dụng chế tài hành chính đối với những hành vi vi phạm quyền
lợi NTD, trong đó có hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin NTD được quy định tại Điều
5 của Nghị định. Theo Điều này, các cá nhân, tổ chức vi phạm việc bảo vệ thông tin
NTD sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 20.000.000 đồng đối với các hành vi vi phạm
7 TS. Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên), Giáo trình “ Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2012, tr.146.


24


24

đã phân tích ở phần 2.1.2, chủ thể vi phạm có thể bị phạt 20.000.000 đến 30.000.000
đồng nếu những thông tin đó thuộc bí mật cá nhân của NTD, và các biện pháp khắc
phục hậu quả cũng được áp dụng.
Ngoài ra, Điều 39 Nghị định 83/2011/NĐ – CP ngày 20/09/2011 Quy định xử
phạt hành chính trong lĩnh vực viễn thông cũng quy định mức xử phạt hành chính đối
với hành vi vi phạm các quy định về tiết lộ nội dung thông tin riêng: “1. Phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ trái phép nội dung thông
tin riêng của người sử dụng dịch vụ viễn thông.
2. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi mua bán
hoặc trao đổi trái phép thông tin riêng của người sử dụng dịch vụ viễn thông.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc thu hồi lợi nhuận do vi phạm mà có đối với hành vi vi phạm quy định tại
khoản 2 Điều này.”
Việc áp dụng chế tài hành chính trong xử lý hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin
NTD nói riêng và hành vi vi phạm quyền lợi NTD nói chung do các chủ thể có thẩm
quyền quy định tại Nghị định 19/2012 thực hiện trong phạm vi chức năng, quyền hạn
của mình.
2.1.3.2. Chế tài dân sự
Chế tài dân sự đối với hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin NTD là hậu quả pháp
lý bất lợi được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm hại tới quyền được
bảo vệ thông tin của NTD, theo đó các chủ thể này buộc phải thực hiện những nghĩa
vụ nhất định và/hoặc phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của mình gây ra.
Chế tài dân sự là loại chế tài mang tính mềm dẻo, chủ yếu dựa vào sự thỏa thuận của
các bên trước khi đưa ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm cũng chưa nghiêm trọng đến mức phải xử lý hình
sự.
Chế tài dân sự áp dụng đối với hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin NTD được
áp dụng khi có yêu cầu của bên bị xâm hại (người tiêu dùng), mỗi hành vi vi phạm

khác nhau sẽ có những biện pháp áp dụng khác nhau. Những chế tài này biện pháp do
Bộ luật dân sự 2005 quy định chung đối với các hành vi vi phạm pháp luật dân sự.
Theo đó, chủ thể vi phạm về bảo vệ thông tin NTD ngoài việc bị xử phạt hành chính sẽ
có thể phải chịu những chế tài dân sự như: buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc thực


25

25

hiện các cam kết theo sự thỏa thuận đối với NTD, bồi thường thiệt hại cho NTD, ngoài
ra thì chủ thể vi phạm có thể phải chịu áp dụng một số chế tài khác như phải xin lỗi
công khai, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.1.3.3. Chế tài hình sự
Chế tài hình sự đối với hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin của NTD là hậu quả
pháp lý bất lợi được áp dụng đối với người thực hiện hành vi vi phạm. Mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi là nghiêm trọng và được quy định là hành vi phạm tội
trong Bộ luật hình sự xâm hại quyền lợi NTD, theo đó người thực hiện hành vi phạm
tội phải chịu hình phạt, các biện pháp khác do Bộ luật hình sự quy định. Chế tài hình
sự là chế tài nghiêm khắc nhất mà người vi phạm phải chịu vì người vi phạm có thể bị
kết án, bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do, các quyền về tài sản. Chế tài này chỉ áp
dụng đối với cá nhân vi phạm, và chỉ do Tòa án có thẩm quyền áp dụng.
Liên quan đến xử lý hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin NTD Điều 125 và Điều
226 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã có quy định hình phạt và mức
phạt như sau:
“Điều 125. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của
người khác
1. Người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền
đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm
phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ

luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo,
phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam
giữ từ một năm đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.


×