Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Ôn thi đại học môn Văn: Phân tích bi kịch tinh thần nhân vật Hộ trong Đời thừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.05 KB, 4 trang )

Ôn thi đại học môn Văn
Phân tích bi kịch tinh thần nhân vật hộ trong “Đời thừa”
“Con hãy nghe nỗi buồn của rừng cây héo khô, của hành tinh lạnh ngắt, của
chim muông que quặt. Nhưng trước nhất, con hãy nghe nỗi buồn người” (Nadim –
Hichmet).
Cuộc đời là một chuỗi liên tiếp của những nỗi đau và niềm hạnh phúc khi mà
xã hội được sự thống trị của đồng tiền của cường quyền, ngoại xâm nó sẽ trở thành
những cơn sóng đời ngầu đục và chới với, ngắc ngoải trong đó những mảnh đời
nhỏ bé, đau đớn không lối thoát. Nỗi đau của con người trở thành thường trực
nhưng nó vọng thấu trước hết vào trái tim của người nghệ sĩ. Nam cao một cây bút
tài năng và một trái tim chan chứa lạ kì, đã đau, đã hiểu, đã day dứt biết bao nhiêu
trước cảnh đời của những trí thức tiểu tư sản nghèo để với biết bao tâm huyết, yêu
thương, dùng trí tuệ của trái tim để dựng lên tấn bi kịch đầy tinh thần, đầy nước
mắt của nhân vật Hộ trong thiên truyện ngắn “Đời thừa”.
Bi kịch là khi con người bị đặt vào giữa những đối kháng, mâu thuẩn giằng
xé mà không có lối thoát. Bi kịch tinh thần diễn ra ngấm ngầm trong nội tại suy
nghĩ, trí óc của nhân vật, tự nhân vật thấy mình mâu thuẩn và không giải tỏa nỗi.
Tất cả nước mắt những vết cắt cứa điều nằm sâu trong lòng người khiến lòng
người rỉ máu. Nỗi đau quằng quại không được giải tỏa, không được chia sẻ có sức
tàn phá ghê gớm, đẩy con người vào tận cùng của nỗi đau và bế tắc.
Hộ sống trong xã hội mà công lý bị đạp nát, con người không được sống đầy
đủ với tên người viết hoa. Cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản đen
ngồm đặc quánh lại như cuộc sống sau lũy tre làng của người nông dân với tiếng
trống thúc thuế mà “mờ mờ xam xám” bị xô đẩy bốn bề trở thành vô cùng rẻ mạt,
nhỏ nhoi. Nhưng họ là những tri thức nên nỗi khổ của cái ăn, cái mặc chỉ là nổi
khổ của bề nổi. Còn phần chìm sâu của nổi đau, cái phần làm tim họ ứa máu lại là
những bi kịch ngấm ngầm trong tinh thần, trong suy nghĩ của họ nó gặm nhấm,
bào mòn, hủy hoại dần tất cả những gì là niềm vui, là sức sống hủy hoại cả cái
phần “người” cao quý trong con người của họ.
Bi kịch tinh thần cũng giống như một màng nhện với tất cả sự phức tạp rối
rắm của nó. Hộ trước hết rơi vào bi kịch của một nhà văn, một bi kịch đau đớn đối


với người tri thức.
Hộ là một nhà văn trẻ, anh yêu văn chương đến si mê đọc được một câu văn


hay thì không miếng ăn ngon nào sánh bằng. Anh coi văn chương như một thứ đạo
lành để ngưỡng vọng, để nguyện ngắm và đi theo. Anh sẵn sàng sống bằng nghề
văn với số tiền ít ỏi mà không bao giờ chịu đổi lấy một vị thế cao hơn. Anh đọc
văn đến si mê, say sưa giảng giải đến độ mấy lần vợ anh muốn nhắc nhở việc nhà
mà không dám. Lòng anh đẹp bởi những ước mơ và khát vọng cao cả. Trong tâm
trí anh luôn chói sáng những mộng ước, hoài bão đó là viết một tác phẩm làm lu
mờ mọi tác phẩm cùng thời, một tác phẩm “đoạt giải nôben” và dịch ra mọi thứ
tiếng trên toàn cầu. Đó là một khát khao đẹp đẽ, trong sáng và chính đáng, một
hoài bão lớn lao nó bảo cho ta biết đó là một nhà văn chân chính, có chí hướng.

Nhưng rồi cuộc đời đâu có thẳng như đường tuyến tính, bao nhiêu là ngã rẽ
bao nhiêu là cạm bẫy chông gai. Một mình anh, anh có thể sống nghèo sống đạm
bạc bởi lòng anh phơi phới ước mơ, tim anh chứa chan say mê với lẽ đạo của đời
mình là văn chương. Nhưng giờ đây anh có một gia đình và một đứa con nối tiếp
nhau, đứa trước chưa kịp lớn thì đứa sau đã ra đời, đứa trước chưa kịp lớn thì đứa
sau đã kịp hiện diện mà đứa nào cũng sài đèn quấy sứ, khóc mếu suốt ngày làm Hộ


phát “điên lên”. Bởi vì sao? Vì anh phải lao vào cuộc sống đời thường với biết bao
bon chen, xô bồ. Đau đớn nhất là anh phải tàn phá nghề văn mà anh nâng niu, gìn
giữ rất thiêng liêng. Anh không còn thời gian để làm những điều cao cả anh phải
viết như một con rối cái thứ văn “rất nhẹ, rất nông” quấy loãng trong những tình
cảm hời hợt, phải viết những bài báo mà người ta đọc là quên ngay, phải “đỏ mặt”
vò nát sách khi thấy tên mình ở đó. Anh là nhà văn có lương tâm, rất ý thức được
thiên chức cao cả của người nghệ sĩ, nhưng giờ đây phải cho ra đời những đứa con
tinh thần non nớt, “cẩu thả” nên chúng chết yểu và có thể là những quái thai. Điều

đó cắt vào tâm trí anh những nỗi đau đớn, nhục nhã ê chề, anh quằn quại day dứt,
đay nghiến tự thú như đứng trước tòa án – tòa án lương tâm. Cẩu thả trong bất cứ
nghề gì cũng là bất lương rồi nhưng cẩu thả trong văn chương thì đúng thật là đê
tiện. Đau đớn biết bao nhiêu lời nhục mạ ấy. Những quan niệm văn chương được
nói trong niềm đau, trong nước mắt “văn chương không cần những người thợ khéo
tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người
biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có”, càng “cắt cứa vào lòng anh, vào lòng tự trọng của anh những nhát dao sâu mà
ứa máu”. Vòng xoáy cơm áo gạo tiền như một vòng xích sắt trói nghiến đôi chân
anh lại với cuộc đời thật ngầu đục, bon chen, chặn hết mọi ngã đường đưa anh trở
thành một nhà văn chân chính. Hộ đã phạm vào tất cả những điều anh quan niệm,
đề ra cho mình, đi ngược lại với tất cả những gì anh tôn sùng, ngưỡng vọng để rồi
rơi vào bi kịch của bao nhục nhã ê chề với chính bản thân mình. Đó là bi kịch, là
nỗi đau của bao trái tim của người nghệ sĩ trong những ngày đen tối ấy.
Nỗi đau tưởng đã đủ để tàn phá nhân cách, ước mơ của con người, nhưng chưa
hết Hộ lại phải rơi vào một bi kịch đau đớn anh vi phạm vào nguyên tắc tình
thương của chính mình bi kịch của một con người.
Hộ không chỉ có một khát vọng cao cả, mà anh còn có một trái tim rộng lớn
và sáng suốt. Chàng trẻ tuổi ấy từ rất sớm có những quan niệm, những nguyên tắc
đẹp đẽ văn học không phải là những tác phẩm tả chân hời hợt mà nó là những tác
phẩm “ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình” nó làm cho người gần
người hơn. Đó là một quan niệm tiến bộ và hết sức nhân bản, anh đã đưa nhân đạo
thành một phẩm chất chính của văn học, là thước đo nhân phẩm người nghệ sĩ.
Không chỉ là quan niệm về văn chương, quan niệm về con người của anh cũng thật
cao đẹp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm chân lên
lưng người khác mà là nâng đỡ người khác lên đôi vai của mình”. Còn gì đẹp đẽ


hơn những điều đó nữa? Và sâu sắc hơn, cảm động hơn khi chàng trai trẻ đó đã
không ngần ngại dang tay nâng đỡ ba cuộc cuộc đời nhỏ bé, đớn đau, ba con người

chỉ còn biết khóc cho đến khi xương thịt cũng tan thành nước mắt để rồi chết cả là
Từ, mẹ Từ và cả đứa con thơ dại của Từ. Nâng đỡ mà không phải ban phát tình
thương từ trên xuống theo kiểu bố thí mà yêu thương gắn bó chăm sóc bằng tất cả
tình thương của mình. Anh say mê văn chương là thế khát vọng lớn lao là thế
nhưng vì gia đình, vì vợ con anh đã hi sinh đi một vài năm để kiếm tiền nuôi gia
đình. Đó là một sự hi sinh lớn lao, một lòng nhân ái, một tấm lòng cao cả đến khó
tin ở cuộc đời.
Nhưng Hộ đã bước lầm đường lại rơi vào lầm lỗi anh đã uống rượu triền miên
để khi về nhà đánh vợ con, coi vợ con như là nguyên nhân của mọi nổi khổ. Anh
hành động như một kẻ vũ phu tàn ác, nhẫn tâm trước người vợ thảo hiền, yếu đuối
với bàn tay da “xanh trong xanh lọc”. Anh đã vi phạm vào nguyên tắc tình thương
của chính mình đạp đỗ hết bao khuôn vàng thướt ngọc mà anh đã đặt ra. Anh đã
rơi vào biên giới của sự xấu xa, xoa đọa. Nếu anh trở thành một kẻ “đê tiện” trong
nghề văn thì vẫn còn một sợi dây để nếu kéo nhân cách của anh đó là tình thương,
điều đó cũng đủ để cứu rồi, bào chữa lí giải cho anh, giúp anh còn một điểm tựa để
làm người, anh không còn là một nhà văn chân chính nhưng khi anh đã đạp đổ
nguyên tắc tình thương của mình thì mọi sự níu kéo đã không còn nữa, anh trượt
dài trên con đường tha hóa, phần “người” cao đẹp trong anh từng bước bị chính
anh hủy hoại. Con người lúc này của anh bị đạp đổ đã giết chết “con người” anh
lúc trước, anh tự giết mình để một lúc nào đó đau đớn bất lực thốt lên “Thôi ta đã
hỏng thật rồi”. Tình thương với anh là một thứ đạo cao đẹp nhất. Anh đã từng nhủ
lòng rằng mình “có thể hi sinh tình yêu chứ không thể hi sinh tình thương” bởi anh
muốn làm “người” đúng nghĩa. Mất tình thương con người thành sỏi đá, cao hơn
sẽ trở thành dã thú. Biên giới giữa người và quỷ tưởng xa xôi hóa ra thật mỏng
manh, giữa thanh cao và đen tối chỉ là khoảnh khắc lòng thương sẽ nếu giữ phần
“người” cao quý ấy và Hộ đã cùng đường anh phạm một cách nghiêm trọng tất cả
những gì đẹp đẽ, anh rơi vào giữa một vòng tơ nhện mà anh đã tự giăng lên. Hoàn
cảnh chỉ là tiền đề, con người là yếu tố tiên quyết. Những bi kịch tinh thần vò xé
đã công phá tàn hoại biết bao những giá trị là yếu tố để con người được sống và
làm người.




×