Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.75 KB, 30 trang )

ĐỀ TÀI : QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
PHẦN 1: MẤY VẤN ĐỀ VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .
“Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay đổi chế độ tư
bản lỗi thời, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi những điều kiện vật chất và tinh
thần cho sự thay thế đó đã ở mức nhất định, và khi hình thành tình thế cách
mạng.”
1
Như vậy muốn cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra phải có
những điều kiện tiên quyết cơ bản đó là điều kiện về vật chất, điều kiện về tinh
thần, và tình thế cách mạng.Có thể nói đây là một quá trình lâu dài và phức tạp.
Trong lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều sự thay đổi của các hình thái kinh tế
xã hội. Các hình thái xã hội ra đời sau đều tiến bộ hơn hình thái xã hội trước nó
và đưa lịch sử nhân loại phát triển lên một tầm cao hơn. Xã hội muốn phát triển
phải có sự đấu tranh và loại bỏ những mâu thuẫn trong xã hội.Và những cuộc
đấu tranh loại bỏ những mâu thuẫn đối kháng chính là cuộc cách mạng xã hội.
“Cách mạng xã hội là sự cải biến căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế chế độ xã
hội này bằng chế độ xã hội khác tiến bộ hơn, phù hợp hơn với trình độ và nhu
cầu phát triển của lịch sử”
2
Các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra khi mục đích của nó là
tiêu diệt chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời và xây dựng một xã hội tiên tién
hơn.Nếu như giai cấp lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản là giai cấp tư sản thì công
nhân là những người bắt đầu cho quá trình chuẩn bị lực lượng, vật chất, tinh
thần cho cách mạng xã hội. Giai cấp công nhân sẽ thông qua chính đảng của
mình là Đảng cộng sản lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động và các lực
lượng tiến bộ dùng sức mạnh để lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản .Trên cơ
1
Các bộ môn khoa hoc Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí MInh:Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nxb.Chính trị
quốc gia, 2004, tr.157.
2
Các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình chủ nghãi xã hội khoa học, nxb CTQG,


2004, tr.157.
1
sở lật đổ xã hội tư bản cũ sẽ xây dựng một xã hội mới tiến bộ hơn, tiêu diệt toàn
bộ yếu điểm, hạn chế mà chế độ xã hội cũ để lại.Chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng
thành công khi đạt được mục tiêu đề ra ban đầu.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra tại Liên Xô năm 1917 và sự
hình thành của một loạt nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau chiến tranh thế
giới II đã làm cho chủ nghĩa tư bản mất đi vị trí thống trị, độc quyền trên thế
giới.Đây là một hiện thực không thể chối cãi và hoàn toàn phù hợp với quy luật
phát triển của thời đại.Trong giai đoạn ngày nay,chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và
chưa hề bị tiêu diệt như trong nhận định của một số nhà khoa học xã hội chủ
nghĩa song trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại những mâu thuẫn không gì có
thể giảI quyết nổi. Tuy nhiên có thể nhận thấy ngoàI những ưu đỉêm tiến bộ
trong sản xuất, kinh tế tư bản chủ nghĩa còn có một khả năng thích ứng tốt.Với
bản chất xảo quyệt, chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản hoàn toàn có thể làm dịu
lại những mâu thuẫn hiện thời trong lòng xã hội và tiếp tục vận dụng những
nguồn lực được tích luỹ trong qúa trình tồn tại để tiếp tục phát triển, mặc dù
những biện pháp này chỉ mang tính tạm thời.
Điều kiện khách quan để cách mạng chủ nghĩa xã hội diễn ra lại nảy sinh
trong lòng chủ nghĩa tư bản.Chủ nghĩa tư bản đã phát triển một quan hệ xã hội
mới tiến bộ hơn so với quan hệ phong kiến trước đó.Sau hơn một thế kỷ tồn tại
và phát triển, tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ hơn tất cả
các thời đại trước đó cộng lại.Tuy nhiên khi chủ nghĩa tư bản phát triển tới một
lúc nào đó quan hệ sở hữu tư bản sẽ cản trở sự phát triển của lực lượng sản
xuất.Khi đó lực lượng sản xuất được xã hội hoá cao sẽ là động lực xoá bỏ quan
hệ sản xuất đó.Trong xã hội tư bản lực lượng được xã hội hoá cao chính là giai
cấp công nhân hiện đại và nền đại công nghiệp cơ khí.Sở dĩ có thể nói như trên
bởi hai yếu tố trên chính là nguồn lao động chính tạo nên của cải và sự phồn
2
thịnh cho giai cấp tư sản. Vậy khi hai lực lượng này đứng dậy xoá bỏ quan hệ

sản xuất bất hợp lýthì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thành công.
PHẦN 2: CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
2.1.Những căn cứ thực tiễn ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Con đường đI lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một con đường phát
triển tất yếu của hiện thực khách quan.
Những đIều kiện cho sự phát triển về vật chất và tinh thần cho cách mạng
xã hội chủ nghĩa đã được chuẩn bị ở Việt Nam từ rất sớm. Cuối thế kỷ XIX,
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam.Bước sang đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Điều tất yếu hình thành trong các xã
hội thuộc địa là sự mâu thuẫn của nhân dân bản xứ với chính quyền đô hộ. Bên
cạnh đó, chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn cuối, sự sa đoạ và thối
nát được thể hiện rõ. Nhà nước không còn làm đủ chức quyền khi khuất phục
trước ách xâm lược thực dân một cách nhanh chóng. Chính vì vậy mâu thuẫn ở
Việt Nam không phảI chỉ một mà là hai và các mâu thuẫn chồng chất.Vấn đề
giảI phóng đất nước khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến là vấn đề
to lớn bức xúc nhất của nhân dân ta.
3
Trong xã hội có mâu thuẫn ắt có đấu tranh. Sự nghiệp giảI phóng đất
nước của nhân dân ta lúc bấy giờ chính là hiện thân của sự đấu tranh xoá bỏ mâu
thuẫn đó.Từ nhận định của Đảng ta về bản chất xã hội Việt Nam lúc đó là một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến có thể xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội
lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với bọn thực dân xâm lược và
mâu thuẫ giữa nông dân (nông dân Việt Nam thời kỳ này chiếm 90% dân số
trong cả nước) với giai cấp địa chủ phong kiến. Đây là hai mâu thuẫn gắn bó
trực tiếp với nhau. Bọn thực dân chủ trương duy trì chính quyền phong kiến để
3
Viện chủ nghĩa xã hội khoa hoc: Giáo trình chủ nghĩa xã hôI khoa học, nxb.Lý luận chính trị, tr.259
3
làm tay sai, chỗ dựa cho sự thống trị của bọn chúng còn giai cấp phong kiến

Việt nam lúc bấy giờ đã đI vào giai đoạn suy tàn cũng muốn dựa vào sức mạnh
thực dân để tiếp tục bóc lột và đàn áp nhân dân (chủ yếu là nông dân).Sự kết
hợp trên đây đã tạo ra một hệ thống chính trị cực kỳ phản động, chúng đã đảm
bảo được quyền lợi tập trung vào tay của bọn thực dân và sự cai trị trực tiếp của
chúng. Đây là bộ máy chính trị thể hiện rõ nhất đặc tính của một chính quyền
thực dân. Chính quyền phong kiến Việt Nam lúc này như một bệ đỡ cho thực
dân.Việc chính quyền phong kiến vẫn còn tồn tại tức bọn thực dẫn vẫn muốn
duy trì một xã hội thấp kém, ấu trĩ, lạc hậu ở nước ta, song thông qua chính
quyền phong kiến, chúng đã tăng cường sự cai trị của mình trên nước ta..Thực
dân Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị và chúng đã chia nước ta ra làm ba
kỳ với ba chế độ khác nhau.
Như vậy giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ là hai nhiệm vụ cơ bản và chủ
yếu của nhân dân ta lúc bấy giờ. Hai nhiệm vụ này gắn bó mật thiết và làm tiền
đề cho nhau. Nhân dân ta chỉ có thể đánh đổ chính quyền thực dân phong kiến
thì mới có thể có độc lập và tự do. Quan hệ biện chứng giữa dân tộc và dân chủ
ở nước ta độc đáo và nổi bật.
Để có thể thực hiện được hai nhiệm vụ trên nhân dân ta đã phảI trả qua
một quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh nhiều máu và nước mắt. Sự khó khăn
đó đến từ sự hạn chế trong nhận thức do thời đại quy định, đến từ sự nghèo khó
của một đất nước phương Đông lạc hậu…Đã có người tìm tòi đi trên nhiều con
đường đI được thử nghiệm, với “đề tài” con đường cứu nước và giảI phóng dân
tộc và sự hy sinh xương máu là không thể kể xiết.Trên con đường đi tìm đường
cứu nứơc đó, ta có thể gặp bao khuôn mặt đại diện cho bao nhiêu tầng lớp trong
xã hội ta thời bấy giờ.Sự nghiệp giải phóng đất nước đã huy động cả dân tộc
tham gia.
4
Trước tiên là những phần tử ưu tú nhất trong giai cấp phong kiến,Mặc dù
giai cấp phong kiến suy đồi song trong đó vẫn có những phần tử ưu tú, có tình
yêu đất nước nồng nàn tha thiết, trong những vị vua bán nước họ Nguyễn vẫn có
những vị vua anh minh sáng suốt hiểu được nỗi nhục của kẻ mất nước.Và họ

chính là những người đặt những bước chân đầu tiên trên con đường thể nghiệm
con đường đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc.Họ chính “tác giả” của phong
trào Cần Vương. Phong trào Cần vương lấy hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến
làm nền tảng tư tưởng, mong chờ phục hồi độc lập dân tộc để tiếp tục duy trì chế
độ phong kiến.Song, vào thời điểm này, chế độ phong kiến trên toàn thế giới nói
chung và phương Đông nói riêng đã tới hồi cáo chung.Chế độ phong kiến không
thể tiếp tục duy trì và tồn tại khi tại Phương Tây nó đã bị tiêu diệt vào thế kỷ
XVII, XVIII còn ở Phương Đông thì không chống cự nổi với sự xâm nhập của
tư bản mới. Vì vậy, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đã không được đặt trên
một nền tảng giai cấp phù hợp, không đáp ứng được mục tiêu mà đông đảo quần
chúng hướng tới.Chính vì vậy mặc dù có lôi kéo được quần chúng nhân dân
tham gia song không tạo được sức mạnh để chiến thắng kẻ thù là chủ nghĩa thực
dân Phương Tây.
Tiếp theo sau thế hệ của các cụ Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết…
nước ta chứng kiến sự xâm nhập ồ ạt của tư tưởng dân chủ tư sản vào nước ta
đầu thế kỷ XX. Hệ tư tưởng này xâm nhập vào nước ta theo một số con đường
như từ Trung Quốc(sách báo, tư tưởng của Khang Hữu Vy, Lương Khải Vy,
Tôn Trung Sơn…), con đường từ Pháp do sự xâm lược và ách đô hộ của Pháp
lên nước ta, và do một số người Việt Nam ở nước ngoài. Một số lãnh tụ tiêu
biểu cho phong trào giải phóng dân tộc theo con đường dân chủ tư sản ở nước ta
phải kể đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học...Đây là những
người đã sớm có tư tưởng tiến bộ này ở nước ta mặc dù xuất thân từ giai cấp
phong kiến.Những phong trào do họ khởi xướng và lãnh đạo đều hoàn toàn mới
5
so với nhận thức của các nhà yêu nước lúc bấy giờ.Mục tiêu của họ là đấu tranh
giành độc lập, sau đó phát triển đất nước theo con đường tư bản như hình mẫu
các nước tư bản (bao gồm cả tư bản phương Tây như nước Pháp hoặc tư bản
Phương Đông như Nhật Bản).Tuy nhiên phong trào đã thất bại, do không thể
dùng hệ tư tưởng tư sản để đấu tranh với nước tư sản.Với điều kiện đất nước ta
lúc bấy giờ không thể có một hệ tư tưởng và vật chất tiến bộ hơn thực dân Pháp-

một nước tư bản đã được xác lập hơn hai thế kỷ.Mặt khác, cũng vào thời điểm
đó hệ tư tưởng tư bản cũng đã trở nên lỗi thời, bộc lộ những yếu điểm và hạn
chế của nó, đồng thời đã có một hệ tư tưởng mới tiến bộ hơn ưu việt hơn ra đời
trên thế giới. Phong trào tuy kết thúc trong thất bại song cũng đã ít nhiều góp
phần nâng cao dân trí và nhận thức của một bộ phận nhân dân. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản một lần nữa lại không đáp ứng được
yêu cầu dân tộc và đông đảo quần chúng nhân dân. Cuộc cách mạng tháng Mười
Nga thành công năm 1917 đã là một gợi ý cho sự nghiệm giải phóng dân tộc ta.
“Cách mạng Tháng Mười Nga(1917)đã thức tỉnh các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc, mở cho họ con đường giải phóng, bỏ qua giai đoạn thống trị của chủ
nghĩa tư bản để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội”
4
Trên thực tế giai cấp tư sản Việt Nam lúc đó quá ít ỏi về số lượng và non
kém về chất lượng. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế
nghèo nàn, đại bộ phận là nông dân.Từ trước tới đó những người giàu trong xã
hội trừ vua quan chỉ chủ yếu là địa chủ, bóc lột nông dân là chủ yếu.Chỉ khi tư
bản vào nước ta mới có tầng lớp tư sản ra đời, do vậy tư sản nước ta chỉ chủ yếu
làm thuê cho Pháp, tiền vốn ít ỏi, so với mặt bằng chung của xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ là giàu có song so với tư bản Pháp thì rất nhỏ nhoi.Năm 1943, tổng
số tư bản của tư sản Việt Nam là 7,814 triệu phơrăng, so với tổng số tư bản của
Pháp hoạt động ở Đông Dương là 4,357 tỷ phơrăng thì phần của tư sản Việt
4
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nxb.CTQG, tr.188
6
Nam chỉ chiếm 0,2%
5
.Điều kiện kinh tế như vậy không thể tạo cho giai cấp tư
sản Việt nam có sức mạnh thực hiện hoài bão giành độc lập cho đất nước.Mặt
khác giai cấp tư sản Việt Nam có quyền lợi gắn liền với thực dân Pháp, nội bộ
tầng lớp có sự phân hoá thành tư sản dân tộc và tư sản mại bản, phần lớn tư sản

Việt Nam có nguồn gốc xuất thân từ địa chủ phong kiến vì vậy trên một phương
diện nào đó họ không thể vứt bỏ lối suy nghĩ cũ, có xu hướng khôi phục chế độ
cũ.Vì vậy một số có thái độ không cương quyết trong đấu tranh và trên mảnh đất
thực dân phong kiến nghiệt ngã giai cấp tư sản Việt nam đã không có đủ điều
kiện vật chất và tinh thần cho sự xuất hiện một giai cấp tư sản dồi dào về sức lực
mạnh mẽ về tinh thần để đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa, thoát khỏi ách nô lệ của thực dân.
6
Mọi cương lĩnh, đường lối đều không
đáp ứng được nhu cầu dân tộc dân chủ đang ngày càng lên cao trong dân chúng,
những nhu cầu bức thiết của đời sống không được giải quyết, đất nước không
thể trông chờ vào tầng lớp này.Vì vậy, tầng lớp tư sản việt Nam nói riêng và
những nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói chung đã không thể
tiếp tục cầm ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc, ngọn cờ này đã chính thức
được giao lại cho giai cấp mới tiếp bước trên con đường đấu tranh là con đường
vô sản.Năm 1927 sự thất bại của Quốc dân đảng đã chính thức chấm dứt khuynh
hướng yêu nước dân chủ tư sản ở nước ta đầu thế kỷ XX.
Như vậy con đường thể nghiệm giải phóng dân tộc đã trải qua nhiều
hướng đi, song chưa thể tìm ra một hướng đi đúng đắn.Những nhu cầu của dân
tộc ngày càng mạnh mẽ rộng lớn và nó đã vượt qua sự hạn hẹp của cương lĩnh
của giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản.Đồng thời nó đòi hỏi mạnh mẽ một
xu hướng mới một con đường đi mới đúng đắn và hợp lý hơn.Vấn đề này chỉ và
đã được giải quyết bằng một cương lĩnh triệt để mang tính định hướng xã hội
5
Ngô Văn Hoa, Dương Kinh Quốc: “Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng”,
Nxb.Khoa học xã hội, 1978, tr.197
6
Viện chủ nghĩa xã hội khoa hoc: Giáo trình chủ nghĩa xã hôI khoa học, nxb.Lý luận chính trị, tr.262
7
chủ nghĩa do đại diện của giai cấp vô sản nêu ra.Đây là nguyện vong và nhu cầu

bức thiết của các giai cấp và tầng lớp xã hội cơ bản ở nước ta.
Vào những năm 20 của thế kỷ trước, người ta chứng kiến sự biến động
sâu sắc trong các tầng lớp xã hội ở Việt Nam và trong qúa trình đó, từng giai
cấp, từng tầng lớp đã thể hiện vai trò của mình đối với cách mạng và cũng qua
đó động lực cách mạng đã hình thành tạo nên điều kiện chủ quan cho cách mạng
Việt Nam sau này.Sau cuộc khai thác thuộc địa lần I, giai cấp công nhân Việt
Nam mới chỉ là một bộ phận nhỏ trong xã hội với số lượng công nhân ít ỏi.Tuy
nhiên số lượng công nhân đã tăng vọt sau khai thác thuộc địa lần II của Pháp ở
nước ta.Công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân là nông dân, do không thể sống
trên chính mảnh ruộng của mình mà họ phải phiêu dạt ra thành phố và bán sức
lao động cho tư bản Pháp.Công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức bóc lột,của
thực dân, tư sản , địa chủ…vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam ngoài nỗi đau
mất nước còn phải chịu sự bóc lột về thể xác vì vậy họ đã sớm hình thành ý thức
dân tộc và giai cấp.Mặc dù có mang đặc điểm của công nhân thế giới là đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến song giai cấp công nhân Việt Nam đều xuất thân
từ nông dân, hiểu được nỗi thống khổ vì vậy công nhân Việt Nam chỉ một lòng
đoàn kết thống nhất đấu tranh giành lấy tự do và công bằng.Vì vậy trong nội bộ
giai cấp công nhân Việt Nam không hề xuất hiện công nhân quý tộc và không
phải trải qua thời kỳ đấu tranh dưới ngọn cờ lãnh đạo của giai cấp tư sản.Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam ban đầu mang tính chất tự phát
song đi cùng sự gia tăng về số lượng là sự phát triển về chất lượng. Các phong
trào không còn chỉ hướng vào lợi ích kinh tế mà đã chĩa mũi nhọn vào vấn đề
chính trị, có yêu sách riêng với nguyện vọng độc lập dân tộc, dân chủ mang tính
triệt để và hướng tới chủ nghĩa xã hội.Việc ra đời chính đảng của mình đã chứng
tỏ nhận thức tự giác của công nhân Việt Nam.
8
Bên cạnh công nhân là giai cấp nông dân.Đây là giai cấp chiếm số lượng
đông nhất ở nước ta(90% dân số).Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề và bị phân
hoá sâu sắc.Bị tước đoạt ruộng đất phần lớn nông dân rơi vào tình cảnh bần
cùng hoá, một số trở thành công nhân, một số không thể trở thành công nhân lại

quay trở về nông thôn làm thuê trên chính mảnh ruộng của mình, còn một số
khác thì lưu manh hoá, sống cuộc sống bế tắc không lối thoát.Có thể thấy giai
cấp công nhân có nguồn gốc từ nông dân, họ và giai cấp nông dân cũng cùng có
cùng mối lo ngại chung và kẻ thù chung là phong kiến và thực dân.Tuy điều này
lý giải cho sự liên kết chặt chẽ của hai giai cấp này trong cách mạng sau này.
Một đặc điểm mới trong kết cấu hạ tầng ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp
xâm lược đó là sự mở rộng của các thành thị. Đi cùng với đó là sự gia tăng về số
lượng của tầng lớp tiểu tư sản.Tâng lớp này bao gồm các trí thức, dân nghèo
thành thị, học sinh sinh viên v..v..họ cũng bị thực dân Pháp chèn ép, đa số có
cuộc sống bấp bênh không ổn định.Song đây là những người ít nhiều được tiếp
xúc với tri thức mới và có những nhận thức đúng đắn, vì vậy họ cũng sớm tham
gia với công, nông trong phong trào chống Pháp, hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Đây là cơ sở để phong trào yêu nước của nhân dân ta trong những năm
thập niên đầu của thế kỷ XX phát triển rộng lớn và mạnh mẽ.Cùng phát triển
song song với phong trào yêu nước là phong trào công nhân, và cả hai phong
trào đều hướng tới một mục tiêu hoàn toàn mới mẻ so với thời kỳ trước là mục
tiêu chủ nghĩa xã hội.Từ trong những phong trào đó yêu cầu dân tộc dân chủ đã
tự thân diễn biến và phát triển chín muồi.Năm 1921 Hồ Chí Minh đã nêu một
nhận xét quan trọng: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư sản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải
phóng nữa thôi.”
7
Tóm lại mâu thuẫn dân tộc và giai cấp ở nước ta đã lên đến đỉnh điểm vào
cuối thập niên 20 của thế kỷ XX, sự phát triển của phong trào yêu nước, phong
7
Hồ Chí Minh:Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995,t1, tr.28
9
trào công nhân là tiền đề cho sự bùng nổ cách mạng. Cùng với đó hoạt động của
Nguyễn ái Quốc truyền bá tư tưởng Mác-Lênin vào nước ta đã trở thành nhân tố
thứ ba quan trọng trong sự thành công của cách mạng xã hội. “Phong trào đấu

tranh mang tính tự phát của giai cấp công nhân khi được soi sáng bởi lý luận
cách mạng chủ nghĩa Mác-Lênin biến thành tự giác, dẫn tới sự ra đời của Đảng
Cộng sản, tức là tạo nên một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất
đảm bảo cho cuộc đấu tranh của giai cấp này đi tới thắng lợi.”
8
2..2.Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Năm 1930 Đảng cộng sản Việt nam ra đời đã đáp ứng được yêu cầu và
nguyện vọng của dân tộc và nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.Trong Chính cương
vắn tắt của Đảng năm 1930, Nguyễn áI Quốc đã khẳng định: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
Cuộc cách mạng xã hội sẽ thành công khi chuẩn bị đầy đủ điều kiện chủ
quan, khách quan và có tình thế cách mạng.Cuộc cách mạng tháng Tám năm
1945 của nhân dân ta đã thành công như vậy.Và Đảng cộng sản là đại diện cho
giai cấp công nhân lãnh đạo đất nước xây dựng hoàn chỉnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa.Cách mạng tháng Tám đã làm được nhiệm vụ dân tộc đề ra, giành lại
độc lập cho nước nhà, nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành người làm chủ chính
cuộc sống của mình, được sống cuộc sống tự do trên chính mảnh đất mình sinh
ra.
Từ sau cách mạng tháng Tám nhân dân ta lại phải đối mặt với sự xâm
lược lần hai của thực dân Pháp.Do vậy, giờ đây nhân dân ta vừa phải giữ gìn độc
lập vừa phải tiếp tục đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội như đường lối đã vạch
ra.Nhiệm vụ cơ bản của lúc bấy giờ chính là kháng chíên kiến quốc. “Kháng
chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới
thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”
9

8
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004, tr.166
9
Hồ chí Minh toàn tập, Nxb Sự thật, 1986, t4,tr.99

10
Theo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về tiến trình của cách mạng
xã hội, giai đoạn thứ nhất của tiến trình cách mạng là “Giai đoạn giai cấp vô sản
tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai cấp giành lấy dân chủ”
10
.Sở dĩ chúng
ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp lần 2 do sự đúng đắn trong
đường lối chỉ đạo của Đảng.Chỉ thị và chủ trương “Kháng chiến kiến quốc”đã
phản ánh mối quan hệ khách quan giữa yêu cầu giải phóng dân tộc và giải phóng
xã hội ở nước ta.Độc lập dân tộc là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến sự
thực thi giải phóng xã hội ở nước ta.Mặt khác, đường lối này còn vận dụng đúng
đắn và sáng tạo lý luận của Mác-Lênin về tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ,
đưa cuộc cách mạng này đến thắng lợi triệt để rồi chuyển lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa.Bên cạnh chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”, bảo toàn được nền độc lập, nước ta còn đạt được một số thành tựu
trong kiến quốc là: Xây dựng được một nền kinh tế dân tộc dân chủ nhân dân,
không những đảm bảo cuộc sống của nhân dân còn chi viện cho tiền tuyến.Xây
dựng và củng cố hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có một
nền văn hoá phát triển theo nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng đã nâng cao
dân trí chống lại âm mưu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù đồng thời khơi dậy
truyền thống ngàn năm của dân tộc ta.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn được tiếp tục tiến
hành .Mặc dù có những hạn chế và sai lầm song đến khi hoàn thành công cuộc
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vào năm 1975, miền Bắc nước ta đã
có 20 năm cải tạo và từng bước đặt cơ sở cho xã hội mới.Trong khi đó miền
Nam quan hệ phong kiến cơ bản được giải quyết, việc điều chỉnh ruộng đất ở
nông thôn được hoàn thiện thêm.
Sau 30 năm thực hiện nhiệm vụ dân tộc, từ sau năm 1975 nước ta thực sự
bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.Đây là thời kỳ chuyển từ cách
mạng dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhìn lại chặng đường

10
C.Mác và Ph.ăngghen: Sđd, 1995, t1, tr.567
11
đi theo chủ nghĩa xã hội, có thể thấy đây là một tất yếu lịch sử đem lại sự mới
mẻ và triệt để trong quan niệm và giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc,
chỉ có thể gắn liền con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hay
nói cách khác là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công
nhân.Đây là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta
và cách mạng Việt Nam.Tính chất mới mẻ và triệt để được thể hiện trong nội
dung cơ bản sau:
- Độc lập dân tộc phải đảm bảo cho dân tộc có quyền tự quyết trong lựa
chọn chính trị, con đường và mô hình phát triển.Mỗi quốc gia dân tộc độc
lập đồng thời độc lập về chính trị và kinh tế, văn hoá bản sắc dân tộc.
- Độc lập dân tộc đòi hỏi xoá bỏ tình trạng áp bức, nô dịch của dân tộc này
với dân tộc khác.Độc lập gắn với tự do và bình đẳng, đảm bảo chủ quyền
cho dân tộc trong quan hệ quốc tế.Quốc gia tự chủ, có sự thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ, công việc nội bộ do quốc gia đó tự giải quyết không có sự
can thiệp từ bên ngoài.
- Giữa các nước trao đổi hoà bình hợp tác theo nguyên tắc đôi bên cùng có
lợi tôn trọng nhau, và vì một thế giới hào bình không có chiến tranh,
những hành vi tàn bào, tội ác..
Thực tiễn cách mạng ta đã khẳng định đường lối Đảng vạch ra và thực hiện
là đúng đắn đó là giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp
công nhân, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô
sản.Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội .Đây là con đường phát triển
duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam.Lựa chọn này phù hợp với quy luật
khách quan và xu thế phát triển của lịch sử xã hội.Chủ nghĩa xã hội là đảm bảo
chắc chắn và bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
Phần 3.Quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những quan điểm tổng quát của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

12

×