Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2007 - 2011
Đề Tài:
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

Giáo viên hướng dẫn:
ThS. Mạc Giáng Châu

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thanh Nhân
MSSV: 5075208
Lớp: Tư pháp II K33

Cần Thơ, 11/2010


......................................................................................................... 
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................


..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
 ............................................................................................................... 


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Luật sư bào chữa, là người trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
can, bị cáo, trong các vụ án hình sự ở các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án. Vì chức năng, nhiệm vụ của luật sư đã được quy tại định Luật luật
sư ngày 29/6/2006 Điều 3 ghi: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần
bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Như vậy, bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, tổ chức luật sư hoặc luật sư bào chữa
góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng
pháp luật, thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Nghị định 15/HĐBT ngày 21/2/1989 (đã hết hiệu lực) của Hội
đồng Bộ trưởng từng nói: “Luật sư có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Con người là vốn quý của tự nhiên
và của xã hội. Bảo vệ quyền con người là mục tiêu của các thiết chế Nhà nước dân chủ
và tiến bộ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền công dân là tiêu chí đánh giá sự văn
minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển về
mọi mặt. Song song với việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng chăm lo xây
dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống
pháp luật bảo đảm cho việc phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân.
Việc đảm bảo có luật sư bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
quyền quan trọng của công dân nếu họ không tự mình thực hiện quyền bào chữa khi
tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp
đã ban hành của nước ta. Đồng thời đây cũng là một nguyên tắc đặc thù của Luật Tố
tụng hình sự. Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào
việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giúp
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ.
Để đạt được mục đích đó, việc xét xử của Toà án phải đảm bảo công lý. Luật sư
bào chữa, qua việc làm sáng tỏ sự thật về vụ án và vận dụng đúng đắn pháp luật có liên
quan, góp phần tích cực cùng với Toà án, bảo đảm công lý, bảo vệ quyền con người,

bảo đảm pháp chế. Do đó, Luật sư bào chữa đảm nhận một vai trò rất quan trọng trong
bộ máy xét xử, và là một bánh xe cần thiết, không thể thiếu được trong bộ máy xét xử.
Vai trò của luật sư bào chữa càng cần thiết và quan trọng trong việc giải quyết

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho bị can bị cáo, tránh tình trạng oan
sai trong hoạt động xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong điều kiện hiện nay, dù
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh hơn về
quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong quá trình tố tụng nói chung và trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự nói riêng nhưng quá trình thực hiện các quy định này vẫn
còn nhiều bất cập, bởi một số người tiến hành tố tụng tìm cách hạn chế các quyền ấy.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bào chữa cho bị cáo tại Tòa nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho công dân trước cơ quan tiến hành tố tụng, người viết đã chọn
nghiên cứu đề tài “Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên Tòa hình sự sơ thẩm”. Qua
quá trình nghiên cứu người viết sẽ đi tìm hiểu sâu và cụ thể vai trò của luật sư bào
chữa nhằm bảo đảm quyền và lợi ích cho bị cáo trong hoạt động xét xử được thực hiện
đúng và đầy đủ.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và phức tạp do hiện có nhiều quan
điểm khác nhau xung quanh vấn đề vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự.
Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp, người viết đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa ở tại phiên tòa, qua đó tìm hiểu những
biện pháp cụ thể nào mà pháp luật tố tụng hình sự quy định bảo đảm cho hoạt động

bào chữa.
Do chỉ giới hạn trong thời gian cho phép của luận văn nên với đề tài này người
viết chỉ tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của luật
sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đề tài còn đề cập đến thực trạng áp dụng
luật, những quy định làm hạn chế vai trò luật sư bào chữa trong luật tố tụng hình sự.
Qua đó nhằm làm rõ cơ sở lý luận cũng như ý nghĩa, vai trò của luật sư bào chữa và
hướng khắc phục giúp luật sư bào chữa thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ mà pháp
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam quy định.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống các cơ sở lý luận pháp lý cũng như thực
tiễn về quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa. Từ đó chỉ ra những vấn đề chưa phù
hợp, chưa hiệu quả trong các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của luật sư
bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót,
vướng mắc trong quá trình áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật cũng như thực
tiễn về vai trò của luật sư, luật sư bào chữa trong giai đoạn hiện nay để từ đó đưa ra
những biện pháp, phương hướng hoàn thiện, khắc phục và đảm bảo cho việc tham gia
tố tụng của luật sư, luật sư bào chữa được thực thi một cách hiệu quả triệt để và hoàn
thiện hơn.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về vai trò
của luật sư bào chữa nói riêng và pháp luật về tố tụng hình sự nói chung, gớp phần xây
dựng và hoàn thiện cũng cố pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiếp cận và làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của đề tài, tác giả dựa
trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng. Người viết đã sử dụng một số
phương pháp như: phương pháp phân tích, liệt kê, thu thập tài liệu, so sánh, thống kê
và sử lý tài liệu đồng thời kết hợp lý luận với thực tiễn, để giải quyết các vấn đề đặt ra
trong đề tài. Bên cạnh đó nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Bố cục của đề tài
Cấu trúc đề tài bao gồm: Lời nói đầu, nội dung chính, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo. Trong đó phần nội dung chính gồm có 3 Chương.
Chương 1: Những vấn đề chung về luật sư.
Trong chương này, người viết đã nêu những vấn đề chung nhất về vai trò của
luật sư, luật sư bào chữa đặc điểm nghề luật.
Chương 2: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Chương này, người viết đề cập đến những vấn đề được pháp luật quy định về
trình tự tố tụng, quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa trong quá trình xét xử vụ án
hình sự sơ thẩm.
Chương 3: Thực tiễn, hướng hoàn thiện và giải pháp nâng cao vai trò của luật sư bào
chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Chương này, người viết đề cập thực trạng áp dụng pháp luật trong quá trình thực
hành quyền bào chữa và xét xử vụ án hình sự sơ thẩm. Từ đó đưa ra những phương
hướng giải pháp đối với những quy định chưa phù hợp tăng cường khả năng của luật
sư trong hoạt động tố tụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được qua việc nghiên cứu, vẫn
còn những thiếu sót do hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa
thuận lợi, cũng như thời gian nghiên cứu chưa nhiều. Rất mong được sự thông cảm và
đóng góp của quý Thầy Cô và các bạn

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


3

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT SƯ BÀO CHỮA
Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, bên cạnh thẩm quyền của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng với tư cách là người đại diện cho Nhà
nước thì sự tham gia của luật sư bào chữa có vai trò rất quan trọng. Thông qua vai trò
của luật sư bào chữa có nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội,
đồng thời còn góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và sự thật khách quan của
vụ án, bằng hoạt động mang tính chất đặc thù của nghề nghiệp mình.
1.1. Khái niệm chung về luật sư bào chữa
Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương 4 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 thì người luật sư là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt.
Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có
khái niệm chính thức và thống nhất về luật sư bào chữa. Đồng thời, những quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tụng với tư cách luật
sư bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào
chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên
nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực
định.
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm luật sư
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về luật sư, nhưng cơ bản ta có thể
hiểu khái quát nhất như sau:
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của

Luật luật sư 2006, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức”1
Như vậy, luật sư trước hết là một chuyên gia về pháp luật, là một cố vấn về pháp
luật, đồng thời họ có khả năng nghề nghiệp một cách thực thụ. Cho nên luật sư là một
người có kiến thức thành thạo về pháp luật, cũng chính họ là người góp phần “bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của các đương sự và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về tư vấn pháp luật của cá
nhân, tổ chức, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”2. Mặt khác, luật sư còn có
vai trò quan trọng trong việc giúp cho các Cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng tìm
ra được sự thực thật khách quan, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
1

Luật luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006 Điều 2.
Các Điều 22, 27, 28 Luật luật sư 2006.

2

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
luật. Họ thực hiện nhiệm vụ của mình bằng lương tâm, nhân phẩm, đạo đức và đôi khi
bằng cả lòng dũng cảm, để bảo vệ sự công bằng của các đương sự trước pháp luật.
Hiểu một cách cụ thể nhất, luật sư là người vận dụng lý lẽ của pháp luật để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội mà

có sự nhìn nhận khác nhau về vị trí, vai trò của luật sư.
Từ khi có sự ra đời của Luật luật sư 2006, khái niệm luật sư xuất hiện hoàn
chỉnh hơn các quy định trước đó nhưng vẫn chưa đưa ra được khái niệm nào chính xác
cụ thể về luật sư. Nhưng đây cũng là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá
và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển
vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.
Trong những năm đầu của thiên niên kỷ XXI, cùng với bước phát triển và những
yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước
ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang
tính chất đột phá. Việc Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới đã tạo ra vị
thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức
mới to lớn cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là
phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng với cơ chế vận hành theo lộ
trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập nền kinh tế thế giới. Tổ chức, hoạt động tư
pháp nói chung và hoạt động luật sư, luật sư bào chữa nói riêng cũng nằm trong bối
cảnh chung đó. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban hành một số
lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có
Luật luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2007.
Luật luật sư được ban hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở
pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính
chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới.
Đặc biệt Luật luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội nghề nghiệp
của luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Tổ
chức luật sư toàn quốc và các Đoàn luật sư. Với quy định này, Luật luật sư đã tạo cơ sở
pháp lý nâng cao vai trò tự quản của nghề luật sư. Trải qua hơn 60 năm xây dựng và
trưởng thành, đội ngũ luật sư Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thử thách, gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chặng đường phát triển tiếp theo đã được
mở ra, nhiều cơ hội và thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, thử thách đòi hỏi chúng
ta phải phấn đấu vượt qua.

Qua những phân tích và hoàn cảnh trên có thể hiểu “luật sư” như sau: “luật sư

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
là một chức danh tư pháp độc lập, là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định
của Luật luật sư và tham gia các hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các
dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật. Bằng hoạt động của mình, luật sư góp
phần bảo vệ pháp lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.1.1.2. Khái niệm bào chữa
Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá
trình tiến hành giải quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cụ thể là luật đã chỉ ra nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng quy định: “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”3. Như vậy người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa hoặc nhờ đến luật sư
bào chữa để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư bào chữa là người
giúp cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của pháp
luật. Bào chữa là việc dùng lý lẽ bảo vệ bị can, bị cáo trước sự buộc tội của cơ quan
tiến hành tố tụng, là sự bảo vệ thuyết phục các quyền và lợi ích của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo và việc tham gia bào chữa của luật sư bào chữa không trực tiếp liên quan
đến việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm trách nhiệm pháp lý cho họ trong vụ án thì
không thuộc về giới hạn của việc bào chữa. Tuy nhiên, khi đã bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án thì luật sư bào chữa cũng đồng thời giúp cho người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền của họ.
Luật sư bào chữa vận dụng các quyền và nghĩa vụ pháp luật cho phép dùng lý lẽ
hay chứng cứ bênh vực cho thân chủ của mình trước cơ quan tiến hành tố tụng, hoạt
động bào chữa của luật sư bào chữa còn có ý nghĩa to lớn trong việc giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án. Việc điều tra, truy tố, xét xử cho thấy không
phải mọi trường hợp buộc tội trong tố tụng hình sự điều chính xác mà vẫn còn có
những trường hợp buộc tội oan. Do vậy, họ có quyền tự bào chữa cho mình hoặc nhờ
luật sư để thực hiện quyền bào chữa cho họ là một yêu cầu khách quan trong hoạt
động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn. Như đã
rõ, trong xã hội xã hội chủ nghĩa công dân không chỉ được hưởng quyền và lợi ích
rộng lớn mà còn có quyền được pháp luật bảo vệ khỏi mọi sự vi phạm đối với các
quyền và lợi ích hợp pháp đó. Quyền được pháp luật bảo vệ các quyền lợi ích hợp
pháp là: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
3

Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự 2003

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục
hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”4. Khi các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân có thể hoặc đã bị xâm phạm, họ có thể bằng nhiều cách khác nhau

bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Khi tham gia tố tụng người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có những quyền và lợi ích hợp pháp như những người tham gia tố tụng khác (bị
đơn dân sự, nguyên đơn dân sự). Nếu những quyền này của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo bị xâm hại thì họ có quyền bảo vệ hoặc nhờ luật sư bào chữa thực hiện quyền
bào chữa cho mình theo quy định của pháp luật.
Luật sư thực hiện quyền bào chữa thay cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
phải theo cáo trạng, nghiên cứu kỹ tội danh Viện kiểm sát truy tố, đồng thời xác định ý
thức chủ quan và hoàn cảnh khách quan của người phạm tội để tìm ra cơ sở pháp lý
tranh luận với kiểm sát viên khi bào chữa tại phiên Tòa: “Là luật sư phải bào chữa
đúng luật, không cải bừa. Nghĩa vụ của luật sư là tận tâm không phụ thuộc vào kết
quả. Luật sư bào chữa dù ở trường hợp khó bao nhiêu vẫn phải bào chữa được, thậm
chí bào chữa hay và đó là niềm tin có cơ sở”5.
Bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với việc tiếp tục dân chủ hóa công tác xét xử và tăng cường bảo vệ quyền của công
dân trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và các quy
phạm tố tụng của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong nghị quyết lần
thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII có nêu rõ: “Khắc phục những biểu
hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và
giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm các quyền dân chủ của công dân.
Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải
thể hiện công lý, tính dân chủ công khai trong hoạt động”6. Cùng với việc quan tâm
cuộc sống của nhân dân các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm các quyền
của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo không chỉ là sự bảo đảm khỏi sự buộc tội không có căn cứ mà còn là
một phương tiện quan trọng để nhận biết sự thật khách quan của vụ án. Bào chữa là
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ, hay chính bản thân mình, giúp tìm ra sự thật
của vụ án, hoạt động bào chữa còn đảm bảo cho công tác xét xử của Tòa án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên có thể rút ra một khái niệm về bào chữa như sau: “Bào
chữa là tổng thể các quyền trong tố tụng hình sự, là việc vận dụng lý lẽ, chứng cứ, tài

4

Điều 71 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001.
/>6
Văn kiện lần thứ ba ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội-1997.
5

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
liệu bênh vực cho một hoặc nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự
trước cơ quan tiến hành tố tụng, là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hoặc
toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý.”
1.1.1.3. Khái niệm luật sư bào chữa
Trong các vụ án hình sự, mọi người vẫn hay đề cập đến "luật sư bào chữa", thế
nhưng hiện nay Bộ luật tố tụng hình sự cũng chưa nêu chính thức khái niệm thế nào là
luật sư bào chữa. Phạm vi người bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự tương đối
rộng, không phải chỉ dành riêng cho giới luật sư.
Vậy tại sao khi nói đến người bào chữa, người ta chỉ nghĩ đến luật sư mà không
phải là người đại điện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên
nhân dân. Bởi lẽ luật sư là nhân vật trung tâm trong hoạt động bào chữa, là người có
đủ kiến thức pháp luật, đủ tiêu chuẩn, đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật
luật sư nhằm bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, văn
minh, dân chủ.

Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác
nhau về luật sư bào chữa nhưng theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì có
thể hiểu rằng: “Luật sư bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả
các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng
pháp luật”. Một số ý kiến khác còn khẳng định rõ hơn rằng luật sư bào chữa là người
tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án7. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm
luật sư bào chữa là “thầy cãi”…
Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị
trí, vai trò, chức năng của luật sư bào chữa cũng như chưa phân biệt được luật sư bào
chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật ra,
luật sư bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ
án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
buộc tội. Luật sư bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham
gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của luật sư bào chữa. “Người tham
gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do
những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, luật sư bào chữa
không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng
quyền lực nhà nước như những người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, cũng không thể
đồng nhất khái niệm luật sư bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Ngay
7

.Ngô Hướng Đàm, Về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Luật học số 03 năm 1977.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân



Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có sự phân biệt giữa luật sư bào chữa vời người
bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để phân biệt chính là chức năng của họ và đối
tượng mà họ bào chữa, bảo vệ8. Luật sư bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để chứng
minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Như đã trình bày, luật sư bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án hình
sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong
tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc
với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ
quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định,
nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời luật sư bào
chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư cử luật sư bào chữa cho
họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của luật sư bào chữa cũng phải
được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm luật sư bào chữa trong tố tụng
hình sự như sau: “Luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý của người bị buộc tội,
giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2. Nghề luật sư và đặc điểm nghề luật sư
Người hành nghề luật sư là người am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm trong hoạt
động pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp và tính chuyên môn cao. Trong giai đoạn hiện
nay luật sư là người am hiểu hệ thống pháp luật một cách tổng thể và nắm vững một
hoặc một số lĩnh vực pháp luật chuyên ngành thì mới có đủ khả năng hành nghề. Mặt
khác, luật sư hành nghề độc lập và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước khách hàng về

hoạt động của mình. Vì vậy nghề luật sư không chỉ đòi hỏi về chuyên môn cao mà còn
đòi hỏi người hành nghề phải có tư cách đạo đức. Luật sư mang trên mình niềm tin mà
xã hội và khách hàng uỷ thác. Khách hàng là người không có hoặc có ít kiến thức
chuyên môn nên không thể tự mình đưa ra quyết định vì vậy họ đặt niềm tin vào luật
sư, niềm tin vào công lý và pháp luật, do đó người hành nghề luật sư phải đặt quyền
lợi của khách hàng và xã hội trên lợi ích của chính mình.

8

Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật. Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.1998.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.1.2.1. Khái niệm nghề luật sư
Có thể nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là một
nghề tiêu biểu, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Nghề
luật sư là một trong những nghề đặc biệt trong xã hội. Bởi người hành nghề luật sư có
thể làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị pháp lý của một con người nếu người đó bị
cho là đã thực hiện hành vi phạm tội. Và ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ
chuyên môn pháp lý thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy
chế đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Đây là một nét đặc thù của nghề luật sư và nét
đặc thù này có tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng
của luật sư.

Về mặt ngữ nghĩa, thuật ngữ “nghề luật sư” được tổ hợp từ từ đơn “nghề” với
tính chất là một nghề nghiệp và từ ghép “luật sư” chỉ những người đủ điều kiện hành
nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt9, nghề là
“công việc làm theo sự phân công của xã hội” hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là “thành
thạo trong một công việc nào đó”. Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn
“nghề tự do” có nghĩa là “tự mình làm để kiếm sống, không thuộc tổ chức, cơ quan
nào”. Nếu theo giải thích nêu trên hiểu nghề luật sư như là một nghề tự do là không
hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề nghiệp này, chỉ đặc nặng
khía cạnh “kiếm sống” mà không bao hàm được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự
phát triển của xã hội.
Nghề luật sư có đặc điểm chung là nghề của những người làm công việc liên
quan đến pháp luật, sử dụng công cụ hành nghề là “kiến thức pháp luật”. Do đó tạo
nên vai trò tác động của hoạt động luật sư , nên tại Điều 3 Luật luật sư năm 2006 nêu
rõ: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh
tế xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị quyết số 08/2002 NQ-TW
của Bộ Chính trị 2/1/2002 có viết: “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện
để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: “tham gia hỏi cung bị can, bị cáo, nghiên
cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên tòa…”. Và trong cuộc sống hàng ngày
khi nói đến nghề luật sư là chúng ta đang nhắc đến tính chất nghề nghiệp của nghề luật
sư. Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã
hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người có trình độ pháp lý và những
người không có trình độ pháp lý và liệu những người yếu kém về trình độ pháp lý thì
họ không có đủ khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa và chỉ
cần một người nào đó “lệch” khỏi “đường ray” pháp luật thì người đó phải trả giá cho
hành động của mình. Chính điều này đòi hỏi sự trợ giúp của luật sư.
9

Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội 1999.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


10

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà còn hiểu biết cả tinh thần,
nội dung những quy định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư
còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc. Mọi người hiểu và
nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc
đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư luôn luôn có sự
hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần
và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của họ phù hợp với
pháp lý và đạo lý.
Hoạt động của luật sư là sự chỉ dẫn cái đúng, cái sai, việc gì được làm, việc gì
không được làm. Đối với bị can, bị cáo đã vi phạm pháp luật, tuy chức năng của luật
sư không phải là lên án, buộc tội bị can, bị cáo trước Tòa nhưng luật sư phải chỉ cho bị
can, bị cáo thấy rõ sự sai trái của họ, từ đó giúp bị can, bị cáo có phương hướng đúng
đắn trong cuộc sống. Nếu có căn cứ để tin rằng bị can, bị cáo “không có tội” thì luật sư
phải sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định nhằm đảm bảo mọi quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo trước Tòa. Luật sư là người hoạt động khoa học pháp lý ở
vị trí người hướng dẫn pháp luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc bảo vệ
công lý, bảo vệ lẽ phải và công bằng xã hội làm mục tiêu cao quý. Đó chính là nền
tảng đạo đức nghề nghiệp luật sư.
Hoạt động bào chữa của luật sư là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý
kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Sự phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng,
đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Điều 58, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành
quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định

để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu
tường tận về pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo
đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ
phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái
sai, bảo vệ công lý. Ở đây có thể có câu hỏi đặt ra là trong trường hợp không phát hiện
ra điều gì sai, không có cơ sở để phản biện thì luật sư sẽ làm gì. Luật sư không còn chỗ
để phản biện, cũng giống như thầy thuốc không có bệnh nhân để chữa thì thật là hạnh
phúc. Hoạt động của luật sư trong trường hợp này chỉ còn ý nghĩa là người chứng kiến.
Việc chứng kiến của luật sư không phải là không quan trọng. Trong nhiều trường hợp,
sự hiện diện của luật sư là chỗ dựa tin cậy của bị can, bị cáo. Sự chứng kiến của luật sư
trong khi hỏi cung, khi đối chất, khi xét xử đảm bảo chắc chắn rằng quyền và lợi ích
hợp pháp mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo sẽ được bảo đảm. Người phạm tội phải

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng không thể bị tra tấn, đánh đập, hành hạ về thể
xác cũng như xúc phạm nhân phẩm. Sự có mặt của luật sư là cần thiết bởi những
người đã lâm vào vòng lao lý, phải đối mặt với uy lực của cơ quan công quyền, không
phải ai cũng có đủ can đảm tự bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có câu:
“Khôn ngoan đến cửa quan mới biết”.
Tóm lại, xuất phát từ những đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài
các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc thông
minh, tấm gương trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở

hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.
Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên có thể khái quát hóa và nêu
ra khái niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư
bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, cơ quan tổ chức theo quy định của
pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, gớp
phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
1.1.2.2 Đặc điểm nghề Luật sư
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá nhân
luật sư. Nói cách khác phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là yếu tố quyết định
trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải được công nhận là luật sư.
Luật luật sư năm 2006 tại Điều 10 quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn luật sư. Tiêu chuẩn
phổ biến để được công nhận là luật sư và được cấp chứng chỉ hành nghề bao gồm: “Là
công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc tuân thủ Hiến pháp, có phẩm chất đạo
đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự
hành nghề luật sư…”. Ngoài các tiêu chuẩn trên tại Điều 11 Luật luật sư năm 2006 còn
có quy định “muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và
gia nhập Đoàn luật sư”..
Đã có một số tác giả đề cập đến các đặc trưng của nghề luật nói chung, nhưng
đối với nghề luật sư, việc xác định các đặc điểm riêng có phần xuất phát từ bản chất, vị
trí ,vai trò của nghề luật sư trong toàn bộ các định chế chính trị và tư pháp ở thượng
tần kiến trúc và các quan niệm mang tính phổ biến được hình thành trong lịch sử Việt
Nam. Theo quan niệm đó, có thể xem xét các đặc điểm của nghề luật sư trên các bình
diện sau:
Nghề luật sư trước hết là một nghề luật
Nói đến nghề luật sư là một nghề luật trước hết nhằm để phân biệt với các nghề
khác trong xã hội. Như vậy, nói tới nghề luật là nói tới công việc chuyên môn của
những người hoạt động liên quan đến pháp luật, như nghề thẩm phán, công tố, công

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


12

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
an, công chứng…Tuy nhiên, nghề luật sư có những khác biệt với những nghề liên
quan đến pháp luật nói trên không chỉ ở chức năng, theo sự phân công của xã hội mà
còn ở chỗ nó còn thể hiện qua các phương thức hành nghề một cách tự do. Luật sư
không phải là một công chức, không phải là một chức vụ được đề cử hay được đề bạt,
mà là một danh xưng được đặt ra theo sự phát triển của lịch sử và được pháp lý hóa.
Nghề luật sư bao hàm ý nghĩ chỉ những người hội đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật mới được hành nghề luật sư. Điều này cũng phân biệt được với một số trường hợp
được coi là người bào chữa hoặc là người đại diện theo ủy quyền như quy định trong
pháp luật tố tụng (như bào chữa viên nhân dân, người thân thích của bị can, bị cáo…)
nhưng không phải là người hoạt động trong nghề luật sư nhằm giúp cho quá trình hành
nghề được hợp pháp.
Nghề luật sư gắn liền với số phận con người
Có thể nói, nghề luật sư, cũng như các nghề luật khác, từ bao đời nay được coi
là một nghề nghiệp gắn bó với số phận con người. Đồng chí Lê Duẩn đã từng căn dặn
cán bộ ngành Kiểm sát, Tòa án, Công an: “Lý tưởng của chúng ta là chống áp bức,
bóc lột, một lòng một dạ vì nhân dân mà phục vụ. Phải thấu suốt lý tưởng đó, kiên
quyết không dung thứ những điều oan ức và không làm điều oan cho bất cứ một ai.
Một người bị tội oan, chẳng những người ấy đau khổ, mà gia đình con cái họ càng
đau khổ hơn. Làm điều oan cho một người nào đó thì chúng ta không còn lẽ sống nữa,
bởi vì chúng ta là những người cộng sản. Cán bộ các nhành Công an, Tòa án, Kiểm
sát, phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình”10.
Phần nhiều các ý kiến điều quan niệm luật sư bào chữa có nhiệm vụ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ pháp chế

xã hội chủ nghĩa, tôn trọng sự thật và pháp luật. Hai nhiệm vụ trên không mâu thuẫn
với nhau, trái lại gắn bó hữu cơ và mật thiết với nhau. Tuy nhiên, sứ mạng cao cả và
thiêng liêng của luật sư là bênh vực và bảo vệ kẻ yếu. “Kẻ yếu” ở đây được hiểu là
“người dân trong quan hệ với cơ quan công quyền, người kém nhiều hiểu biết hơn và
nghèo hơn trong quan hệ với người hiểu biết hơn và giàu hơn…Kẻ yếu, để làm tăng
sức mạnh của mình thì có một cách tốt nhất là sử dụng luật sư”11. Quan niệm như trên
không phải là một phương diện đúng về bản chất nghề nghiệp luật sư. Không thể quan
niệm quyền lợi người dân như là “kẻ yếu” chỉ vì họ kém hiểu biết hoặc nghèo hơn
người khác. Phải nhìn nhận rằng, dân chủ và nhân đạo là bản chất của chế độ xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước ta coi trọng quyền con người. Những quyền này được ghi nhận
trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Hồ Chí Minh “tất cả mọi người đều sinh ra
10

Trích bài phát biểu của đồng chí Lê Duẫn phát biểu tại hội nghị toàn nghành Kiểm sát tháng 3/1967.
TS Nguyễn Ngọc Điện. Một số suy nghĩ về đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong luật dân sự Việt Nam. NXB Trẻ
Tp Hồ Chí Minh.
11

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Điều 70 Hiến pháp hiện hành quy định: “Công dân có quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Quyền này được nêu thành

những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự và được xếp lên hàng đầu. Sự
gắn bó của nghề nghiệp luật sư với số phận con người, bất luận trong trường hợp nào,
cũng được coi là sự kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Đối tượng của nghề nghiệp
luật sư, vì thế không đơn thuần mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc kiếm lời từ dịch
vụ đó, mà trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân cần được sự
trợ giúp về mặt pháp lý.
Nghề luật sư là một nghề bất khả kiêm nhiệm
Thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới là bất khả kiêm nhiệm. Tuy nhiên, do
đặc điểm lịch sử của đất nước và quá trình hình thành nghề luật sư ở Việt Nam, nên
trong một thời gian khá dài, pháp luật về luật sư vẫn cho phép duy trì chế độ luật sư
kiêm chức12. Những luật sư kiêm chức này thực chất vẫn bảo đảm các tiêu chẩn hành
nghề luật sư, nhưng họ là công chức hoặc những người làm việc liên quan đến pháp
luật khác, chiếm tỷ lệ gần 40% số lượng luật sư trong cả nước13. Khiếm khuyết của
tình trạng kiêm nhiệm này trong thời gian qua là luật sư kiêm chức không thật sự sống
với nghề và bằng nghề, thời gian giành cho hoạt động luật sư bị chi phối bởi thời gian
làm việc mang tính bắt buộc của công chức, thậm chí gây phiền hà cho các cơ quan
tiến hành tố tụng khi vắng mặt tại phiên tòa xét xử bị cáo mà mình đã nhận trách
nhiệm bào chữa. Tính không chuyên nghiệp trong hoạt động của luật sư về phương
diện này còn làm cho người cần hỗ trợ pháp lý, bị can, bị cáo cảm thấy không tin
tưởng vào sự tận tâm của luật sư bào chữa, các cơ quan tiến hành tố tụng vì thế mà có
đánh giá không tốt về hoạt động nghề nghiệp luật sư, giảm thiểu vai trò của luật sư
trong đời sống và xã hội.
Bất khả kiêm nhiệm như một đặc điểm trong hoạt động của nghề luật sư không
chỉ bảo đảm hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, mà còn góp phần nâng cao vị trí,
vai trò của luật sư trong xã hội. Quan điểm của những nhà làm luật cho rằng, để tiến
tới chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư có thể chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp ứng nhu
cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú phức tạp của nhân dân.


12


Pháp lệnh tổ chức luật sư ngày 18/12/1987 tại Điều 11 “Những người đang công tác tại các cơ quan chuyên
trách bảo vệ pháp chế không được gia nhập Đoàn luật sư, trừ những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy
về pháp lý tại các viện nghiên cứu và các trường thuộc các cơ quan đó”.
13
/>
GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Nghề luật sư và trách nhiệm nghề nghiệp, tính độc lập
Hành nghề luật sư đòi hỏi trách nhiệm cao. Luật sư phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại gây ra cho khách hàng do lỗi của mình trong việc tư vấn pháp luật và
có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để đảm bảo thực hiện trách
nhiệm của mình14. Luật sư ở hoàn cảnh có điều kiện hành nghề khác nhau, luật sư bào
chữa không thể tự đi điều tra, không thể tiếp cận chứng cứ một cách dễ dàng. Việc
chứng minh tội phạm là Kiểm sát viên chứ không phải luật sư, trong lĩnh vực hình sự
nếu luật sư không thực hiện hết khả năng bào chữa chỉ trông chờ vào hồ sơ vụ án và
thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình không đến nơi đến chốn thì cũng không thể
truy cứu trách nhiệm nghề nghiệp. Kế hoạch làm việc của luật sư đã được thông qua
với khách hàng ngay từ đầu nên không thể dựa vào đó để truy cứu. Vì thế chứng minh
lỗi của luật sư trong hành nghề không phải là việc đơn giản.
Tuy nhiên, cũng không thể có việc luật sư không chịu trách nhiệm dân sự trên cơ
sở thỏa thuận với khách hàng. Luật sư có thể giới hạn trách nhiệm dân sự với khách
hàng, nếu không giới hạn rủi ro sẽ rất lớn, trách nhiệm luật sư chỉ nên có thể đến mức
trần của giá trị bảo hiểm, đặc biệt là đối với các tranh chấp lớn.

Hành nghề luật sư là hoạt động đòi hỏi tính trách nhiệm cao, gây thiệt hại là phải
bồi thường do vậy luật sư tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là một nghĩa vụ
cần thiết. Việc quản lý nghề luật sư phụ thuộc vào đặc điểm và tính truyền thống của
mỗi quốc gia. Nghề luật sư còn được điều chỉnh bởi những quy tắc do luật định và
những quy tắc không do luật định. Tuy nhiên việc vận dụng tính độc lập đối với nghề
luật sư vẫn còn phụ thuộc vào nhiều quan điểm, ý kiến trái ngược nhau theo điều kiện
của từng nước. Ở Việt Nam một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư là bảo đảm
tính độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan và tính tự chịu trách nhiệm của
luật sư.
1.2. Vai trò của luật sư bào chữa
Để thực hiện tốt vai trò bào chữa của luật sư bào chữa trong các vụ án, đòi hỏi
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tôn trọng, hợp tác chặt chẽ với các luật sư bào
chữa ngay từ đầu. Phối hợp tốt sẽ chỉ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật, bản chất của vụ án được phản ánh đúng trong hồ sơ
cũng như khi đưa ra xét xử. Luật sư bào chữa có vai trò quan trọng góp phần bảo vệ
công lý, công bằng xã hội. Hoạt động của luật sư bào chữa không phải là hoạt động tư
pháp nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư
pháp, là hoạt động bổ trợ tư pháp. Luật sư bào chữa có vai trò phản ánh các chuẩn

14

Luật luật sư 2006 tại Điều 52 “Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về kinh
doanh bảo hiểm”

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân



Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
mực, các giá trị xã hội, niềm tin vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị con
người.
1.2.1. Vai trò của luật sư bào chữa trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và
các đương sự trước tòa
Trong lịch sử, vai trò của luật sư bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự trước Tòa không phải ở mọi lúc, mọi nơi
được tôn trọng. Ở những nước mà mọi quan hệ giữa con người với con người bị ảnh
hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ điển hình như
các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển thậm chí không có nghề luật sư.
Nghề luật sư phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ, phát
triển. Để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía
những nhà chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật
sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của
cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau giữa những nền văn minh khác nhau. Ở Nhật
Bản trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao sự hòa
thuận, trách nhiệm cưỡng ép. Các quy phạm với sự chế tài là sự hổ thẹn và trách cứ đủ
để duy trì trật tự ở xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đặc
biệt là sau đại chiến thế giới lần thứ II vai trò của pháp luật đã thừa nhận trong xã hội
của Nhật Bản, nghề luật sư đã hình thành và ngày càng phát triển. Tùy theo từng quốc
gia khác nhau mà pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau. Ở Pháp trong một thời
gian dài pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Pháp luật chỉ tồn tại ở khía cạnh luật nội
dung mà không có luật hình thức, luật nội dung không có bảo đảm của luật tố tụng,
pháp luật tồn tại bên ngoài Tòa án, bên ngoài các vụ kiện. Cái được gọi là pháp luật lại
đối lập với tư pháp và không được mọi người quan tâm. Pháp luật chưa được xã hội
tôn trọng.
Nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng. Sự đa dạng này
xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống pháp luật của

mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật sư nhưng điều có chung
một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần
đảm bảo công lý. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tính nghề nghiệp của
luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư. Luật sư bào chữa
cần phải coi trọng và giữ gìn phẩm giá và uy tính nghề nghiệp; không ngừng trao dồi
đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn để hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của luật
sư, tôn vinh nghề nghiệp luật sư. Luật sư bào chữa làm gì phải đường hoàng, chính
đáng, thẳng thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trên cơ sở bảo

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
vệ lợi ích của Nhà nước, tôn trọng sự thật khách quan tuyệt đối tuân thủ pháp luật.
Luật sư không được gian dối khi hành nghề. Trong khi hành nghề cũng như trong đời
sống riêng tư luật sư không được có những hành vi làm hoen ố danh dự, nhân phẩm
của mình. Luật sư phải ứng xử đúng mực, có văn hóa trong nghề và trong lối sống để
luôn luôn tạo được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
Những quy tắc văn hóa ứng xử trong hành nghề của luật sư không có một văn bản cụ
thể nào nhưng trên thực tế nó được điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức nghề nghiệp
và cả những quy tắc đạo đức xã hội nói chung.
Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà có nhận thức khác nhau về vai trò, vị
trí của luật sư. Nghề luật sư và vai trò của luật sư luôn có sự thay đổi và phụ thuộc vào
sự phát triển kinh tế khách quan của mỗi xã hội. Nhiệm vụ của luật sư, luật sư bào
chữa là góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng việc hướng dẫn cho khách
hàng hiểu biết và thi hành đúng pháp luật, phục vụ công lý, bảo vệ quyền của công dân

đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Trong cuộc sống hàng ngày công dân thường có nhiều mối quan hệ với nhau và
với cơ quan tổ chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn,
động chạm đến quyền lợi của mỗi bên. Đặc biệt là những vấn đề phải giải quyết bằng
con đường Tòa án và ở đây những quyền cơ bản của công dân dễ bị đụng chạm nhất.
Thường công dân bị hạn chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức
luật sư được thành lập để giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư bào chữa là người
am hiểu pháp luật và có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, người giúp cho bị can,
bị cáo về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những vụ việc liên quan đến pháp luật,
nhất là những hoạt động gỡ tội cho thân chủ của mình trước Tòa án. Luật sư bào chữa
độc lập, và tận tụy trong hành nghề; không vì bất cứ áp lực nào khác mà làm sai lệch
sự thật, làm trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp. Luật sư bào chữa khi hành
nghề đòi hởi phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và phải tận tâm với công việc
mà mình đã nhận. Khi hành nghề, luật sư, luật sư bào chữa phải luôn tôn trọng sự thật
và phải độc lập không bị lung lạc bởi các lợi ích và vật chất hay bất kỳ một thế lực nào
khác.
1.2.2.Vai trò của luật sư bào chữa trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư phải trao đổi
kiến thức và sử dụng kiến thức đó để tăng cường giáo dục và phát triển hệ thống pháp
luật.
Ngoài ra luật sư cần chú trọng đến những khiếm khuyết trong việc thực thi pháp
luật và ý thức được rằng người nghèo, đôi khi có cả người không nghèo không nhận

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân



Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
được sự hỗ trợ pháp lý đầy đủ. Vì vậy phải dành thời gian và ảnh hưởng để giúp đỡ họ.
Nghĩa vụ nghề nghiệp của luật sư được thể hiện trong việc chấp hành những quy
định về đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra mỗi luật sư phải có lương tâm nghề nghiệp và
phải dành được sự tôn trọng của đồng nghiệp. Luật sư phải cố gắng để có kỹ năng
hành nghề cao nhất, để hoàn thiện kỹ năng nghề nghiệp của chính mình.
Luật sư đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản
của công dân và phát triển xã hội. Cùng với thời gian, đội ngũ luật sư Việt Nam dần
khẳng định rõ vị trí vai trò của mình trong xã hội. Luật sư bào chữa với tư cách là
người có kiến thức sâu, rộng về mặt pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo trước Tòa đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần khẳng định
mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ văn minh ở
Việt Nam.
1.2.3. Vai trò xã hội của luật sư bào chữa
Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng theo yêu cầu
của họ. Qua đó, góp phần bảo vệ pháp luật, giảm thiểu tình trạng oan sai của các cơ
quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ việc có liên quan đến thân chủ của mình.
Ngoài ra, luật sư còn giúp đỡ mọi người tuân thủ pháp luật thông qua việc thực hiện tư
vấn pháp lý và các dịch vụ pháp lý khác. Chức năng cụ thể của luật sư được quy định
tại Điều 3 Luật luật sư 2006: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo
vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nói tới chức năng xã hội của luật sư là đề cập đến thiên chức và sứ mệnh của
luật sư trong xã hội, tới cách thức mà luật sư hành nghề hướng đến những giá trị cơ
bản làm nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Chức năng xã hội của luật sư được thể
hiện thông qua khả năng đáp ứng nhu cầu pháp lý cho người dân một cách minh bạch
và tạo cho người dân nhận biết được sự chân thực và công bằng về các nhu cầu pháp
lý. Chính vì vị trí quan trọng của người luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự nên bị
can, bị cáo và người thân của họ trông chờ vào sự trợ giúp về mặt pháp lý của luật sư

bào chữa vì họ tin tưởng không chỉ vào mặt kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề mà
cả tính liêm chính, chuẩn mực trong hành vi của cá nhân luật sư. Bên cạnh đó, hoạt
động của luật sư bào chữa mang đến cho xã hội nói chung và cho tố tụng hình sự nói
riêng những giá trị của dân chủ, thông qua sự bình đẳng trong tranh tụng, đề xuất yêu
cầu, đại diện hoặc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trước Tòa. Như
vậy, chức năng xã hội của luật sư tuy chỉ giới hạn chừng mực ngắn gọn trong một điều
luật của Luật luật sư, nhưng ẩn chứa trong đó những quan niệm và ý nghĩa sâu xa về
thiên chức nghề nghiệp, sự cống hiến và đóng góp to lớn của đội ngũ luật sư nói chung

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
và luật sư làm công tác bào chữa nói riêng trong tiến trình phát triển của nền dân chủ,
từng bước hoàn thiện hơn công bằng xã hội.
Qua phân tích chung về luật sư bào chữa ta thấy rằng sứ mệnh cao cả của luật sư
là bảo vệ công lý, góp phần duy trì công bằng xã hội, phát huy quyền dân chủ của
nhân dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thông qua việc thực hiện chức năng tố
tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý để giúp cá nhân và tổ chức bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong xã hội, làm nghề
gì cũng cần đức, cần tâm, cần những cách ứng xử đúng chuẩn mực nghề nghiệp. Điều
này đặc biệt cần đối với nghề luật sư. Luật sư là nghề đang được xã hội quan tâm, nhất
là trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Khi đã nói đến nghề nghiệp của luật sư, trước
hết phải đề cập đến sứ mệnh mà người luật sư gánh vác, sau đó đến phẩm chất, thanh
danh của luật sư, kỹ năng hành nghề và cuối cùng là chuẩn mực ứng xử của luật sư
trong khi hành nghề. Nghề nghiệp của luật sư bao gồm những quy định chung về đạo

đức của bản thân luật sư trong các mối quan hệ với khách hàng , cơ quan nhà nước và
đồng nghiệp trong hành nghề. Vì vậy bằng hoạt động của mình luật sư bào chữa góp
phần tích cực vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý xã hội theo
pháp luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức; góp phần vào
việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật; góp phần thực hiện quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; giáo
dục công dân tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tôn trọng những quy tắc cuộc sống xã
hội chủ nghĩa. Bằng khả năng của mình luật sư bào chữa vận dụng kiến thức pháp luật
và nghiệp vụ của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. Đó là khả năng, năng lực,
kinh nghiệm...của luật sư bào chữa trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị
cáo trước phiên Tòa hình sự.

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm

CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
Điều 132 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm”. Quyền bào chữa là cơ sở của các
quyền khác mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng hình sự.
Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Trong một số điều luật, đặc biệt là các

Điều 56 đến 59 của Bộ luật tố tụng hình sự, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được quy định tương đối đầy đủ. Luật sư
bào chữa tham gia thực hiện quyền bào chữa thay cho bị cáo tại phiên tòa được quyền
sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo thông qua việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, còn có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc tiếp tục đảm bảo dân chủ trong hoạt động xét xử và tăng cường
bảo vệ công dân trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
và các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, cũng như vai trò quan trọng của Luật sư
bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung và trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự nói
riêng.
2.1. Những quy định về quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa, bào
chữa tại tòa
2.1.1. Quyền và nghĩa vụ chung của luật sư bào chữa
Theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự hồ sơ vụ án chứa đựng tất cả các tình tiết,
sự kiện pháp lý xảy ra của một vụ án. Nếu luật sư bào chữa không được nghiên cứu,
đọc hồ sơ vụ án thì sẽ không biết được những gì xảy ra và xảy ra như thế nào để bào
chữa cho thân chủ của mình. Luật sư bào chữa sẽ khó hoàn thành trách nhiệm của
mình nếu như họ không có điều kiện đọc hồ sơ vụ án. Các quyền và nghĩa vụ của luật
sư bào chữa trong giai đoạn điều tra chỉ cung cấp cho luật sư bào chữa tiếp cận với
một vài khía cạnh của vụ án. Việc đọc toàn bộ hồ sơ vụ án, mới biết được bị can có tội
hay không có tội, nếu có thì phạm tội gì, tính chất mức độ của hành vi phạm tội tìm ra
các tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo… Trong các tài liệu,
hồ sơ vụ án thì bản kết luận điều tra là tài liệu mà luật sư bào chữa cần biết. Bởi lẽ, sau
khi kết thúc điều tra thì Cơ quan điều tra sẽ quyết định đề nghị truy tố hoặc đình chỉ
điều tra. Điều 137 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trong trường hợp Cơ quan điều
tra đề nghị truy tố thì hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

20


SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
phải báo cáo ngay cho bị can và luật sư bào chữa biết”. Nếu hồ sơ chuyển sang Viện
kiểm sát thì luật sư bào chữa vẫn có quyền đọc toàn bộ hồ sơ vụ án, kể cả tài liệu, hồ
sơ được bổ sung mới. Luật sư bào chữa có trách nhiệm tham gia mỗi giai đoạn tiến
hành tố tụng, khi thu thập tài liệu đồ vật liên quan đến vụ án, có trách nhiệm giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi tham gia bào chữa tại phiên tòa, luật sư bào chữa
được quyền hỏi, tham gia tranh luận tại phiên tòa. Được phân tích đánh giá chứng cứ
kiến nghị với Tòa án về việc áp dụng pháp luật, kiến nghị về việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung (Điều 179), tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án (Điều 176) để đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho bị can, bị cáo.
Khi đọc hồ sơ vụ án, luật sư bào chữa có quyền ghi chép những điều cần thiết có
trong hồ sơ hoặc bổ sung thêm tài liệu chứng cứ mà luật sư bào chữa quan tâm. Việc
ghi chép sẽ giúp cho luật sư bào chữa có tư liệu chính xác để tự tin trong việc xây
dựng phương án bào chữa.
Để đảm bảo quyền này, được thực thi có hiệu quả tốt nhất, tại Điều 58 Bộ luật tố
tụng hình sự đã ghi nhận “ngoài quyền được đọc, ghi chép hồ sơ vụ án, người bào
chữa được quyền sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào
chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật”. Với những vụ án đơn
giản, ít tài liệu đọc hoặc ghi chép thì luật sư bào chữa có thể đọc, ghi chép tại chỗ.
Nhưng đối với những vụ án lớn, phức tạp và nghiêm trọng, hồ sơ vụ án quá nhiều thì
quy định tại điểm g khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành sẽ tạo điều kiện
cho luật sư bào chữa thu thập đủ tài liệu, tình tiết để chuẩn bị chu đáo, cặn kẻ hơn cho
việc bào chữa của mình và “giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Tại khoản 3 Điều 58 luật sư bào chữa sử
dụng mọi biên pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

của bị can, bị cáo, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tuy nhiên, trong
trường hợp tội trạng của bị can, bị cáo đã rõ ràng thì luật sư bào chữa khuyên họ thành
khẩn nhận tội và luật sư bào chữa phân tích những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm cho
họ. Nếu họ không đồng ý thì luật sư bào chữa có quyền từ chối bào chữa giữ quyền
giữ im lặng nhưng không được phép kết tội họ trước tòa nếu luật sư bào chữa lại buộc
tội bị cáo trước Tòa thì hoàn toàn trái với chức năng bào chữa. Và tôn trọng quyền có
luật sư bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu có luật sư bào chữa đã nhận
bào chữa cho một ai đó thì không được từ chối bào chữa vì lý do không chính đáng
“không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm
nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng” điểm b, c khoản 3 Điều 58; luật sư
bào chữa có quyền từ chối bào chữa nếu tội phạm của bị cáo không thể bào chữa được,

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

21

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
trừ trường hợp luật sư bào chữa được chỉ định theo khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng
hình sự. Luật sư bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; không được
cưỡng ép xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, không
được làm tiết lộ bí mật nhà nước trong quá trình bào chữa. Làm như vậy sẽ rút ngắn
thời gian làm việc của luật sư bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm cho
việc giải quyết vụ án được đúng đắn khách quan. Ví dụ 1: “Trong vụ án xét xử các
giáo dân Thái Hà. Nhóm luật sư bào chữa đã trực tiếp đến Tòa án Thành phố Hà Nội
5 lần để yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng đều bị cán bộ Tòa án Thành phố
Hà Nội viện hết lý do này đến lý do khác hẹn lần hẹn lữa để cản trở nhóm luật sư tiếp
xúc với hồ sơ. Khi bị Luật sư chất vấn thì cán bộ Tòa án Thành phố Hà Nội tên Bùi Thị

Hồng viết tiếp giấy hẹn “ngày 23/2/2009 Luật sư đến nghiên cứu hồ sơ”. Tuy nhiên,
ngày 18/2/2009, cán bộ Thư ký Tòa án Thành phố Hà Nội lại gọi điện thoại thông báo
rằng ngày 23/2/2009 Luật sư vẫn chưa có thể tiếp xúc hồ sơ vì “Vụ án sẽ hoãn vô thời
hạn và ngày 23/2/2009 các Luật sư vẫn chưa có thể đọc được hồ sơ”, “Đây là ý kiến
chỉ đạo của cấp trên”. Không hiểu cái gọi là “cấp trên” mà cô Thư ký Tòa án Thành
phố Hà Nội nói là cá nhân nào mà lại có quyền “chỉ đạo” trái pháp luật như thế. Có
vẻ như Tòa án Thành phố Hà Nội không muốn cho luật sư bào chữa được nghiên cứu
hồ sơ vụ án thì làm sao các luật sư có sự chuẩn bị luận cứ bào chữa chặt chẽ nhằm
bảo vệ tốt nhất cho các bị cáo”15.
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành, trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử luật sư bào chữa còn có các quyền
được quy định nằm rải rác ở các điều luật khác như: Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và
liên tục. “Tòa án xét hỏi trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và
nghe ý kiến của bị cáo,...ý kiến của kiểm sát viên, luật sư bào chữa...” (Điều 184). Đây
là quyền quan trọng để luật sư bào chữa nêu ra ý kiến của mình về vụ án để Hội đồng
xét xử xem xét cân nhắc, để việc xét xử vụ án được chính xác khách quan; giúp cho
Hội đồng xét xử tập trung ý chí ra bản án, quyết định trên cơ sở điều tra chính thức tại
phiên tòa thông qua việc xét hỏi, tranh luận của luật sư bào chữa. Việc xét xử phải
được tiến hành bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án luật sư bào chữa có
quyền xét hỏi những người này để làm rõ sự thật của vụ án, tìm ra phương hướng bào
chữa tốt nhất để bào chữa cho bị cáo. Trong phần tranh luận tại tòa giữa luật sư bào
15

/>5+%C3%A1n+g%C3%A2y+r%E1%BB%91i+c%E1%BB%A7a+gi%C3%A1o+d%C3%A2n+Th%C3%A1i+H
%C3%A0.html

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu


22

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của luật sư bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
chữa và Kiểm sát viên; Sự có mặt của luật sư bào chữa. “Người bào chữa có nghĩa vụ
tham gia phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án....
Trong trường hợp bắt buộc phải có mặt người bào chữa..., thì Hội đồng xét xử phải
hoãn phiên tòa” (Điều 190). Luật sư bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa để bào
chữa cho bị cáo. Luật sư bào chữa thực hiện việc bào chữa bằng cách giúp đỡ bị cáo
trong việc thực hiện các quyền mà pháp luật quy định, tham gia xét hỏi, trình bày lời
bào chữa, đối đáp với kiểm sát viên, người bị hại người tham gia tố tụng khác để tranh
luận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác cho bị cáo. Việc quy định luật sư
bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc
thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự. Đồng thời, sự có mặt của luật sư bào chữa tại phiên tòa sẽ đảm
bảo cho việc tranh tụng công khai trước phiên tòa, giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, từ
đó giúp Hội đồng xét xử xác định chính xác các tình tiết của vụ án, bảo đảm cho việc
xét xử chính xác, khách quan.
Quyền được xem biên bản phiên tòa và đề nghị sửa đổi bổ sung biên bản phiên
tòa “người bào chữa...được xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa
đổi bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận” (Điều 200). Biên bản phiên tòa là
văn bản tố tụng thể hiện đầy đủ, khách quan toàn bộ diễn biến phiên tòa từ khi bắt đầu
cho đến khi kết thúc phiên tòa. Biên bản phiên tòa là tài liệu quan trọng giúp cho Tòa
án cấp trên xem xét trong việc xét xử theo trình tự phúc phẩm với việc xét xử của tòa
án cấp dưới theo quy định tại Điều 23. Luật sư bào chữa có quyền xem biên bản phiên
tòa để xem quyền lợi của bị cáo có được thể hiện đầy đủ không, về hình phạt chính,
phụ, xem có quá nặng phù hợp với hoàn cảnh khách quan, phù hợp với việc xem xét
chứng cứ tại tòa, có đảm bảo được tính khách quan, chính xác của chứng cứ để buộc

tội bị cáo không.
Quyền yêu cầu xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
(Điều 205). Luật sư bào chữa có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làn chứng, hoặc
đưa thêm tài liệu vật chứng ra xem xét. Nếu người làm chứng đó quan trọng, hoặc
chứng cứ yêu cầu xem xét quan trọng đến việc gõ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, giúp cho việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn khách quan, bảo đảm cho bị
cáo được sử đúng người đúng tội mà nếu không được xem xét thì có thể dẫn đến oan
sai ảnh hưởng quyền lợi của bị cáo, thì luật sư bào chữa có thể đề nghị hoãn phiên tòa.
Phải có lời bào chữa “bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì
người này bào chữa cho bị cáo” (Điều 217). Luật sư bào chữa phát biểu lời bào chữa
trên cơ sở nghiên cứu những chứng cứ ở giai đoạn điều tra, xem xét những chứng cứ
gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Xem xét những lời khai

GVHD: ThS. Mạc Giáng Châu

23

SVTH: Nguyễn Thanh Nhân


×