Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại tại một số gia trại thuộc huyện kim bảng hà nam và thử nghiệm điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.56 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-----------

-----------

TRƯƠNG NGỌC TUYỂN

THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM TỬ CUNG TRÊN ĐÀN LỢN NÁI
NGOẠI TẠI MỘT SỐ GIA TRẠI THUỘC HUYỆN KIM BẢNG HÀ NAM VÀ THỬ NGHIỆM ĐIỀU TRỊ

CHUYÊN NGÀNH : THÚ Y
MÃ SỐ

: 60.64.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS.TS. CHU ĐỨC THẮNG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn



Trương Ngọc Tuyển

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự nỗ
lực của bản thân tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của tập thể và cá
nhân trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam, Khoa
Thú Y, Bộ môn Nội - Chẩn - Dược - Độc Chất, cùng các thầy, cô giáo đặc
biệt là thầy giáo PGS. TS. Chu Đức Thắng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn ban lãnh đạo chi cục thú y tỉnh Hà Nam, trạm
thú y huyện Kim Bảng, các chủ trang trại đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này tôi cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân,
những người đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Tác giả luận văn

Trương Ngọc Tuyển

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii



MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục sơ đồ, biểu đồ

vii

MỞ ĐẦU

1

1

Tính cấp thiết của đề tài

1


2

Mục đích của đề tài.

2

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1

Cấu tạo cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý của lợn cái

3

1.1.1

Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái

3

1.1.2

Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái

6

1.2


Bệnh viêm tử cung ở lợn nái

14

1.2.1

Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung.

14

1.2.2

Hậu quả của bệnh Viêm tử cung.

15

1.2.3

Các thể viêm tử cung

16

1.2.4

Chuẩn đoán viêm tử cung

18

1.3


Tình hình nghiên cứu bệnh viêm tử cung trên thế giới và Việt Nam

20

1.3.1

Trên thế giới

20

1.3.2

Tại Việt Nam

21

1.4

Một số vi khuẩn thường gặp ở dịch tử cung

22

1.4.1

E.coli

23

1.4.2


Streptococcus

23

1.4.3

Staphylococcus

23

1.4.4

Salmonella

23

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


1.5

Thuốc kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh sinh sản

24

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG, NGUYÊN LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


27

2.1

Đối tượng, địa điểm nghiên cứu.

27

2.2

Nội dung nghiên cứu.

27

2.2.1

Thực trạng bệnh viêm tử cung.

27

2.2.2

Các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh viêm tử cung (lứa đẻ, điều kiện đẻ …) 27

2.2.3

Biến đổi thành phần và số lượng vi khuẩn vi khuẩn trong dịch
viêm tử cung.


2.2.4

27

Thử nghiệm điều trị bệnh viêm tử cung bằng các phác đồ điều trị
(tỉ lệ khỏi, tỷ lệ động dục ..sau điều trị).

27

2.2.5

Đề xuất phòng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái.

27

2.3

Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu

27

2.3.1

Nguyên liệu nghiên cứu

27

2.3.2

Phương pháp nghiên cứu


29

2.4

Phương pháp xử lý số liệu

33

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

34

3.1

Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung.

35

3.2

Tình hình lợn nái mắc viêm tử cung qua các lứa đẻ.

37

3.3

Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung qua từng giai đoạn. 40

3.4


Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở các điều kiện đẻ
tự nhiên và có sự can thiệp khi đẻ.

41

3.5

Tỷ lệ mắc bệnh Viêm tử cung theo mùa vụ ở các trại.

43

3.6

Tỷ lệ mắc các thể viêm tử cung

45

3.7

Một số chỉ tiêu và biểu hiện lâm sàng của lợn nái bị viêm tử cung.

47

3.8

Phân lập và giám định thành phần vi khuẩn trong dịch âm đạo, tử
cung lợn nái bình thường và bệnh lý.

3.9


48

Xác định số lượng các loại vi khuẩn có trong dịch tử cung nái sau

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv


đẻ và nái bị viêm tử cung
3.10

50

Kết quả xác định tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được
từ dịch viêm tử cung, âm đạo lợn nái với một số thuốc kháng
sinh và hóa học trị liệu.

3.11

52

Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị lợn nái mắc bệnh
viêm tử cung

3.12

55


Kết quả thử nghiệm quy trình phòng bệnh viêm tử cung ở đàn
lợn nái

58

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

61

1

Kết luận

61

2

Đề nghị

62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

63

Page v



DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

3.1

Kháng sinh chuẩn với tính mẫn cảm của vi khuẩn

28

3.1

Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở 4 trại

35

3.2

Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung theo từng lứa đẻ (n=17)

38

3.3

Tỷ lệ lợn nái bị viêm ở 2 giai đoạn (n=20)

40


3.4

Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở các điều kiện khác nhau

42

3.5

Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở các gia trại theo mùa vụ (n=61).

43

3.6

Tỷ lệ lợn nái mắc các thể viêm tử cung

45

3.7

Một số chỉ tiêu lâm sàng của lợn bị viêm tử cung.

47

3.8

Kết quả xác định thành phần và số lượng vi khuẩn có trong dịch
tử cung lợn nái bình thường và bệnh lý:


3.9

49

Số lượng các vi khuẩn phân lập được trong dịch âm đạo tử cung
lợn nái bình thường và bệnh lý.

3.10

51

Kết quả xác định tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được
từ dịch viêm tử cung lợn nái với một số thuốc kháng sinh và hóa
học trị liệu.

53

3.11

Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung

56

3.12

Quy trình thử nghiệm phòng viêm tử cung

58

3.13


Kết quả thử nghiệm phòng viêm tử cung ở đàn lợn nái

59

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
STT

Sơ đồ 2.1

Tên bảng

Trang

Cơ chế thần kinh thể dịch điều khiển quá trình đẻ. Giáo
trình giải phẫu gia súc) (1982)

13

Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung của đàn nái

36

Biểu đồ 3.2 Biểu đồ so sánh tỷ lệ lợn nái mắc viêm tử cung qua các lứa


39

Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở các giai đoạn

40

Biểu đồ 3.4 Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung ở các điều kiện đẻ
khác nhau

42

Biểu đồ 3.5 Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung ở các gia trại theo mùa vụ.

44

Biểu đồ 3.6 Tỷ lệ lợn nái mắc các thể viêm tử cung

46

Biểu đồ 3.7 Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung

56

Biểu đồ 3.8. Kết quả thử nghiệm phòng bệnh viêm tử cung

60

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nền kinh tế thới giới ngày càng phát triển và đồng hành với
sự phát triển đó là sự phát triển của ngành nông nghiệp để đảm bảo lương
thực, thực phẩm, nguồn cung cấp năng lượng cho con người. Việt Nam cũng
nằm trong số đó. Vốn là một nước nông nghiệp, Việt Nam luôn chú trọng
phát triển nông nghiệp đặc biệt ngành chăn nuôi là ngành chủ đạo trong nền
nông nghiệp. Thời gian gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến mới trong
phát triển chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường.
Cùng với sự phát triển của cả nước, tỉnh Hà Nam là một trong số những tỉnh
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn.
Chăn nuôi lợn là nghề sản xuất truyền thống lâu đời chiếm vị trí quan
trọng thứ hai trong tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi nước ta. Ngày
nay, phương thức chăn nuôi lợn đang đẩy mạnh phát triển theo hình thức
trang trại, gia trại ở nhiều địa phương trong cả nước, đã có nhiều giống lợn
ngoại được đưa về Việt Nam nuôi và nhân giống. Vì vậy, để cung cấp lợn
giống cho nhu cầu chăn nuôi các trang trại, gia trại thì việc phát triển đàn lợn
nái sinh sản là cần thiết. Trong khi nhu cầu thị trường thịt lợn trong nước là
rất lớn. Riêng với tỉnh Hà Nam, sự phát triển của ngành chăn nuôi nói chung
hay nghề nuôi lợn nói riêng đang là hướng đi đúng đắn phù hợp với điều kiện
địa phương, nâng cao thu nhập cho người dân.
Cùng với sự phát triển chăn nuôi thì tình trạng dịch bệnh vẫn xảy ra
thường xuyên mà nguyên nhân chủ yếu về kỹ thuật của người chăn nuôi. Một
trong những bệnh thường mắc và làm hạn chế khả năng sinh sản của lợn nái
ngoại tại các địa phương hiện nay là Bệnh viêm tử cung. Đây là một bệnh
không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


còn là một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở lợn
con đang trong thời gian theo mẹ tăng cao do thành phần của sữa mẹ bị thay
đổi khi lợn mẹ bị bệnh viêm tử cung. Những vấn đề trên chỉ ra rằng việc
nghiên cứu về bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái ngoại và tìm ra phương pháp
phòng trị bệnh là một việc làm cần thiết.
Với mục đích góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái
ngoại đồng thời bổ sung vào các tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản của
giống lợn ngoại hướng nạc chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại tại một số
gia trại thuộc huyện Kim Bảng - Hà Nam và thử nghiệm điều trị”.
2. Mục đích của đề tài.
Chúng tôi thực hiện đề tài nhằm mục đích:
- Xác định thực trạng tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái
ngoại ở một số trang gia trại tại huyện Kim Bảng - Hà Nam.
- Thử nghiệm phòng bệnh, trị bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái sinh sản.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cấu tạo cơ quan sinh sản và một số đặc điểm sinh lý của lợn cái
1.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục của lợn cái
Bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành bộ phận sinh dục bên

trong (buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) và bộ phận sinh dục bên
ngoài (âm môn, âm vật, tiền đình).
Bộ phận sinh dục bên ngoài là bộ phận sinh dục có thể nhìn thấy, sờ
thấy và quan sát được, bao gồm: Âm môn, âm vật và tiền đình.
* Âm môn (Vulva): Hay còn gọi là âm hộ. Dưới hậu môn là âm môn.
Phía ngoài âm môn có hai môi (Labia vulva). Nối liền hai môi bằng hai mép
(Bima vulvae). Trên hai môi của âm môn có sắc tố đen và nhiều tuyến tiết,
tuyến tiết chất nhờn và tuyến tiết mồ hôi.
* Âm vật (Clitoris): Âm vật giống như dương vật thu nhỏ lại. Trong
cấu tạo âm vật cũng có các thể hổng như con đực. Trên âm vật có nếp da tạo
ra mu âm vật (Praepatium clitoridí), giữa âm vật bẻ gập xuống dưới.
* Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis): Là giới hạn giữa
âm môn và âm đạo, nghĩa là qua tiền đình mới vào âm đạo. Trong tiền đình có
màng trinh, phía trước màng trinh là âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo,
màng trinh có các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do hai lá niêm mạc gấp thành một
nếp. Sau màng trinh có lỗ niệu đạo. Tiền đình có một số tuyến, tuyến này xếp
theo hàng chéo, hướng quay về âm vật.
Bộ phận sinh dục bên trong bao gồm: buồng trứng, ống dẫn trứng, tử
cung và âm đạo.
* Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng,
nằm trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


lớn có hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng. Buồng
trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết các hocmon: Estrogen,
Progesterone, Oxytocin, Relaxin và Inhibin. Các hocmon này tham gia vào

việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Oestrogen cần thiết cho sự phát
triển của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng
tiết ra giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để
nuôi dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của
tuyến vú. Oxytoxin được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng
được tiết bởi thể vàng ở buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử
cung trong lúc sinh đẻ và cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở
lợn, Relaxindo thể vàng tiết ra để gây dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ
tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức
chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển
nang noãn theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004).
* Ống dẫn trứng (Oviductus)
Ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu
mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp
xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng
chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và
mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp
sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
*Tử cung (Uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và
niệu đạo trong xoang chậu. Tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo
vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung kép. Gồm hai tử cung trái và phải, mỗi
bên đều có một cổ tử cung. Hai cổ tử cung thông vào đầu trước của âm đạo.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4



Sừng tử cung dài như một đoạn ruột (50-100cm) thông với ống dẫn trứng.
Thân của tử cung rất ngắn (3-5cm).
Cổ tử cung dài (10-18cm) có thành dày, có những u thịt xen kẽ khép lại
với nhau theo lối cài răng lược. (Giáo trình giải phẫu gia súc, 1982).
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ
trơn, lớp nội mạc.
- Lớp tương mạc: là lớp màng sợi dai, chắc, phủ mặt ngoài tử cung và
nối tiếp vào hệ thống dây chằng.
- Lớp cơ trơn: có chức phận chủ yếu trong việc đảm bảo sự phát triển và
dinh dưỡng bào thai.
- Lớp nội mạc: là lớp niêm mạc màu hồng phủ lên trên bằng một tế bào
biểu mô hình trụ xen với những tuyến tiết chất nhày. Nhiều tế bào biểu mô lại
kéo thành lông rung. Khi lông rung động thì gạt những chất nhày tiết ra về
phía cổ tử cung.
Tuy nhiên các tuyến chỉ đạt được khả năng phân tiết tối đa khi có tác
dụng của Progesterone. Sự phân tiết của tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai
đoạn của chu kỳ lên giống.
* Âm đạo (Vagina)
Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu
sau thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là
màng trinh.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, đồng
thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các
chất dịch từ tử cung.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5



đạo liên kết với các lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc âm đạo
Theo Đặng Đình Tín (1986), âm đạo lợn dài 10 - 12cm.
1.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng
đặc trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì
qua các thế hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra
còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như: ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng
chăm sóc, sử dụng… Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái người
ta thường tập trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu sau đây:
1.1.2.1. Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ
sinh dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như:
buồng trứng, tử cung, âm đạo,… đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu
bước vào hoạt động sinh sản. Đồng thời với sự phát triển hoàn thiện bên trong
thì ở bên ngoài các bộ phận sinh dục phụ cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ
về tính hay xuất hiện hiện tượng động dục.
Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính
biệt và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng.
- Giống
Các giống khác nhau thì thành thục về tính cũng khác nhau: các giống có
tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn các giống có tầm vóc lớn. Những giống
thuần hoá sớm hơn thì tính thành thục sớm hơn những giống thuần hoá muộn.
Theo Phạm Hữu Doanh (1995), tuổi thành thục về tính cũng khác nhau:
tuổi thành thục về tính của lợn cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn các lọai nội
thuần chủng (Ỉ, Móng Cái…). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành
thục về tính vào 4-5 tháng tuổi. Lợn ngoại là 6-8 tháng tuổi, lợn lai F1 (ngoại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 6


× nội) thường động dục vào lần đầu vào lúc 6 tháng tuổi.
- Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn
nái. Cùng một giống nhưng nếu được nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia
súc phát triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn và ngược lại.
- Điều kiện ngoại cảnh
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia
súc. Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành
thục về tính sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn cái
hậu bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những
con cái hậu bị thì sẽ thúc đẩy nhanh sự thành thục về tính của chúng. Theo
Paul Highes và Tilton (1996), nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2
lần/ngày, với thời gian 15-20 phút thì 83% lợn cái (ngoài 90kg) động dục lúc
165 ngày tuổi.
- Tuổi thành thục về tính của gia súc
Tuổi thành thục về tính thường sớm hơn tuổi tuổi thành thục về thể vóc,
nghĩa là sau khi con vật đã thành thục về tính thì vẫn tiếp tục sinh trưởng lớn
lên. Đây là đặc điểm cần chú ý trong chăn nuôi, không nên cho gia súc sinh
sản quá sớm vì:
Nếu phối giống sớm khi cơ thể mẹ chưa thành thục về thể vóc sẽ có ảnh
hưởng xấu như: trong thời gian có chửa có sự phân tán chất dinh dưỡng ưu
tiên cho sự phát triển bào thai, ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cơ thể
mẹ do đó sự phát triển của bào thai cũng bị ảnh hưởng. Kết quả mẹ yếu, con
nhỏ. Ngược lại cũng không nên cho gia súc phối giống quá muộn vì ảnh
hưởng tới thế hệ sau của chúng.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


1.1.2.2. Chu kỳ tính và thời điểm phối giống thích hợp
* Chu kỳ tính
Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn
ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển, lớn
dần, chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang
Graaf vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có
những biểu hiện ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ
nên động dục cũng theo chu kỳ ( Trần Tiến Dũng và cộng sự 2002).
Chu kỳ tính ở những loài khác nhau là khác nhau và ở giai đoạn đầu
mới thành thục về tính thì chu kỳ chưa ổn định mà phải 2 – 3 chu kỳ tiếp theo
mới ổn định. Một chu kỳ tính của lợn cái dao động trong khoảng từ 18 – 22
ngày, trung bình là 21 ngày và được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước
động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục, giai đoạn nghỉ ngơi.
- Các giai đoạn của chu kỳ tính
+ Giai đoạn trước động dục
Đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1 - 2 ngày, là thời
gian chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng,
cũng như đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai.
Trong giai đoạn này có sự thay đổi cả về trạng thái cơ thể cũng như
trạng thái thần kinh. Ở giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh, thành thục
và nổi rõ trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh,
đầu giai đoạn này noãn bao có đường kính là 4mm, cuối giai đoạn noãn bao
có đường kính 10 - 12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh
trưởng, số lượng lông nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu xung huyết nhanh,

hệ thống tuyến, âm đạo tăng tiết dịch nhày, niêm dịch ở cổ tử cung tiết ra làm
cổ tử cung hé mở. Các noãn bao chín, tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Tử
cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra, niêm dịch chảy nhiều. Con vật bắt đầu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


xuất hiện tính dục, âm hộ sưng lên, hơi mở có màu hồng tươi, cuối giai đoạn
có dịch nhờn chảy ra. Do hàm lượng Progesterone giảm xuống đột ngột nên
con vật giảm ăn, hay kêu rống, thích nhảy lên lưng con khác nhưng không cho
con khác nhảy lên lưng mình.
+ Giai đoạn động dục
Đây là giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài từ 2 -3 ngày, tính từ khi tế
bào trứng tách khỏi noãn bao. Giai đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh
dục rõ nét nhất, niêm mạc âm hộ sung huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang
màu mận chín, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, keo đặc hơn, nhiệt độ âm
đạo tăng từ 0,3 - 0,70 C, pH hạ hơn trước. Con vật biểu hiện tính hưng phấn
cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng, ăn uống giảm, hoặc bỏ ăn, kêu
rống trong trạng thái ngẩn ngơ, thích nhảy lên lưng con khác hoặc để con
khác nhảy lên lưng mình. Ở giai đoạn này, lợn thích gần đực, khi gần đực thì
luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, 2
chân sau dạng ra và hơi khuỵu xuống sẵn sàng chịu đực.
+ Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ
quan sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường. Trên buồng
trứng, thể hồng chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7 – 8mm và bắt
đầu tiết Progesterone. Progesterone tác động lên vùng dưới đồi theo cơ chế
điều hoà ngược làm giảm tiết Oestrogen, từ đó làm giảm tính hưng phấn thần

kinh, con vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh, chịu khó ăn uống hơn, niêm
mạc toàn bộ đường sinh dục tăng sinh, các tuyến ở cơ quan sinh dục ngừng
tiết dịch, cổ tử cung đóng lại.
+ Giai đoạn yên tĩnh
Giai đoạn này kéo dài từ 10 - 12 ngày, bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi rụng
trứng mà không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ. Đây là giai đoạn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng thái sinh lý
bình thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát
dục nhưng chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh dục dần
xuất hiện những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ động dục tiếp theo.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ tính và các giai
đoạn của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi
dưỡng, chăm sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó
góp phần nâng cao khả năng sinh sản của lợn nái.
* Thời điểm phối thích hợp
Thời gian tinh trùng lợn đực sống trong tử cung lợn nái khoảng 45 – 48
giờ trong khi thời gian trứng của lợn nái tồn tại và thụ thai có hiệu quả là rất
ngắn, cho nên phải tiến hành phối giống đúng lúc. Thời điểm phối giống thích
hợp nhất là vào giữa giai đoạn chịu đực.
Chu kỳ động dục của lợn cái trung bình là 21 ngày nhưng có thể biến
động từ 17 - 25 ngày. Cần phối giống cho lợn cái trước khi rụng trứng vài giờ.
Do lợn nái chịu đực lâu hơn lợn cái hậu bị và cả ở lợn nái xảy ra gần thời
điểm kết thúc động dục vì vậy nếu phát hiện động dục 2 lần/ngày, với lợn nái
thì 24h sau khi phát hiện động dục. Nếu phát hiện động dục 1 lần/ngày, mức

độ chính xác của việc dự đoán thời điểm bắt đầu chịu đực bị giảm thấp do đó
lợn cái hậu bị và lợn nái thường được phối giống khi phát hiện chúng động
dục (Http://wwwthepigsite.com), (Thụ tinh nhân tạo), (2001).
Có hai hình thức phối giống là phối giống trực tiếp và phối giống nhân tạo.
Theo Trần Tiến Dũng và cs (2002), phối giống trực tiếp là quá trình
giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường
sinh dục con cái. Phối giống nhân tạo là trường hợp dùng tinh dịch của con
đực đã pha loãng bơm vào đường sinh dục con cái để kết hợp với trứng tạo
thành hợp tử. Trong chăn nuôi nhờ phương pháp phối giống nhân tạo đã cải

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


tạo được giống gia súc, giảm số đầu giống vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử
dụng đực giống, có thể thương mại hoá tinh dịch, bảo tồn quỹ gen, phòng các
bệnh truyền lây qua tiếp xúc. Đây là biện pháp kỹ thuật hữu hiệu để thúc đẩy
ngành chăn nuôi phát triển, nó có những lợi ích kinh tế kỹ thuật to lớn, tuy
nhiên là con dao hai lưỡi nếu công tác thú y kém.
1.1.2.3. Sinh lý đẻ
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002)
gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi
bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động của hệ thống thần kinh, thể dịch, con
mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm
trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là quá trình sinh đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có các triệu chứng biểu hiện: trước khi đẻ 1 – 2
tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra
ngoài. Trước khi đẻ 1 – 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những
thay đổi: âm môn phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu vú

căng to, sữa bắt đầu tiết.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia
súc đẻ:
+ Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong.
+ Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 2 – 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu
* Cơ chế đẻ
Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần
kinh - thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục.
- Về mặt cơ giới: Thai trong tử cung cơ thể mẹ sinh trưởng và phát triển
một cách tối đa. Ở thời kỳ cuối, thai to tiếp giáp với tử cung, thai chèn ép
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


xoang bụng, đè mạnh vào cơ quan sinh dục, ép chặt mạch máu và đám rối
thần kinh hông – khum, làm kích thích truyền về thần kinh trung ương, điều
tiết hormone gây đẻ. Mặt khác, thai chèn ép, co đạp vào tử cung làm kích
thích tử cung co bóp, sự co bóp tăng theo thời gian, kể cả cường độ và tần số,
dẫn đến tử cung mở và thai thoát ra ngoài.
- Nội tiết: Trong thời gian mang thai, thể vàng và nhau thai cùng tiết ra
Progesterone, hàm lượng Progesterone trong máu tăng tạo nên trạng thái an
thai. Đến kỳ chửa cuối, thể vàng teo dần và mất hẳn nên lượng Progesterone
giảm (chỉ còn 0,22%). Đồng thời tuyến yên tiết Oxytocin, nhau thai tăng tiết
Relaxin làm giãn dây chằng xương chậu và mở cổ tử cung, tăng tiết
Oestrogen làm tăng độ mẫn cảm của cổ tử cung với Oxytocin trước khi đẻ.
- Biến đổi quan hệ giữa cơ thể mẹ và bào thai: Khi thai đã thành thục
thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai

đã trở thành như một ngại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài bằng động
tác đẻ.
Thời gian đẻ kéo dài hay ngắn tùy từng loài gia súc, ở lợn thường từ 2 –
6 giờ, nó được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng
ra ngoài.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


Vỏ não
Hypothalamus
Tuyến yên
ACTH
Vỏ trên thận
Corticosteroit
Tăng độ mẫn cảm

Nhau thai
PGF2α

Relaxin

Oestroge

Tử cung
Với Oxytoxin

Phá thể vàng


Cơ giới
áp lực

Ức chế tiết
Progesterone

Dãn dây chằng

Thai thành thục
Đẻ

xương chậu, mở
cổ tử cung

Sơ đồ 2.1: Cơ chế thần kinh thể dịch điều khiển quá trình đẻ.
Giáo trình giải phẫu gia súc) (1982)
Thời gian dài hay ngắn tuỳ từng loài gia súc, ở lợn thường từ 2-6h, nó
được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


1.2. Bệnh viêm tử cung ở lợn nái
1.2.1. Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002)
viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau
đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử

cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất
khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cs (2000), bệnh viêm tử cung ở lợn
nái thường do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng
phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn
tinh không được vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử
cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật
hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm
đạo truyền sang cho lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm
mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử
cung.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sẩy thai truyền nhiễm,
phó thương hàn, bệnh lao… gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau
đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để
xâm nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


đực (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường
máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung, theo Lê
Văn Năm và cộng sự (1997).

Theo F.Madec và C.Neva (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở
đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát
triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa
phối nhưng đã bị viêm tử cung.
1.2.2. Hậu quả của bệnh Viêm tử cung.
Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa
học nghiên cứu về bệnh và đưa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá
trình chẩn đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) và Trần Thị Dân (2004) khi
lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co
thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có
thể bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử
cung tiết nhiều Prostaglandin F2α(PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở
buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây
co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi
đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm
lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử
cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sẩy thai.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.

- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể
vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone. Progesterone ức chế thuỳ trước
tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng,
nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
Theo F.Madec và C.Neva (1995), ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà
người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ là:
chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh
đẻ ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối
giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện
tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên
nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên
nhân dẫn đến hội chứng M.M.A, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp.
Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới
hoạt động của buồng trứng.
Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh
giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra
biện pháp để phòng và điều trị hiệu quả.
1.2.3. Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1986), bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể:
viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
1.2.3.1 Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp
niêm mạc của tử cung, đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng
sinh sản của gia súc cái, nó cũng là thể bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong
các bệnh của viêm tử cung. Viêm nội mạc tử cung thường xảy ra sau khi gia
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16



súc sinh đẻ, nhất là trong trường hợp đẻ khó phải can thiệp làm niêm mạc tử
cung bị tổn thương, tiếp đó các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus,
E.coli, Salmonella, C.pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus…
xâm nhập và tác động lên lớp niêm mạc gây viêm. Theo Nguyễn Hữu Ninh,
Bạch Đăng Phong (2000), bệnh viêm nội mạc tử cung có thể chia 2 loại:
- Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ (Endomestritis Puerperalis)
Lợn bị bệnh này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm. Con vật
có trạng thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh.
Từ âm hộ chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những
mảnh tổ chức chết… Khi con vật nằm xuống, dịch viêm thải ra ngày càng
nhiều hơn. Xung quanh âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch
viêm, có khi nó khô lại thành từng đám vảy màu trắng xám. Kiểm tra qua âm
đạo, niêm dịch và dịch rỉ viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ
chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.
1.2.3.2. Viêm cơ tử cung
Viêm cơ tử cung là viêm tầng giữa, lớp cơ vòng và cơ dọc tử cung.
Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung: niêm mạc bị thấm
dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập, viêm phát triển sâu làm các tế bào tổ
chức bị phân giải, hệ thống mạch quản và lâm ba quản bị tổn thương. Các lớp
cơ và một ít lớp tương mạc bị hoại tử. Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng
Phong (2000), lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ:
thân nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất
hẳn. Mép âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng, màu đỏ thẫm. Gia
súc biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra
ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên
có mùi tanh, thối. Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và
sinh đẻ lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 17


×