Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (943.21 KB, 101 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên Khóa (2008 - 2012)

Đề Tài:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN CHÍ HIẾU
Bộ môn: Luật Tƣ Pháp

NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN
MSSV: 5086038
Lớp: Tƣ Pháp I - K34

Cần Thơ, Tháng 04/2012


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................................................... 2


3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................... 3
5. Kết cấu của đề tài ......................................................................................................................... 3
CHƢƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI.....................................................5
1.1. Khái quát chung về người chưa thành niên .............................................................5
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên ..............................................................5
1.1.2. Đặc điểm cơ bản về tâm – sinh lý của người chưa thành niên ..................7
1.1.3. Vai trò của người chưa thành niên .............................................................9
1.2. Những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về người chưa thành niên phạm
tội ...................................................................................................................................11
1.2.1. Tuổi phạm tội của người chưa thành niên theo quy định của pháp luật Việt
Nam ................................................................................................................................12
1.2.2. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội .......................14
1.2.3. Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội ..................................................................................................................... 20
1.2.4. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội .....
................................................................................................................................... 23
1.2.5. Tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong
trường hợp phạm nhiều tội ....................................................................................... 29
1.2.6. Giảm mức hình phạt đã tuyên và Xóa án tích đối với người chưa thành
niên phạm tội ............................................................................................................ 32
1.3. Mục đích của quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội ....................................................................................................................................35


CHƢƠNG II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
THỰC TIỄN ........................................................................................................... 37
2.1. Thực trạng về người chưa thành niên phạm tội ................................................. 37

2.1.1. Tội phạm chưa thành niên tăng dần theo từng năm và trẻ hóa đối tượng
phạm tội .................................................................................................................... 40
2.1.2. Vấn đề về nhân thân của người chưa thành niên phạm tội ................... 46
2.1.3 Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ngày càng nghiêm trọng ...
................................................................................................................................... 49
2.1.4. Xu hướng dùng hung khí nguy hiểm của người chưa thành niên phạm
tội .............................................................................................................................. 53
2.1.5. Xu hướng hoạt động theo băng nhóm của người chưa thành niên phạm
tội .............................................................................................................................. 54
2.2. Đánh giá tính hợp lý của quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội trong giai đoạn hiện nay ..................................................................... 56
2.2.1. Về vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên ... 56
2.2.1.1. BLHS hiện hành mâu thuẩn trong vấn đề tuổi chịu trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên ........................................................................... 56
2.2.1.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong BLHS hiện hành không còn
phù hợp với thực tế xã hội và tình hình người chưa thành niên phạm tội hiện nay . 57
2.2.2. Về vấn đề hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội .............. 61
2.2.2.1. Hình phạt tiền không phù hợp, không đảm bảo được mục đích
bảo vệ người chưa thành niên phạm tội .................................................................... 61
2.2.2.2. Hình phạt tù có thời hạn chưa hợp lý, không đảm bảo được mục
đích giáo dục, răn đe người chưa thành niên ........................................................... 61
2.2.3. Về vấn đề áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội . 66
2.2.3.1. Vấn đề áp dụng điều 47 BLHS 1999 khi quyết định hình phạt tù
có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội ................................................ 66
2.2.3.2. Vấn đề tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội............................................................................................................................... 69


CHƢƠNG III. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG THỜI GIAN TỚI ....... 71

3.1. Sự cần thiết để hoàn thiện quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội ............................................................................................................. 71
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội.. ................................................................................................................... 78
3.2.1. Giải pháp hạ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ..................................... 79
3.2.2. Giải pháp tăng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội ..................................................................................................................... 83
3.2.3. Một số giải pháp khác để hoàn thiện những bất cập, thiếu sót trong quy
định của BLHS hiện hành liên quan đến người chưa thành niên phạm tội .............. 88
3.2.3.1. Giải pháp để giải quyết vấn đề BLHS hiện hành mâu thuẩn trong
quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội ......... 89
3.2.3.2. Giải pháp để khắc phục vấn đề hình phạt tiền không phù hợp,
không đảm bảo được mục đích bảo vệ người chưa thành niên phạm tội ................. 89
3.2.3.3. Giải pháp để áp dụng đúng điều 47 BLHS 1999 khi quyết định
hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội ........................... 89
3.2.3.4. Giải pháp về vấn đề tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội ............................................................................................................. 90
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 94


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................

...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................

...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Bác Hồ luôn kỳ vọng vào thế hệ trẻ Việt Nam. Bác viết: “Một năm
khởi đầu là mùa xuân, đời người khởi đầu là tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân
tộc”.
Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, các thế hệ thanh niên Việt Nam
đã tỏ ra xứng đáng với những kỳ vọng lớn lao của Bác Hồ, của Đảng và của cả dân
tộc.
Ngày nay đất nước ta đã có hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và đang
từng bước phát triển để ngày một văn minh, giàu mạnh hơn. Để có thể đưa đất nước
vươn xa hơn nữa chúng ta cần quan tâm hơn đến thế hệ trẻ, thế hệ thanh thiếu niên
hay cụ thể hơn là những người chưa thành niên, bởi họ chính là nhân tố quyết định
tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, ngoài những người trẻ sống có mục tiêu, có hoài bảo thì một bộ
phận không nhỏ những thanh thiếu niên sống thiếu lý tưởng, chẳng có mơ ước, hoài
bảo gì, không xác định được mục đích cuộc sống. Tai hại hơn là họ không học cái

hay cái tốt mà sa vào lối sống ăn chơi, buông thả…và dần trở thành tội phạm.
Hiện nay, tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam cũng như ở
các quốc gia khác có xu hướng gia tăng. Thực tế này đã trở thành mối quan tâm, lo
ngại của đất nước ta nói riêng và của nhiều quốc gia khác trong khu vực cũng như
trên thế giới nói chung. Hành vi phạm tội của người chưa thành niên có tác hại to
lớn. Bởi vì, một mặt nó gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặt khác hành vi đó
còn hủy hoại nhân cách của một bộ phận thế hệ trẻ - thế hệ tiềm năng của đất nước.
Chúng ta thấy việc người chưa thành niên phạm tội hiện nay không chỉ tăng
về số lượng mà còn phổ biến cả về hình thức, từ những tệ nạn thông thường như: cờ
bạc, hút chích, trộm cắp, cướp giật cho đến vấn đề bạo lực học đường đang gây
nhức nhối trong xã hội hiện nay và nguy hại hơn cả là việc người chưa thành niên
phạm tội hình sự ngày càng phổ biến, thậm chí là các tội đặc biệt nghiêm trọng với
những thủ đoạn vô cùng nguy hiểm gây hậu quả to lớn.
Chính vì lẽ đó, mà trải qua các thời kỳ, nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến
những người chưa thành niên này để hướng họ đến một lối sống có ích hơn. Để
thực hiện được mục tiêu giáo dục người chưa thành niên, không phải là nhiệm vụ
của cá nhân hay một tập thể nào đó mà là của cả một cộng đồng, một xã hội. Trong

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

1

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

đó có gia đình, có nhà trường và một vai trò hết sức quan trọng đó là vai trò của
pháp luật. Một khi người chưa thành niên phạm tội, vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật, vì pháp luật có giá trị giáo dục, răn đe và có hiệu

quả thiết thực nhất trong việc ngăn chặn, phòng ngừa và hạn chế tình hình tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện.
Tuy nhiên, trong mỗi một giai đoạn thì pháp luật cũng cần phải thay đổi để
phù hợp với tình hình thực tiễn, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Trước thực trạng người chưa thành niên phạm tội ngày càng gia tăng đáng
báo động của đất nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là quy định của pháp luật hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội có còn đảm bảo được mục đích của pháp
luật nữa không?
Chính vì vậy, người viết đã chọn đề tài „„Quy định pháp luật hình sự về
người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn” với mục tiêu tìm hiểu
những vấn đề mà thực tiễn đã đặt ra như nêu trên. Từ đó góp phần hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội, nhằm bảo vệ trật tự
xã hội trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài „„Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội.
Lý luận và thực tiễn” được viết với mục tiêu sau:
Trình bày những hiểu biết về người chưa thành niên, pháp luật hình sự về
người chưa thành niên phạm tội và thực trạng tình hình tội phạm chưa thành niên
trong thời gian qua.
Thông qua việc tìm hiểu các vấn đề nêu trên, từ đó đưa ra đánh giá về các
quy định của pháp luật hình sự đối với tội phạm chưa thành niên ở thời điểm hiện
tại, nhằm tìm ra các giải pháp thiết thực để góp phần hoàn thiện những quy định
trên của pháp luật hình sự. Có thể nói, đây là việc làm mang ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc, góp phần cho công tác giáo dục, răn đe người chưa thành niên phạm
tội và ngăn chặn tội phạm chưa thành niên trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ đề cập đến các khái niệm, đặc điểm tâm
sinh lý của người chưa thành niên và vai trò của họ, các quy định hiện hành của
pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, thực trạng tội phạm chưa
thành niên hiện nay. Bên cạnh đó là đánh giá tính hợp lý của quy định pháp luật

hình sự trong thời điểm hiện tại và phân tích những hệ quả của pháp luật hình sự
GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

2

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

sau các vụ án có tội phạm là người chưa thành niên trong thời gian qua. Sau khi
phân tích những vấn đề trên người viết sẽ đề ra những giải pháp thiết thực để hoàn
thiện quy định của pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu để có được những thông tin cần thiết người viết
đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để tiếp cận vấn đề như:
- Phương pháp phân tích số liệu thống kê, tổng hợp từ thực tế. Từ việc phân
tích những số liệu thống kê và tổng hợp, người viết có cơ sở để chứng minh những
vấn đề đã đưa ra.
- Tham khảo những ý kiến của những nhà nghiên cứu, của các luật gia thông
qua các phương tiện thông tin như sách, báo, tạp chí, website… để xử lý tổng hợp
những thông tin cần thiết nhằm phục vụ việc nghiên cứu từ đó phân tích, bình luận
và đưa ra ý kiến của bản thân để giải quyết vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung chính của đề tài gồm 3 chương với kết cấu bao gồm:
Chƣơng 1: Lý luận chung về quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Chƣơng 2: Đánh giá tính hợp lý của quy định pháp luật hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn.

Chƣơng 3: Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội trong thời gian tới.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như nguồn tài liệu còn hạn
chế, thu thập số liệu còn gặp rất nhiều khó khăn và không thể tổng hợp được số liệu
người chưa thành niên phạm tội trên cả nước, nên người viết chưa thể phân tích tình
hình trên ở địa bàn cả nước, mà chỉ tập trung phân tích các số liệu có được ở địa
bàn Thành phố Cần Thơ. Vì đây là một đề tài hoàn toàn mới đối với người viết nên
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, nhiều vấn đề phân tích chưa sâu, triển
khai chưa hết ý. Chính vì thế, người viết rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
Quý Thầy cô, Quý bạn đọc để người viết có thể sửa chữa những thiếu sót trong đề
tài của mình.
Ngoài ra, người viết xin gửi lời cảm ơn đến Phòng cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội - Công an nhân dân Thành phố Cần Thơ đã cung cấp số liệu phục
GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

3

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

vụ cho đề tài này, đặc biệt người viết xin gửi lời cảm ơn rất chân thành đến Thầy
Nguyễn Chí Hiếu người đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ người viết hoàn thành tốt
đề tài của mình. Người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy cô trong hội
đồng bảo vệ luận văn đã giành thời gian quý báo của mình để nghiên cứu và giúp
đỡ người viết thấy được những hạn chế trong đề tài để người viết có điều kiện hoàn
thiện tốt hơn đề tài của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Ngọc Huyền


GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

4

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Như chúng ta đã biết, trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt
quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành
bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ
là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi
đắp nên những giá trị mới trong cuộc sống. Đấy chính là vai trò không thể thiếu của
pháp luật trong xã hội của trước đây, của hiện tại cũng như tương lai.
Nói chung pháp luật có vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi chủ thể từ cá nhân đến tập thể trong
việc điều chỉnh hành vi của họ. Trong số các chủ thể ấy có một dạng chủ thể đặc
biệt cần phải được pháp luật bảo vệ cũng như có những chính sách riêng để điều
chỉnh hành vi của họ và để xử lý khi họ có hành vi phạm tội, chủ thể ấy chính là
Người chưa thành niên. Vậy, để biết được tại sao cần thiết phải có quy định pháp
luật đối với người chưa thành niên phạm tội, trước hết chúng ta cần hiểu khái quát
về người chưa thành niên.
1.1. Khái quát chung về ngƣời chƣa thành niên

1.1.1. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên
* Khái niệm ngƣời chƣa thành niên của các tổ chức trên thế giới
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Đa số các nước
dùng cụm từ “Vị Thành Niên” để chỉ những người chưa thành niên. Pháp luật ở mỗi
quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên1:
- Theo định nghĩa chính thức của Liên Hợp Quốc, về tuổi vị thành niên là từ
10 – 19 tuổi và tuổi thanh niên là từ 14 – 24 tuổi.
Tại điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có
1

Khái niệm về trẻ vị thành niên của các tổ chức trên thế giới – www.dantri.com.vn – [26-5-2009]

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

5

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy
định tuổi thành niên sớm hơn”.
- Theo Tổ chức y tế thế giới, vị thành niên nằm trong độ tuổi từ 10 – 18 tuổi.
Lứa tuổi này được chia thành 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn vị thành niên sớm tương đương với tuổi thiếu niên: Nam từ 12 –
14 tuổi, nữ từ 10 – 12 tuổi.
+ Giai đoạn vị thành niên giữa tương đương với tuổi thiếu niên lớn: Nam từ

15 – 16 tuổi, nữ từ 13 – 15 tuổi.
+ Giai đoạn cuối vị thành niên tương đương với lứa tuổi đầu thanh niên:
Nam từ 17 – 18 tuổi, nữ từ 16 – 18 tuổi.
- Theo chương trình sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục vị thành niên –
thanh niên của khối Liên minh Châu Âu lấy độ tuổi từ 15 – 24 tuổi.
* Khái niệm ngƣời chƣa thành niên tại Việt Nam
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất như
sau:
- Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Trong Pháp luật hình sự và dân sự, vị
thành niên được hiểu là người chưa đủ 18 tuổi.
- Hội Kế Hoạch Hóa Gia Đình Việt Nam xác định vị thành niên, thanh niên
là từ 10 đến 24 tuổi. Trong đó tuổi vị thành niên được chia làm 2 giai đoạn2:
+ Giai đoạn đầu từ 10 – 14 tuổi.
+ Giai đoạn sau từ 15 – 18 tuổi.
- Trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây
gọi tắt là BLHS 1999), tại Điều 68 có quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định
của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này.”
- Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tại chương XXXII: Thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên, cũng đề cập 2 nhóm: Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.

2

Khái niệm về người chưa thành niên tại Việt Nam – www.dantri.com.vn – [26-5-2009]

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

6


SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

- Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, tại chương III: Cá nhân, Mục 1,
Điều 18 nói rõ: “ Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ
18 tuổi là người chưa thành niên.”
- Theo Điều 119 Bộ luật Lao động hiện hành thì: “Người lao động chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi”.
- Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được sửa đổi bổ sung năm 2007,
2008.
Tại Điều 6 - Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính: “Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ
16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.”
Tại Điều 7 - Xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính: “Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi
phạm hành chính quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này.”
Hầu hết tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người
chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn
độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Nhƣ vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam có thể khái niệm: Người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và
tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.

1.1.2. Đặc điểm cơ bản về tâm – sinh lý của ngƣời chƣa thành niên
* Đặc điểm sinh lý của ngƣời chƣa thành niên
Trẻ em bước vào tuổi Vị thành niên bằng những dấu hiệu của tuổi dậy thì.
Tuổi dậy thì đối với nữ được tính từ khi xuất hiện kinh nguyệt lần đầu tiên (khoảng
13 – 14 tuổi), còn đối với nam kể từ khi xuất tinh lần đầu tiên (khoảng 14 – 15
tuổi). Các nhà Dân số học cho biết, ngày nay đối với toàn thế giới tuổi dậy thì đến

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

7

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

sớm hơn nhiều: nữ lên 10, nam 12 – 13, trường hợp cá biệt có thể đến sớm hơn
hoặc muộn hơn bình thường3.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được những sự thay đổi của người chưa
thành niên. Đầu tiên là sự phát triển về chiều cao của cơ thể, nhưng không phải cá
nhân nào cũng giống nhau bởi sự phát triển này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: yếu tố di truyền, chế độ ăn uống… Bước vào giai đoạn này cơ thể họ bắt đầu
có sự tiết mở ở ngực, chậu hông và đằng sau vai, đối với các em trai còn có sự tiết
mỡ ở các khối cơ.
Nói tóm lại: Khi bước vào giai đoạn này cơ thể của người chưa thành niên có
nhiều thay đổi và phát triển rất phức tạp. Làm tác động đến hình dáng bên ngoài của
họ rất nhanh chóng, đôi khi sự phát triển quá nhanh làm bản thân họ trở nên lúng
túng. Vì thế họ cần được tư vấn để giúp cơ thể phát triển tốt và tránh những tác
nhân xấu ảnh hưởng để lại nhiều hậu quả cho họ sau này.
* Đặc điểm tâm lý của ngƣời chƣa thành niên

Người chưa thành niên có những phức tạp và biến động hơn so với những
lứa tuổi khác nên cần phân tích một cách cặn kẽ để hiểu rõ tâm lý của họ mà có
cách giáo dục thích hợp.
Trong độ tuổi này, có 4 nhu cầu tâm lý tuần tự thôi thúc họ đó là: khuynh
hướng làm người lớn, tự khẳng định mình trong nhóm bạn, xác định bản sắc riêng,
định hướng nghề nghiệp4.
- Khuynh hướng làm người lớn:

Biểu hiện của khuynh hướng làm người lớn rất rõ ràng do có sự phát triển
nhanh chóng về các phương diện tâm lý. Trước tiên là về mặt nhận thức, khả năng
nhận thức phát triển rất tốt, khả năng hiểu biết gia tăng rất nhiều, cách nhận biết vấn
đề sâu sắc hơn so với bậc tiểu học.
- Tự khẳng định mình trong nhóm bạn:
Người chưa thành niên ở độ tuổi này là thời kỳ phát triển đặc biệt, là sự lớn
lên và trưởng thành để “lột xác” thành người lớn. Chính vì thế, họ rất muốn có một
thế giới riêng và khẳng định chính mình. Để tự khẳng định mình và nhất là khẳng
định trong nhóm bạn, điểm nổi bật nhất của họ là thích kết bạn.

3
4

Sức khỏe vị thành niên những điều cần biết – www.suckhoe360.com.vn – [20/01/2007]
/>
GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

8

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN



Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

Những người chưa thành niên ở độ tuổi này thường cần bạn bè và tin tưởng
bạn bè nhiều hơn là gia đình, cha mẹ. Vấn đề ở đây, không chỉ là cần có bạn, mà
còn phải được bạn thừa nhận.
- Xác định bản sắc riêng:
Tùy từng giai đoạn, thời kỳ và lứa tuổi, người chưa thành niên có những biểu
hiện khác nhau. Nhưng ở giai đoạn này, họ rất thích sáng tạo, rất muốn chọn lựa
cho mình một bản sắc riêng, độc đáo và siêu việt.
- Định hướng nghề nghiệp:
Ở độ tuổi này, đa phần những người chưa thành niên chưa thể xác định được
nghề nghiệp tương lai của mình, luôn luôn phân vân và gặp rắc rối trong việc lựa
chọn nghề nghiệp tương lai vì nhiều lý do từ gia đình, xã hội đặc biệt là điều kiện
kinh tế, hoàn cảnh gia đình.
Ngoài ra ở tuổi này cũng xuất hiện những phẩm chất tâm lý có ảnh hưởng
tiêu cực đến nhận thức tình cảm và ý chí của họ như: Tính hung bạo, tính e thẹn, dễ
cáo giận, nhút nhát… Nhiều người chưa thành niên tỏ ra bướng bỉnh trước sự tác
động của người lớn, chống đối và phản kháng, thậm chí thô bạo, ngang ngược, lầm
lì… Những đặc điểm đó là nguyên nhân dẫn đến nhiều hành vi mang tính bạo lực
của họ.
Tóm lại: Ở tuổi chưa thành niên, những tiền đề cơ bản của một nhân cách
hoàn chỉnh đang được tạo thành. Vì vậy sự biến đổi trong thời kỳ này là vô cùng
quan trọng cần phải được chú ý đến. Sự phát triển này có tính mạnh mẽ và nhảy vọt
nếu không chú ý đến quá trình giáo dục, phòng ngừa thì sự hình thành nhân cách đó
sẽ diễn ra một cách tự phát gây khó khăn trong công tác giáo dục, cho quan hệ giữa
trẻ em và người lớn nên có một số cá nhân vi phạm pháp luật và trở thành tội phạm.
1.1.3. Vai trò của ngƣời chƣa thành niên
Sinh ra và lớn lên cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội, người chưa thành niên ở nước ta vừa là những người chứng
kiến đồng thời lại là những người được hưởng thụ những thành quả bước đầu của

công cuộc đổi mới. Chính sự nghiệp đổi mới đã tạo dựng cho họ một môi trường xã
hội thuận lợi để lớn lên, trưởng thành và phát triển nhanh chóng. Xã hội luôn quan
tâm và chăm lo cho lớp người kế thừa này. Bởi lẽ, người chưa thành niên giữ một
vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Họ là lớp kế thừa cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

9

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

Trong lịch sử cũng như hiện tại, dù ở đâu, đánh giặc, bảo vệ tổ quốc hay xây
dựng phát triển kinh tế, tổ chức đời sống xã hội, các thế hệ thanh niên nước ta trong
đó có những người chưa thành niên đều được coi là lực lượng xung kích của dân
tộc, đi đầu và có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể nói, tuyệt đại bộ
phận thế hệ trẻ nước ta hiện nay họ đang tích cực đem sức lực và tài năng của mình
thực hiện các mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối chủ trương lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước. Lợi ích kinh tế – xã hội mà những người chưa thành
niên tham gia vào việc mở rộng kinh tế với nước ngoài đem lại cho đất nước và gia
đình trong những năm qua cũng không nhỏ.
Lịch sử dân tộc Việt Nam cho thấy chính lực lượng thanh thiếu niên đã góp
phần làm nên những chiến công hiển hách của đất nước Việt Nam.
Ngày nay, người chưa thành niên giữ một vị trí khá đặc biệt trong xã hội,
nhất là khi đất nước ta đang trong thời kỳ mở cửa, hội nhập thì vai trò của người
chưa thành niên đối với gia đình, nhà trường và xã hội lại càng quan trọng hơn gấp
nhiều lần.

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng nêu rõ: “Thanh niên là rường cột của
nước nhà, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt
ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con
người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm
cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”.5
Qua đó, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của những người chưa
thành niên đối với gia đình nói riêng và đối với xã hội nói chung. Vai trò của họ thể
hiện ở mọi khía cạnh của đời sống, không những sẽ là những người đóng góp kinh
tế để làm giàu cho gia đình, là lực lượng lao động chính của xã hội trong tương lai,
là lớp kế thừa và tiếp nối truyền thống của đất nước, của dân tộc, là đội ngũ thanh
niên tiên tiến, đáng tin cậy của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc mà họ còn là những công dân ưu tú góp phần xây dựng xã hội giàu
mạnh và xây dựng đất nước phồn vinh sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

5

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 cùa Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X.

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

10

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn


1.2. Những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về ngƣời chƣa thành
niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở tất
cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề người chưa thành
niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào những điều
kiện, tập quán, pháp luật của mỗi nước.
Một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm mọi
cách bảo đảm hệ thống tư pháp người chưa thành niên tuân thủ theo đúng luật quốc
tế về quyền con người.
Do đó, mỗi quốc gia luôn cố gắng ngày một hoàn thiện hệ thống pháp luật
của đất nước mình và đặc biệt ngày một chú trọng đến vấn đề người chưa thành
niên phạm tội.
Bởi lẽ, ở người chưa thành niên phạm tội có một số đặc điểm tâm lý cá nhân
và xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc dẫn tới các hành vi phạm tội như: sự
mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc, nhu cầu độc lập quá mức
tính tự chủ kém, nhu cầu khám phá cái mới nhưng thiếu căn cứ
thái độ tiêu cực đối với học tập, nhận thức pháp luật ở mức độ
không khí tâm lý trong gia đình thường nặng nề, sự chi phối khá
quan hệ bạn bè theo chiều hướng tiêu cực…

kèm theo
khoa học,
thấp, bầu
mạnh của

Mặt khác, những người chưa thành niên thường thất bại trong việc xử lý
những xung đột với cha mẹ, với thầy cô, với bạn bè, từ đó có thể bỏ nhà đi lang
thang, có thể bỏ lớp, bỏ trường gia nhập vào các nhóm bạn xấu… rồi trở thành tội
phạm.

Thực tế cho thấy người chưa thành niên phạm tội còn rất non nớt về kiến
thức xã hội và ý thức pháp luật. Nhận thức và quan niệm về pháp luật đã không
được hình thành hoặc bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của họ. Những yêu cầu
nghiêm ngặt của pháp luật đã trở nên lỏng lẻo, không mang tính chế ước cụ thể đối
với họ. Vì thế họ thường thờ ơ, lãnh đạm, coi thường pháp luật. Một biểu hiện khác
của sự lệch lạc trong nhận thức về pháp luật của người chưa thành niên phạm tội là
họ cho rằng những điều cấm đó chỉ quy định trong các văn bản pháp luật hoàn toàn
mang tính hình thức, còn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân
mới thể hiện được cuộc sống. Cũng chính vì vậy, rất nhiều người chưa thành niên
thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại không biết rằng mình
phạm tội, không thấy được tính chất nguy hiểm đối với xã hội của những hành vi do

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

11

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

mình gây ra. Họ luôn cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự vệ hoặc là để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.
Chính vì những lẽ trên mà pháp luật hình sự cần dành những quy định riêng
đối với người chưa thành niên phạm tội.
1.2.1. Tuổi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên theo quy định của pháp luật
Việt Nam
Ở Việt Nam, các nhà làm luật cũng đưa ra các điều luật để làm rõ khái niệm
người chưa thành niên phạm tội để phòng ngừa tội phạm bằng biện pháp tư pháp
hay hình phạt đúng mức.

Điều 12 BLHS 1999 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ
thể người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào
nguyên tắc được quy định tại Điều 69 BLHS 1999.
Từ Điều 12 BLHS 1999 và những nguyên tắc của Điều 69 BLHS 1999
chúng ta thấy rằng tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền
với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi
trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội
phạm.
Từ những phân tích trên, theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và người
đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán
xét của cơ quan tiến hành tố tụng.
Chế định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội trước đây cũng đã được quy định trong Bộ Luật Hình Sự 1985 tại Điều 58
“Tuổi Chịu Trách Nhiệm Hình Sự” thuộc Chương VII “NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI” cụ thể như sau:

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

12

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN



Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

“1- Người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự
về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
2- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.”
Đến khi ra đời BLHS 1999 chế định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên phạm tội tiếp tục được quy định tại Điều 12 “Tuổi chịu trách
nhiệm hình sự” thuộc Chương III “TỘI PHẠM” cụ thể:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.”
Việc quy định này là hợp lí bởi tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một dấu hiệu
thuộc chủ thể tội phạm và vì vậy nó phải được quy định liền với các dấu hiệu khác
của tội phạm thuộc chương “Tội phạm”.
Ngoài ra, chế định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên còn được BLHS 1999 quy định tại Điều 68 “Áp dụng Bộ luật hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội” thuộc Chương X “NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI”.
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những
quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương
này.”
Qua đó ta thấy, từ khi ban hành Bộ luật Hình sự 1985 cho đến khi ban hành
BLHS 1999 chế định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên phạm tội theo quy định của pháp luật Việt Nam vẫn là từ đủ 14 tuổi. Những
người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội thì không được coi là người chưa thành niên

phạm tội.
Nhưng nội dung trong quy định này của 2 Bộ luật lại có sự khác nhau là do
theo Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999, tội phạm thay vì được phân thành hai loại ít
nghiêm trọng và nghiêm trọng như trước đây theo Khoản 2 Điều 8 BLHS 1985
“Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng.” thì nay được phân thành 4 loại:
GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

13

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng tương ứng với các mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy được quy định trong luật là tới 3 năm tù, 7 năm tù, 15 năm tù và trên
15 năm tù, chung thân và tử hình.
Cách phân loại tội phạm trên đây làm thay đổi một loạt các chế định khác
của luật hình sự trong đó có trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi.
Trước đây, theo Khoản 1 Điều 58 BLHS 1985, quy định người từ đủ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm
nghiêm trọng do cố ý. Điều đó cũng có nghĩa là những người ở lứa tuổi trên không
phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng (cả cố ý và vô ý)
và những tội phạm nghiêm trọng do vô ý.
Nhưng trong BLHS 1999, hiện nay trách nhiệm hình sự của những người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS

với nội dung họ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (không phụ thuộc nó được thực hiện bởi lỗi cố
ý hay vô ý). So sánh hai quy định trên đây thì thấy luật hình sự hiện hành đã mở
rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
ở lứa tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi. Giờ đây từ sau khi BLHS
1999 có hiệu lực pháp luật, nếu một người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mặc dù với lỗi vô ý vẫn không
được loại trừ trách nhiệm hình sự.
1.2.2. Nguyên tắc xử lý đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
Pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành
vi phạm tội của người chưa thành niên. Ở đây người viết tập trung phân tích những
nguyên tắc xử lý được quy định trong BLHS 1999. Những nguyên tắc cơ bản ấy
được quy định tại Điều 69 BLHS “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên
phạm tội”
* Nguyên tắc thứ nhất: “Việc xử lí người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người
chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng
nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

14

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn


nhân và điều kiện gây ra tội phạm.” (Khoản 1 Điều 69 BLHS 1999)
Đây là nguyên tắc bao trùm mang tính chỉ đạo, thể hiện chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên. Vì vậy, khi áp dụng chính sách hình sự đối với họ cần được cân
nhắc để bảo đảm được mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc,
làm cho họ thấy được những sai lầm, khuyết điểm và tự giác sửa chữa cùng với sự
giúp đỡ của gia đình, bạn bè và xã hội.
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như
về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến người chưa thành niên phạm tội phần lớn do môi trường
sống của họ, trong đó có một phần trách nhiệm lớn của gia đình và xã hội. Chính vì
vậy, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục họ ý thức
tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội Xã hội chủ nghĩa,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã
hội.
Do chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, cho nên không phải bất cứ
trường hợp phạm tội cụ thể nào người chưa thành niên cũng có đầy đủ năng lực
trách nhiệm hình sự, tức là có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà mình thực hiện và hậu quả của nó cũng như khả năng điều
khiển hành vi ấy. Năng lực này đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể là rất khác
nhau. Vì thế, luật hình sự Việt Nam đòi hỏi trong mọi trường hợp điều tra, truy tố
và xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền phải xác định rõ khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội.
Chỉ khi làm rõ những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của
hành vi và nhân thân người phạm tội thì các cơ quan tư pháp và người tiến hành tố
tụng mới có thể giúp họ nhận thức ra được lỗi lầm và sửa chữa để trở thành người
có ích cho xã hội. Mặt khác, người chưa thành niên chịu sự tác động chủ yếu của
môi trường sống. Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như các đặc điểm
nhân thân khác của người chưa thành niên chịu chi phối bởi những quy định, bởi

nền giáo dục, đào tạo của gia đình, nhà trường, xã hội. Nguyên nhân và điều kiện
dẫn đến người chưa thành niên phạm tội phần lớn do môi trường sống của họ tạo ra.
Vì vậy, khi điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các
cơ quan có thẩm quyền không những phải xác định năng lực trách nhiệm hình sự

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

15

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

của họ mà còn phải xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội từ đó để đưa ra giải
pháp thích hợp, nhằm cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội có hiệu quả.
Nguyên tắc này cũng phù hợp với yêu cầu tại Điều 40 Công ước Quốc tế về
quyền trẻ em6.
* Nguyên tắc thứ hai: “Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn
trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng,
gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ
chức nhận giám sát, giáo dục”. (Khoản 2 Điều 69 BLHS 1999)
Theo nguyên tắc này, người chưa thành niên phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự khoan hồng hơn so với quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối
với người đã thành niên.
Xuất phát từ mục đích xử lý tội phạm chưa thành niên là nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân
tốt cho xã hội. Vì vậy đối với người chưa thành niên phạm tội có thể miễn trách
nhiệm hình sự và đưa về gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục
nếu người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng (theo

Điều 8 BLHS 1999, tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù; tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù), gây thiệt hại không lớn, có nhiều
tình tiết giảm nhẹ.
Quy định của Khoản 2 Điều 69 BLHS 1999 như thế, đã bổ sung vào danh
mục các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự một trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự mới là miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội
với những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là:
- Người được miễn trách nhiệm hình sự phải là người chưa thành niên tại
thời điểm thực hiện tội phạm.
- Tội phạm mà họ thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng.

6

Khoản 1 Điều 40 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em: “Các Quốc gia thành viên thừa nhận quyền của
mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm luật hình sự, được đối xử theo cách thức phù
hợp với việc cổ vũ ý thức của trẻ em về phẩm cách và phẩm giá, tăng cường lòng tôn trọng của trẻ em đối
với các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của người khác, cách thức đối xử cũng phải tính đến lứa
tuổi của trẻ em và đến điều mong muốn làm sao thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc đảm đương một vai trò xây
dựng trong xã hội của trẻ em.”

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

16

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN



Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

- Hậu quả của tội phạm không lớn.
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
- Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
* Nguyên tắc thứ ba: “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những
đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”.(Khoản 3 Điều
69 BLHS 1999)
Khi xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội được tiến hành theo những
nguyên tắc đặc biệt, trên tinh thần lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, chỉ đưa những
người này ra xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ trong những trường hợp thật
cần thiết và phải căn cứ vào tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi, những đặc
điểm về nhân thân và yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc thứ ba đặt yêu cầu và giới hạn
phạm vi những trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội. Pháp luật Việt Nam không đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội mà chỉ tiến hành
việc làm này trong những trường hợp “cần thiết”. Sự “cần thiết” hay “không cần
thiết” ở đây xác định dựa trên cơ sở căn cứ vào:
- Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu
hành vi phạm tội của người chưa thành niên có tính chất không lớn thì không cần
thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ.
- Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa
thành niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì cần thiết phải cân nhắc việc có
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ hay không.
- Yêu cầu cụ thể của việc phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa
thành niên phạm tội và đối với người khác trong xã hội.
* Nguyên tắc thứ tƣ: “Khi xét xử, nếu thấy không cần phải áp dụng hình

phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện
pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 BLHS.” (Khoản 4 Điều 69 BLHS 1999)
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được coi là biện pháp cần
thiết cuối cùng khi các biện pháp giáo dục, phòng ngừa khác không đảm bảo tính
giáo dục, răn đe. Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên thì mức án

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

17

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

mà họ phải chịu cần nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm
một tội có cùng tính chất mức độ nguy hiểm. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết
phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng
một trong các biện pháp tư pháp. Những biện pháp tư pháp này gồm có giáo dục tại
xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là những biện pháp được
Tòa án áp dụng thay thế hình phạt để giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên
phạm tội trong những trường hợp có căn cứ do pháp luật quy định.
Theo nguyên tắc này, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết, việc xử lý hình sự đối
với người chưa thành niên chỉ là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp xử lý khác
của nhà nước không còn hiệu quả. Trong trường hợp có những biện pháp xử lý khác
khoan hồng mà không cần phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội thì ưu tiên áp dụng các biện pháp khoan hồng này.
* Nguyên tắc thứ năm: “ Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối
với người chưa thành niên phạm tội.

Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế
áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành
niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành
niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội”.
(Khoản 5 Điều 69 BLHS 1999)
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội chỉ thực hiện trong trường hợp thực sự cần thiết và phải xem
xét đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ, nguyên nhân và điều
kiện phạm tội. Một số loại hình phạt đặc biệt nghiêm khắc trong BLHS mang nặng
tính trừng trị hơn giáo dục như hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì không
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Việc áp dụng các hình phạt
này không đạt được mục đích “giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho xã hội” (Khoản 1 Điều 69 BLHS).
Cũng với lập luận trên, đối với người chưa thành niên phạm tội khi buộc
phải áp dụng hình phạt tù thì mức án dành cho họ phải thấp hơn so với người đã
thành niên.
GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

18

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


Quy định pháp luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội. Lý luận và thực tiễn

Hầu hết người chưa thành niên ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không có
thu nhập và tài sản riêng, chưa có khả năng lao động, sống phụ thuộc vào gia đình.

Việc quy định hình phạt tiền đối với nhóm đối tượng này là không khả thi, không
đạt được mục đích của hình phạt, đồng thời còn là gánh nặng không đáng có cho
gia đình người phạm tội, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình cải tạo, giáo dục người
phạm tội.
Mục đích của việc quy định và áp dụng hình phạt bổ sung đối với người
phạm tội là hỗ trợ cho hình phạt chính nhất là trong việc ngăn ngừa người phạm tội
phạm tội mới. Do đặc điểm tâm, sinh lý và nhận thức của người chưa thành niên,
việc áp dụng hình phạt bổ sung không những không đạt được mục đích của hình
phạt này mà còn trở thành gánh nặng tâm lý và ảnh hưởng xấu đến khả năng cải
tạo, giáo dục và tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên. Vì vậy, BLHS
1999 quy định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên
phạm tội.
* Nguyên tắc thứ 6: “Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội
khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm”. (Khoản 6 Điều 69 BLHS 1999)
Quy định trên, một mặt cũng xuất phát từ yêu cầu phân hóa trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo các nhóm (độ tuổi) và là sự cụ
thể hóa của nguyên tắc xử lý chung đối với người chưa thành niên phạm tội “Việc
xử lí người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.” (Khoản 1
Điều 69 BLHS 1999)
Nếu ở nguyên tắc thứ năm quy định giới hạn các hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội. Trong trường hợp cần thiết, vẫn có thể phải áp
dụng một trong các loại hình phạt: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù
có thời hạn cho loại đối tượng này với mức án nhẹ hơn mức án áp dụng cho người
đã thành niên phạm tội tương ứng. Luật cũng xác định rõ, không áp dụng các loại
hình phạt bổ sung và các loại hình phạt đặc biệt nghiêm khắc như tù chung thân và
tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Thì với nguyên tắc thứ 6 này, luật
hình sự Việt Nam khẳng định vẫn có án tích đối với người chưa thành niên phạm
tội trong trường hợp biện pháp xử lý đối với họ là hình phạt. Tuy nhiên, phạm tội

mới trong thời gian mang án tích không phải là căn cứ để xác định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm trong trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi.

GVHD: NGUYỄN CHÍ HIẾU

19

SVTH: NGUYỄN THỊ NGỌC HUYỀN


×