Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.68 KB, 183 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế nhiều thành phần được quản lý theo cơ chế thị
trường, các nhà kinh doanh có nhiều mối quan hệ kinh tế, thương mại với
nhau. Khi thực hiện các mối quan hệ đó, các nhà kinh doanh thường hợp
tác chặt chẽ, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Tuy vậy, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, giữa
các nhà kinh doanh cũng có khi phát sinh mâu thuẫn về quyền lợi và tranh
chấp về kinh tế, thương mại. Nhà nước, xã hội, nhất là các doanh nghiệp
luôn luôn có một đòi hỏi bức xúc là những tranh chấp kinh tế này phải
được giải quyết một cách nhanh gọn, có hiệu quả và ít tốn kém.
Xuất phát từ thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại, như: thương lượng, hòa giải, giải quyết
theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải
quyết tranh chấp theo phương thức hòa giải (hòa giải ngoài tố tụng cũng
như hòa giải trong tố tụng) có nhiều ưu điểm và được áp dụng phổ biến trên
thế giới.
Ở Việt Nam, chế định hòa giải đã được quy định trong Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Giải quyết các tranh chấp lao
động năm 1996, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996. Chế định hòa giải trong tố tụng kinh tế ra đời có một ý nghĩa rất quan
trọng. Nó đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử hình thành
và tồn tại của chế định hòa giải trong tố tụng tư pháp nói chung.
Chế định hòa giải có ý nghĩa nhiều mặt, vì nó không những góp
phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đang có
1
tranh chấp kinh tế, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
tranh chấp, mà còn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
Hòa giải thành có tác dụng làm cho các bên tranh chấp tự nguyện,
tự giác thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của họ, tránh việc phải


sử dụng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước trong quá trình thi hành
án. Đồng thời, vụ việc tranh chấp cũng không phải xử đi xử lại nhiều lần,
giảm bớt tốn kém về nhiều mặt của các bên.
Kết quả của việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật giải
quyết tranh chấp kinh tế cho thấy hầu hết các Tòa Kinh tế, từ khi được
thành lập đến nay, đã đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Tòa án ở các
địa phương đã vận dụng rộng rãi phương thức hòa giải trong giải quyết các
tranh chấp kinh tế, giảm đáng kể số vụ tranh chấp phải đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, trong quá trình hòa giải tranh chấp kinh tế, Tòa án ở một
số địa phương còn mắc phải những sai sót đáng tiếc về nội dung và hình thức
hòa giải. Do đó, một số quyết định công nhận hòa giải thành của một số Tòa
án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị và bị sửa đổi hoặc bị
hủy. Điều đó ảnh hưởng xấu đến việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự cũng như làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý
luận cũng như thực tiễn chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh
tế tại Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các tranh
chấp kinh tế, thương mại không những mang tính thời sự đối với ngành
Tòa án mà còn đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế - xã
hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng của Tòa án ở Việt
Nam.
2
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang soạn thảo Dự thảo
Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) dùng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố
tụng lao động, tố tụng hôn nhân và gia đình.
Tuy có nhiều quy định cụ thể và đầy đủ hơn những quy định hiện
hành về tố tụng dân sự, kinh tế và lao động... nhưng các quy định của Dự
thảo Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng vẫn còn có những quy định chồng chéo,
chưa đầy đủ và chưa cụ thể, cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện thêm trước khi trình Quốc hội thông qua.

Tác giả luận án đã nghiên cứu kỹ các quy định của Dự thảo Bộ luật
Tố tụng Dân sự và trong luận án đã mạnh dạn nêu ra một số đánh giá, nhận
xét về bản Dự thảo và đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện bản Dự thảo Bộ luật tố tụng Dân sự này.
Trên cơ sở những điều vừa trình bày ở trên, nghiên cứu sinh đã
chọn vấn đề "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở
Việt Nam" để làm đề tài luận án Tiến sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuy hòa giải là một chế định quan trọng trong thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế tại Tòa án, nhưng từ trước đến nay, khoa học pháp lý ở Việt
Nam còn có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này.
Một số công trình nghiên cứu có đề cập chế định hòa giải trong giải
quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án là: Giáo trình Luật Kinh tế (2000) của
Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam (2001) của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài "Các phương pháp giải quyết
tranh chấp kinh tế ở Việt Nam" thuộc Dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp;
Luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội (1996) về đề tài "Giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng Tòa án"; Luận văn thạc sĩ của Trương Kim Oanh nghiên cứu
3
về hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam. Bản thân tác giả luận án cũng đã
hoàn thành luận văn cao học luật của mình với đề tài "Hòa giải trong giải
quyết tranh chấp kinh tế" năm 1997.
Tuy vậy, tất cả những công trình nêu trên chủ yếu tiếp cận chế định
hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án từ góc độ luật thực
định nên chưa nghiên cứu chế định này một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ
thống. Các công trình đó cũng chưa có những đề xuất, kiến nghị một cách
tổng thể, đầy đủ và cụ thể về việc hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp
luật tố tụng kinh tế ở Việt Nam.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có sự nghiên cứu chế định hòa giải
trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án một cách toàn

diện, đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu
quả của việc hòa giải, tránh để xảy ra những sai lầm, thiếu sót trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại tại Tòa án và làm phong phú
thêm lý luận về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là thông qua việc nghiên cứu,
phân tích một cách có hệ thống các quy định về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh tế cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại Tòa án,
làm rõ bản chất của thủ tục hòa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp
kinh tế, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế ở nước
ta.
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giải quyết các tranh chấp kinh
tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án.
4
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải
trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa
giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế.
- Nhận xét, đánh giá và nêu phương hướng cũng như một số biện
pháp cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật
Việt Nam về hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và việc
áp dụng các quy định này tại Tòa án nước ta.
Luận án có đề cập việc hòa giải có hòa giải viên (tức là hòa giải
ngoài tố tụng) và hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ
tục trọng tài, nhưng không đi sâu vào vấn đề này.

Luận án cũng có đề cập việc hòa giải theo thủ tục trọng tài và theo
thủ tục tư pháp ở một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là để đối chiếu, so
sánh khi cần thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận án sử dụng phương pháp
luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả luận
án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, chứng
minh, tổng hợp, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn,
phương pháp lịch sử đã được tác giả sử dụng để làm rõ quá trình hình thành
và phát triển của chế định hòa giải trong pháp luật nước ta; phương pháp
mô hình hóa cũng được tác giả luận án sử dụng để trình bày cơ chế giải
quyết các tranh chấp kinh tế bằng thủ tục hòa giải.
5
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể nói, luận án này là công trình khoa học pháp lý ở cấp độ
tiến sĩ đầu tiên ở nước ta nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ
thống về chế định hòa giải trong thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế tại
Tòa án.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án là:
- Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp
kinh tế bằng phương thức hòa giải tại Tòa án ở Việt Nam.
- Làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục hòa giải và hiệu lực của
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại Tòa án.
- Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp
luật nước ta về hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Luận án này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp kinh tế tại Tòa án
cũng như trong việc giảng dạy, nghiên cứu về chế định hòa giải các tranh
chấp kinh tế theo thủ tục tư pháp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 3 chương, 16 mục.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH TẾ
Khái niệm "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án"
là một khái niệm phức hợp, đa tầng. Bản thân khái niệm bao gồm trong
mình nhiều yếu tố cấu thành, mà mỗi yếu tố đó tự mình đã là một thuật ngữ
độc lập có bản chất pháp lý riêng biệt và khi tích hợp chúng vào trong một
khái niệm thì mối liên kết giữa các yếu tố (thuật ngữ cấu thành đó) lại tạo
nên một bản chất pháp lý mới của hiện tượng. Trong các từ điển pháp luật,
từ điển kinh tế cũng như trong sách báo khoa học pháp lý, bao gồm cả các
giáo trình luật chuyên ngành, theo tác giả luận án, cho đến nay đều chưa có
sự giải thích chính thức, đầy đủ, thỏa đáng về khái niệm này.
Để đi đến sự nhận diện đầy đủ về khái niệm "Hòa giải trong giải
quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án", trước tiên cần làm rõ nội hàm của từng
yếu tố cấu thành. Đó là: Tranh chấp kinh tế, giải quyết tranh chấp kinh tế,
hòa giải tranh chấp kinh tế, giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án và cuối
cùng là sự tích hợp thành một khái niệm chung "hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh tế tại Tòa án".
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế
Tranh chấp, theo Từ điển Tiếng Việt (1992), là sự tranh đấu, giằng
co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên.
Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp được hiểu là những xung đột, bất đồng về
quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
7

pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các quan hệ pháp luật, có thể phân loại
tranh chấp thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động...
Tranh chấp kinh tế là một khái niệm kinh tế - pháp lý. Hiểu một cách
khái quát, đó là những bất đồng về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường,
với sự cạnh tranh của các chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau,
thì các xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể là điều khó tránh khỏi. Phụ
thuộc vào các đặc trưng của từng chủ thể kinh tế ở từng giai đoạn phát triển
mà nội hàm, phạm vi của khái niệm tranh chấp kinh tế cũng rất khác nhau.
Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều không sử
dụng khái niệm "tranh chấp kinh tế" mà thường dùng khái niệm "tranh chấp
kinh doanh" để chỉ những tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong quan
hệ kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Tại các nước này, đặc biệt là các nước
theo truyền thống thông luật, không có sự phân biệt "tranh chấp kinh doanh"
với "tranh chấp dân sự". Nhưng ở một số nước theo truyền thống luật Châu
Âu lục địa có Bộ luật thương mại riêng (như Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng
hòa Pháp) thì có sự phân biệt "tranh chấp thương mại" (theo nghĩa là tranh
chấp phát sinh từ quan hệ giữa các thương gia) và "tranh chấp dân sự".
Tuy nhiên, cần lưu ý một điểm nhỏ để tránh sự lẫn lộn trong khi dùng
các thuật ngữ: Ở phần lớn các nước này, "tranh chấp kinh doanh" được
hiểu và sử dụng phù hợp với khái niệm "thương mại" theo nghĩa rộng do
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hay Luật mẫu UNCITRAL về Trọng
tài Thương mại đưa ra. "Thương mại" theo nghĩa này bao gồm tất cả các
quan hệ giao dịch mang bản chất thương mại, như: cung cấp hàng hóa, dịch
vụ, thỏa thuận về đại diện thương mại, hóa đơn, chứng từ, các dịch vụ tư
vấn, đề án thiết kế, giấy phép đầu tư, giao dịch ngân hàng, bảo hiểm; vận
chuyển hàng hóa hay hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt
hay đường bộ...
8
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa (trước đây), trong đó có Việt Nam, theo

trường phái Liên Xô (cũ) coi luật kinh tế là một ngành luật độc lập, có đối
tượng điều chỉnh riêng. Một trong những chế định của ngành luật này là
hợp đồng kinh tế.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bản thân khái niệm
"hợp đồng kinh tế" được hiểu theo nghĩa khá hẹp và cứng nhắc. Đó là những
hợp đồng được ký kết theo chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước giao cho các
chủ thể kinh tế (chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh) và được thực hiện
dưới sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ, định kỳ của Nhà nước.
"Tranh chấp hợp đồng kinh tế" là tranh chấp phát sinh giữa các chủ
thể trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Việc giải quyết tranh
chấp kinh tế được thực hiện bởi Trọng tài kinh tế nhà nước - một mô hình
cơ quan hành chính - tài phán nhà nước khá điển hình ở các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây.
"Tranh chấp hợp đồng kinh tế" lẽ tất nhiên chỉ là một bộ phận của
khái niệm rộng hơn là tranh chấp kinh tế. Theo lôgic hình thức, thì "tranh
chấp kinh tế" phải được hiểu là tất cả các tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ xã hội do pháp luật kinh tế điều chỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, bản thân quan niệm về luật kinh tế
và đối tượng điều chỉnh của nó là các quan hệ pháp luật kinh tế đang đứng
trước những thách thức lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Bên cạnh những
quan hệ hợp đồng rất đa dạng đã xuất hiện ngày càng nhiều mối quan hệ
tài sản khác giữa các chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế liên quan đến
việc đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các quan hệ này
được xây dựng không phải theo mệnh lệnh, chỉ tiêu của Nhà nước, mà
theo các quy luật khách quan của thị trường, trên cơ sở quyền tự do kinh
9
doanh, bình đẳng và cộng đồng lợi ích, cộng đồng trách nhiệm của các
chủ thể.
Trước những thay đổi sâu sắc đó, cho đến nay, khó có thể tìm được
trong luật thực định cũng như trong các tài liệu, sách báo khoa học pháp lý

của Việt Nam một định nghĩa, một sự lý giải nào thỏa đáng, đầy đủ, rõ ràng
về pháp luật kinh tế và từ đó là về "tranh chấp kinh tế".
Để khắc phục khoảng trống lý luận này, một số nhà nghiên cứu đã
tiếp cận tới khái niệm "tranh chấp kinh tế" bằng luật thực định, hoặc là luật
nội dung hoặc là luật tố tụng [3, tr. 5].
Phù hợp với mục đích và phạm vi đề tài luận án, tác giả luận án lựa
chọn cách xem xét khái niệm "tranh chấp kinh tế" từ góc độ pháp luật tố
tụng thực định của Việt Nam, bao gồm cả tố tụng tư pháp kinh tế và tố tụng
trọng tài kinh tế. Bằng phương pháp liệt kê, theo Điều 12 Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) có thể thấy các tranh chấp (vụ án)
kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Kinh tế bao gồm:
1- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp
nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
2- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể công ty;
3- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
4- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Cũng tương tự như vậy, các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của Trọng tài Kinh tế theo Nghị định 116/CP (1994) bao gồm:
1) Các tranh chấp hợp đồng kinh tế;
10
2) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu
(Pháp lệnh Trọng tài Thương mại ngày 25/02/2003 quy định Trọng tài thương
mại có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại theo sự thỏa thuận của các bên (Điều 1). Hoạt động thương mại
theo Pháp lệnh này là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của
cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện. đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua;

xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm;
thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng
không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác
theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 2)).
Riêng phạm vi các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn rất nhiều. Theo Quyết định số
204/TTg ngày 16-2-1996, các tranh chấp đó bao gồm:
1- Các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế được liệt
kê trong Điều lệ và Quy tắc tố tụng của Trung tâm (hợp đồng mua bán
ngoại thương, hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế,
chuyển giao công nghệ và thanh toán quốc tế...) với ít nhất một bên là pháp
nhân hoặc cá nhân nước ngoài;
2- Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh doanh trong nước, mà
kinh doanh, nếu được hiểu theo nghĩa rộng như trong Luật Công ty (Điều
3) bao gồm "một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi".
11
Đồng thời, từ khi Luật Thương mại có hiệu lực (1-1-1998) thì trong
luật thực định của Việt Nam còn có thêm khái niệm "tranh chấp thương mại".
Đó là các tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng
thương mại. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu [15, tr. 5] thì hợp đồng
thương mại là một bộ phận của hợp đồng kinh tế, nếu đáp ứng các điều
kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng. Trong các trường hợp đó,
"tranh chấp thương mại" cũng sẽ là một dạng của "tranh chấp kinh tế".
Mặc dù cách tiếp cận theo pháp luật tố tụng chưa bao quát được hết
tất cả các loại "tranh chấp kinh tế" phát sinh trong thực tiễn hoạt động kinh
tế, nhưng từ những liệt kê trên, có thể rút ra một số nét đặc trưng của "tranh
chấp kinh tế" như sau:

1- Chủ thể của tranh chấp kinh tế (cũng là chủ thể của các hoạt động
kinh tế) là những tổ chức, cá nhân được Nhà nước công nhận có quyền và
có đủ điều kiện kinh doanh tại Việt Nam. Các chủ thể này có các quyền và
nghĩa vụ cụ thể trong khi họ tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong đó,
quyền nổi trội, đặc thù phù hợp với nhu cầu của kinh tế thị trường là quyền
bình đẳng và quyền tự định đoạt: tự định đoạt phương án, hình thức, quy
mô và cách thức kinh doanh cũng như phương thức giải quyết các tranh
chấp phát sinh sao cho không trái với quy định của pháp luật để đạt được
các mục đích kinh doanh (lợi nhuận và phi lợi nhuận).
2- Khách thể của tranh chấp kinh tế là các quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong quan hệ kinh doanh. Đối tượng của "tranh chấp kinh tế"
thường là những lợi ích kinh tế mà trực tiếp hơn là những yếu tố tài sản có
giá trị lớn. Những xung đột lợi ích kinh tế, những thua thiệt hay khả năng thua
thiệt với giá trị lớn, thậm chí là rất lớn ảnh hưởng đến sự sống còn trên thị
trường của các chủ thể và kéo theo đó là lợi ích của nhiều đối tượng liên quan,
đòi hỏi bản thân họ phải cân nhắc kỹ những được, mất, thiệt hơn khi lựa chọn,
12
quyết định những phương án tối ưu để giải quyết các xung đột, tranh chấp
kinh tế. Điều đó đồng thời cũng đặt ra với Nhà nước đòi hỏi về việc tạo lập
một khuôn khổ pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế thông thoáng, phù
hợp với sự phát triển của thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam và tập quán
thương mại quốc tế, để các chủ thể có được các công cụ mang tính định
hướng tin cậy cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời, hiệu
quả.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh tế
Giải quyết tranh chấp, theo Từ điển tiếng Việt (1992), có nghĩa là
làm cho các xung đột, bất đồng không còn thành vấn đề nữa. Thông
thường, khi xảy ra tranh chấp, các chủ thể có thể lựa chọn, sử dụng một
hoặc một số phương thức phù hợp để giải quyết tranh chấp của mình. Xét
từ góc độ các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp, có thể khái quát thành

ba nhóm:
a) Đơn phương giải quyết tranh chấp bằng cách tránh xung đột hoặc
trực tiếp hành động chống trả đối phương;
b) Song phương giải quyết tranh chấp: Hai bên có tranh chấp trực
tiếp gặp nhau để thương lượng, đàm phán;
c) Nhờ người thứ ba giúp đỡ giải quyết tranh chấp (trung gian hòa
giải, Trọng tài, cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án). Như vậy, trong các
phương thức giải quyết tranh chấp thuộc nhóm này, ngoài các bên tranh
chấp còn có sự hiện diện của người thứ ba với vai trò và mức độ tham gia
khác nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Mỗi phương thức đều có những đặc trưng riêng, được thực hiện thông
qua các nguyên tắc, hình thức và thủ tục riêng, tạo nên những ưu điểm và hạn
chế của mình. Việc lựa chọn phương pháp thích hợp cần được cân nhắc dựa
trên hàng loạt vấn đề: mục tiêu cụ thể cần đạt được, bản chất của tranh chấp,
13
mối quan hệ kinh doanh giữa các bên, chi phí, thời gian cần bỏ ra để giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, tất cả các phương thức giải quyết tranh chấp đều có
chung mục đích là bằng việc loại bỏ các bất đồng, xung đột phát sinh để khôi
phục, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đã bị xâm phạm, để
duy trì và phát triển các quan hệ kinh doanh vốn có giữa các bên, để góp phần
tạo lập và ổn định môi trường pháp luật lành mạnh cho các hoạt động kinh tế.
Do những đặc trưng của tranh chấp kinh tế như đã phân tích ở trên,
nên các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế đều phải đáp ứng các
yêu cầu sau:
a) Đảm bảo quyền bình đẳng và quyền tự định đoạt của các bên có
tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật;
b) Việc giải quyết tranh chấp phải kịp thời, triệt để và phù hợp pháp
luật để các bên có tranh chấp có thể nhanh chóng tiếp tục hoạt động, sản
xuất, kinh doanh bình thường;
c) Giữ gìn được bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ cũng như uy

tín trên thương trường của các bên có tranh chấp; phục hồi và giữ gìn các
mối quan hệ hợp tác, tin tưởng vốn có giữa các bên;
d) Đảm bảo hiệu lực thi hành của kết quả giải quyết tranh chấp với
chi phí công sức, thời gian, vật chất, tài chính ở mức hợp lý nhất.
Trên thực tế, các bên có tranh chấp kinh tế không chỉ dùng một phương
thức mà thường dùng kết hợp một vài phương thức để giải quyết tranh
chấp. Việc kết hợp này phải đáp ứng yêu cầu là vẫn giữ được những
nguyên tắc đặc thù của mỗi phương thức, đồng thời nâng cao hiệu quả
chung, bảo đảm tác dụng cuối cùng của quá trình giải quyết tranh chấp.
Có thể khái quát hóa các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế,
thương mại trong thực tế hiện nay theo mô hình sau:
Quan hệ kinh doanh,
14
NHÀ
KINH DOANH
NHÀ
KINH DOANH
thương mại

Theo kết quả điều tra của Sở Tư pháp Hà Nội tại 300 doanh nghiệp
trên địa bàn thành phố (bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty, doanh
nghiệp tư nhân, Hợp tác xã...) thì quan điểm của các nhà kinh doanh về
phương thức giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại như sau [34, tr.
12-13]:
- 72,5% cho rằng nên tự hòa giải;
- 65,8% cho rằng nên hòa giải thông qua Trọng tài;
- 33,3% cho rằng nên kiện ra Tòa.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận án sẽ tiếp tục làm rõ hai
phương thức là hòa giải tranh chấp kinh tế và giải quyết tranh chấp kinh tế
theo thủ tục tư pháp (tại Tòa án) trước khi đi đến những phân tích sâu hơn

về sự kết hợp giữa hai phương thức này trong cùng một quá trình giải quyết
tranh chấp.
1.1.3. Hòa giải - Hòa giải tranh chấp kinh tế
Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, được Nhà xuất bản Khoa
học xã hội xuất bản năm 1977 giải thích: "Hòa giải là dàn xếp nhằm chấm
dứt một cuộc xung đột" [53, tr. 384].
15
TRANH CHẤP
KINH TẾ,
THƯƠNG MẠI
THỦ TỤC
TRỌNG TÀI
(Bên thứ ba là
Trọng tài viên)
HÒA GIẢI
(Bên thứ ba là
Hòa giải viên)
THƯƠNG
LƯỢNG, ĐÀM
PHÁN
(song phương)
THỦ TỤC TƯ
PHÁP
(Bên thứ ba
là Tòa án)
Theo Từ điển Tiếng Việt do Trung tâm Ngôn ngữ học trực thuộc
Viện Khoa học xã hội biên soạn (1992), "Hòa giải là việc thuyết phục các bên
đồng ý chấm dứt xung đột hay xích mích một cách ổn thỏa" [52, tr. 350].
Theo Từ điển Luật học Anh - Mỹ của Black, "hòa giải là một quá
trình giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, Hòa giải viên

là người thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa
thuận" [54, tr. 250].
Theo Từ điển Luật học của Cộng hòa Pháp, "hòa giải là phương
thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung gian thứ ba (hòa giải
viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết một cách thân thiện" [58, tr.
378].
Cụ thể hơn, đối với tranh chấp kinh tế, Từ điển Kinh tế của Vương
quốc Anh (Longman Dictionary of Business English) tại trang 341 giải thích:
"Nếu người thứ ba được hai bên lựa chọn để giúp họ giải quyết tranh chấp
kinh doanh mà có quyền buộc hai bên phải tuân theo quyết định của mình
thì người đó là Trọng tài viên. Nếu người thứ ba chỉ có quyền đề xuất cách
giải quyết để hai bên tự nguyện quyết định, thì người đó là Hòa giải viên".
Các cách giải thích thuật ngữ này tuy có một vài điểm khác biệt nhỏ
nhưng qua đó đều có thể rút ra một số yếu tố cơ bản của hòa giải như sau:
a) Là một phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên với sự
hiện diện của bên thứ ba trung gian do các bên lựa chọn;
b) Vai trò của bên thứ ba trung gian là giúp đỡ, hỗ trợ các bên tranh
chấp bằng cách đưa ra các đề nghị, phương án giải quyết tranh chấp để các
bên lựa chọn, thỏa thuận tự quyết định;
16
c) Tính chất của hòa giải là quá trình giải quyết tranh chấp một cách
tự nguyện trên cơ sở tự định đoạt của các bên nhằm mục đích dàn xếp ổn
thỏa, thân thiện về tranh chấp đã xảy ra giữa họ.
Hòa giải, với tính chất là phương tiện giải quyết các tranh chấp một
cách thân thiện do các bên tự nguyện lựa chọn đã tồn tại từ lâu đời, đặc biệt
là ở các nước chịu sự ảnh hưởng của đạo Nho (Trung Quốc, Nhật Bản, Việt
Nam...), đạo Hồi (Malaysia, Indonexia..), ở các xã hội theo truyền thống tự
quản làng xã (dân chủ phân tán) như Ấn Độ, Philippin. v.v.. Ngay cả khi
thiết chế chính thức của Nhà nước để giải quyết tranh chấp là Tòa án đã
được thiết lập, hòa giải vẫn được duy trì và tồn tại song song với tính cách

là một phương pháp truyền thống để giải quyết tranh chấp trong nhân dân,
góp phần ổn định trật tự và giữ gìn sự hòa hợp trong xã hội.
Nhận thức được những ưu điểm và sức sống lâu đời của hòa giải,
nhiều nhà nước hiện đại đã có những biện pháp tích cực nhằm khuyến
khích việc sử dụng hòa giải bằng cách "tổ chức hóa" và "pháp luật hóa"
hoạt động hòa giải đã tồn tại từ xa xưa trong xã hội sao cho phù hợp, có
hiệu quả hơn, phổ biến hơn trong điều kiện mới. Cụ thể là nhà nước công
nhận về mặt pháp lý vị trí, vai trò của hòa giải bằng các quy định trong hiến
pháp (Trung Quốc, Việt Nam...), trong các đạo luật nội dung (Luật Dân sự,
Luật Lao động...) hoặc trong luật tố tụng liên quan đến giải quyết các loại
tranh chấp khác nhau (Luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài...). Đồng thời,
Nhà nước thiết lập hoặc công nhận bằng pháp luật các thiết chế, tổ chức thực
hiện hoạt động hòa giải. Ví dụ Luật Công lý có hiệu lực từ ngày 11-12-1978
đã tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống hòa giải bắt buộc ở cấp làng, xã (barangay)
của Philippines; "Quy định về tổ chức Hội đồng hòa giải nhân dân" (1989)
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tạo ra khung pháp lý cho hoạt
động của mạng lưới hòa giải lớn nhất thế giới với 950.000 Hội đồng hòa
giải nhân dân gồm 6 triệu Hòa giải viên, hàng năm hòa giải gần 7 triệu vụ
17
tranh chấp. Pháp lệnh về hòa giải (1998) của Việt Nam điều chỉnh tổ chức
và hoạt động của hơn 40.000 tổ hòa giải với gần 80 vạn Hòa giải viên đang
góp phần rất quan trọng và hiệu quả giải quyết các tranh chấp, vi phạm pháp
luật nhỏ ở khắp các thôn xóm, làng, bản, khu dân cư [10, tr. 174]
Bằng các cách tác động mang tính tổ chức và pháp lý như trên, các
Nhà nước đã khẳng định và nâng cao vai trò phòng ngừa và giải quyết
tranh chấp của hòa giải, biến hòa giải thành một dịch vụ có tính hệ thống,
tổ chức, phổ biến để giải quyết tranh chấp, góp phần duy trì và tăng cường
sự hiểu biết và thân thiện trong các quan hệ xã hội; giảm bớt gánh nặng xét
xử của Tòa án, qua đó góp phần nâng cao chất lượng công lý và quản lý
hành chính tư pháp nói chung.

Riêng trong lĩnh vực kinh tế, chính tính chất tự nguyện và sự tôn
trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong quá trình hòa
giải làm cho hòa giải trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp kinh
tế độc lập, được các nhà kinh doanh ưa chuộng, được sử dụng một cách
phổ biến và hiệu quả trong thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế ở các
nước và trong khuôn khổ của các tổ chức kinh tế quốc tế khu vực và thế
giới. Tại nhiều nước đã hình thành các Trung tâm trọng tài/ hòa giải tranh
chấp thương mại (Trung tâm hòa giải Bắc Kinh...).
Nhằm giúp các bên tranh chấp có điều kiện tham khảo, lựa chọn các
quy trình hòa giải hữu hiệu và tăng cường sử dụng các dịch vụ hòa giải, các
Trung tâm Trọng tài/ hòa giải quốc gia và quốc tế đã ban hành các Quy tắc
hòa giải hay các bản hướng dẫn quy trình hòa giải mẫu, như "Quy tắc hòa
giải không bắt buộc" (sửa đổi, bổ sung từ 1-1-1988) của Phòng Thương
mại quốc tế (ICC) tại London; Quy tắc hòa giải của UNCITRAL ban hành
năm 1980 gồm 20 điều đã được nhiều nước tham khảo hoặc thông qua
thành Quy tắc hòa giải của các tổ chức hòa giải trong nước.
18
1.1.4. Giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án theo thủ tục tư pháp
Giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án là phương thức giải quyết
tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba là Tòa án - cơ quan đại diện cho
quyền lực nhà nước (quyền tư pháp). Khi tranh chấp phát sinh, các bên, đặc
biệt là bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm có thể đưa đơn kiện đến Tòa án
để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc Tòa án có chấp nhận đơn kiện của các bên có tranh chấp hay
không, việc Tòa án giải quyết tranh chấp đó theo hình thức, trình tự, thủ tục
nào đều do pháp luật tố tụng quy định và bản thân Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, các bên tranh chấp hay những người khác có liên quan đến vụ kiện
đều phải tuân thủ theo các quy định đó. Các quyết định, bản án do Tòa án
tuyên tại mỗi giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp đều có thể được
bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước phù hợp với quy

định của pháp luật tố tụng và pháp luật về thi hành án.
Như vậy, vai trò của bên thứ ba (Tòa án) không chỉ dừng lại ở việc
tư vấn, đề xuất phương án giải quyết tranh chấp như Hòa giải viên, mà
pháp luật còn giao cho Tòa án quyền quyết định cuối cùng đối với vụ kiện,
nếu như các bên tranh chấp không tự thỏa thuận được, cũng như quyền
quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm điều kiện thi hành
án.
Các quyết định của Tòa án phải bảo đảm tính công bằng, công khai,
chính xác, khách quan, đúng người, đúng việc, đúng pháp luật. Vì vậy, hoàn
toàn có thể chia sẻ quan điểm cho rằng việc giải quyết tranh chấp kinh tế
theo thủ tục tư pháp là "phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt
động của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa
ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước" [30, tr. 32].
19
1.1.5. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án
Từ phân tích ở trên có thể thấy hòa giải và tố tụng tư pháp tại Tòa
án đều là các phương thức độc lập mà các chủ thể kinh tế có thể lựa chọn
để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ.
Nhưng khi nói đến hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án
tức là đã đề cập đến việc sử dụng kết hợp cả hai phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, trong đó phương thức "nền" là tố tụng tư pháp, còn hòa
giải được "tích hợp" vào quá trình tố tụng tư pháp.
Việc sử dụng kết hợp các phương thức giải quyết tranh chấp khác
nhau là một hiện tượng bình thường, xảy ra khá phổ biến, xuất phát từ
chính nhu cầu khách quan của các bên có tranh chấp là phải tìm được mọi
cách thích hợp để giải quyết nhanh gọn, dứt điểm có hiệu quả các xung đột,
vướng mắc đang cản trở, gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của họ,
xâm phạm đến quyền và lợi ích kinh tế thiết thân của họ.
Thông thường, khi bắt đầu xảy ra tranh chấp, các nhà kinh doanh sẽ

cố gắng trực tiếp gặp nhau để dàn xếp, đàm phán, thương lượng. Nếu
không có kết quả, họ sẽ tìm đến một bên hoặc các bên thứ ba có thể giúp họ
giải quyết tranh chấp. Điều này cũng giống như người có bệnh, lúc đầu
thường tự điều trị tại nhà bằng "Tủ thuốc gia đình" theo hiểu biết và kinh
nghiệm của riêng mình. Nếu không khỏi mới đi tìm thày, tìm thuốc. Người
thày mà họ tìm đến trước tiên thường là người không quá xa lạ mà họ đã có
sự tin cậy nhất định về năng lực và y đức.
Tương tự như vậy, các Hòa giải viên (những người có hiểu biết về
kinh doanh, luật pháp, có uy tín trong giới kinh doanh) thường được các
bên thỏa thuận lựa chọn để giúp họ tìm ra cách giải quyết tranh chấp một
cách ổn thỏa, hợp lý, để các bên tự quyết trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện,
cùng có lợi, mà không phải đến "cửa quan".
20
Nếu hòa giải không thành công, các bên buộc sẽ phải sử dụng đến
những phương thức có tính chính thức hơn, hành chính hơn, mà ở đó,
quyền quyết định sự việc đã thuộc về bên thứ ba (Trọng tài, Tòa án) và các
bên phải chấp nhận, thi hành quyết định đó, dù có hài lòng hay không.
Xuất phát từ góc độ của người thứ ba, tuy được các bên trao quyền
quyết định vụ việc, nhưng các cơ quan Trọng tài và Tòa án luôn ý thức
được rằng kết quả giải quyết tranh chấp sẽ chỉ được các bên chấp nhận một
cách "tâm phục, khẩu phục" và thi hành nghiêm chỉnh, triệt để nếu như các
bên tranh chấp cùng tham gia một cách tích cực với hiểu biết, nhận thức
đầy đủ, rõ ràng về những lợi ích và thiệt hại kinh tế liên quan đến cách thức
thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi bên trong quá trình tố tụng.
Chính vì vậy, trong quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế theo tố
tụng trọng tài hoặc tố tụng tư pháp, bên thứ ba (Trọng tài, Tòa án) luôn chủ
động dành cơ hội để các bên tranh chấp tiếp tục thương lượng, đàm phán
với nhau. Các bên sẽ có điều kiện để cân nhắc thấu đáo những hướng dẫn,
tư vấn của Trọng tài viên, Thẩm phán về những điểm mạnh, điểm yếu liên
quan đến vị thế pháp lý của mỗi bên, về những hậu quả pháp lý, kinh tế mà

mỗi bên phải gánh chịu khi Trọng tài ra phán quyết hay Tòa tuyên bản án
và cưỡng chế thi hành theo luật.
Trên cơ sở của những cân nhắc đó, với nhận thức mới rõ ràng hơn
về vụ việc, tại các thời điểm khác nhau của quá trình tố tụng, các bên tranh
chấp vẫn luôn được dành quyền chủ động thỏa thuận về phương án giải
quyết hợp tình, hợp lý. Nếu các thỏa thuận đó không trái pháp luật thì ý chí
của họ sẽ được bên thứ ba tôn trọng (Trọng tài, Tòa án) công nhận thỏa
thuận của các bên tranh chấp và bảo đảm hiệu lực pháp lý cho thỏa thuận
đó dưới hình thức quyết định, bản án của chính Trọng tài, Tòa án. Cách
thức giải quyết tranh chấp này được gọi là hòa giải trong giải quyết tranh
21
chấp kinh tế tại Trọng tài, Tòa án; hay gọi ngắn gọn hơn là hòa giải trong tố
tụng để phân biệt với hòa giải độc lập (hòa giải ngoài tố tụng).
Như vậy, có thể hiểu hòa giải trong giải quyết tranh chấp tại Tòa
án là cách thức tích hợp hòa giải vào tố tụng tư pháp với vai trò của Tòa
án là người trung gian thứ ba giúp đề xuất các cách giải quyết thân thiện
để hai bên tự thỏa thuận, đồng thời công nhận giá trị pháp lý và bảo đảm
thi hành bằng sức mạnh của Nhà nước kết quả thỏa thuận của các bên.
1.2. BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN
Với khái niệm nêu trên, có thể thấy hòa giải trong giải quyết tranh
chấp kinh tế tại Tòa án là một giai đoạn đặc thù của tố tụng kinh tế với bản
chất pháp lý mới khác biệt với bản chất của cả hai phương thức hòa giải và
tố tụng tư pháp khi chúng được sử dụng độc lập.
Như đã phân tích ở mục 1.1.3., hòa giải là phương thức giải quyết
tranh chấp mang tính chất riêng tư dựa trên sự tự nguyện, thỏa thuận, tự
định đoạt của các bên tranh chấp. Tính chất riêng tư, tự định đoạt thể hiện ở
các điểm sau:
a) Các bên hoàn toàn tự nguyện lựa chọn phương thức hòa giải để
giải quyết tranh chấp phát sinh; tự do thỏa thuận về Hòa giải viên, về thời

gian, địa điểm, thủ tục hòa giải sao cho phù hợp, thuận lợi nhất với điều
kiện của hai bên; tự nguyện thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp
trên cơ sở các đề xuất của Hòa giải viên; tự nguyện thi hành kết quả thỏa
thuận đã đạt được giữa các bên.
b) Hòa giải viên được các bên lựa chọn tham gia quá trình hòa giải
chỉ được hành động trong phạm vi "thẩm quyền" do các bên giao phó: Chỉ
là người trung gian hỗ trợ cho việc tiếp xúc, đàm phán giữa các bên và là
người tư vấn, đề xuất các phương án, các khả năng giải quyết khác nhau để
22
các bên cân nhắc, lựa chọn và quyết định. Có thể nói đây là loại thẩm
quyền tư theo hợp đồng thỏa thuận riêng giữa các bên tranh chấp và Hòa
giải viên.
c) Kết quả thỏa thuận đạt được sau quá trình hòa giải cũng như việc
thi hành các thỏa thuận đó cũng đều chỉ có hiệu lực ràng buộc như một bản
hợp đồng riêng giữa các bên tranh chấp.
Trong khi đó, theo mục 1.1.4, giải quyết tranh chấp tại Tòa án là
phương thức tố tụng mang tính chất quyền lực công (quyền tư pháp), cụ thể
là:
a) Tòa án (nói chính xác hơn là Hội đồng xét xử của Tòa án) nhân
danh Nhà nước để xem xét giải quyết công khai vụ việc tranh chấp trên cơ
sở các đạo luật- sự thể chế hóa ý chí của quyền lực công.
b) Một bên hoặc các bên tranh chấp kinh tế có quyền tự quyết định
việc khởi kiện hay rút đơn kiện, nhưng một khi đơn kiện đã được Tòa án
thụ lý, quy trình tố tụng đã được khởi động, thì các bên (đương sự) và bản
thân Tòa án đều phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về hình thức, trình tự,
thủ tục giải quyết tranh chấp cũng như phải thi hành các biện pháp có tính
cưỡng chế cần thiết cho việc bảo đảm kết quả giải quyết tranh chấp;
c) Các quyết định, bản án do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử
tuyên có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp và đều được bảo đảm
thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, nếu các bên không tự

nguyện thi hành.
Như vậy, nếu được sử dụng độc lập, riêng biệt, thì hòa giải và giải
quyết tranh chấp tại Tòa án có bản chất pháp lý khác hẳn nhau. Tuy nhiên,
việc sử dụng kết hợp chúng lại tạo nên một cách thức giải quyết tranh chấp
mới (hòa giải trong tố tụng tư pháp) với bản chất pháp lý mới: sự kết hợp
và chuyển hóa biện chứng giữa quyền lực tư và quyền lực công; cụ thể là:
23
a) Một mặt, quyền tự do ý chí, quyền tự định đoạt của các bên tranh
chấp vẫn được tôn trọng trong quá trình hòa giải tại Tòa án: Các bên có
quyền chủ động yêu cầu Tòa án hòa giải trước khi mở phiên tòa xét xử
hoặc ngay trong khi đang xét xử, trước khi Tòa tuyên án; Các bên có quyền
chủ động đưa ra các chứng cứ, lập luận để thương lượng, đàm phán trên cơ
sở các gợi ý, hướng dẫn, tư vấn của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử; các
bên có quyền thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp và vụ kiện sẽ
được kết thúc bằng việc Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó. Đồng thời,
mỗi bên cũng có quyền không chấp nhận các đề xuất của phía bên kia và
của Thẩm phán-Hòa giải viên. Trong trường hợp đó, hòa giải được coi là
không thành và vụ việc sẽ được tiếp tục giải quyết theo trình tự tố tụng do
Thẩm phán điều hành theo luật định.
b) Mặt khác, quyền tự định đoạt của các bên bị hạn chế ở phạm vi
nhất định do sự chuyển giao từ quyền lực tư sang quyền lực công: Từ hòa
giải tự nguyện sang hòa giải mang tính bắt buộc với tính chất là một thủ tục
tố tụng, một giai đoạn tố tụng theo luật định; từ hòa giải viên độc lập do các
bên tự lựa chọn và trao cho những quyền hành động nhất định sang hòa giải
viên đương nhiên (thẩm phán hay hội đồng xét xử do Tòa án chỉ định) với
quyền hạn đại diện cho quyền lực công để thực hiện quá trình hòa giải theo
cách thức phù hợp với pháp luật tố tụng.
Bằng việc ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành giữa các
bên tranh chấp, Tòa án đã xác lập một đời sống (hiệu lực) pháp lý mới cho
những thỏa thuận riêng của các bên. Sự bảo đảm thi hành bằng quyền lực

công đối với những thỏa thuận mang tính riêng tư, tự nguyện của các bên
tranh chấp là điểm đặc thù của hòa giải trong tố tụng tư pháp so với hòa
giải độc lập (ngoài tố tụng).
24
1.3. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH TẾ TẠI TÒA ÁN
Nguyên tắc, theo Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, là điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một
loạt việc làm. Nguyên tắc của một phương thức giải quyết tranh chấp là
những yêu cầu, định hướng cơ bản chi phối toàn bộ quá trình giải quyết
tranh chấp mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình đó đều phải tuân
thủ và tôn trọng nhằm đạt được mục đích của việc giải quyết tranh chấp.
Các yêu cầu đó phải được Nhà nước "luật hóa" hoặc phải được thừa nhận
chung trong giới kinh doanh như những thông lệ, tập quán.
Là những phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế độc lập, hòa
giải và tố tụng tư pháp đều có những nguyên tắc riêng của mình. Một yêu
cầu quan trọng của việc kết hợp các phương thức giải quyết tranh chấp
khác nhau vào trong cùng một quy trình là phải bảo tồn được một số
nguyên tắc cơ bản của từng phương thức nhằm phát huy tối đa những ưu
điểm của mỗi phương thức, đồng thời hạn chế những nhược điểm của
chúng. Tuy nhiên, yêu cầu đó không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được do
những khác biệt lớn giữa các phương pháp giải quyết tranh chấp.
Pháp luật thực định hiện nay của Việt Nam chưa có quy định nào về
nguyên tắc của hòa giải tranh chấp kinh tế cả ngoài tố tụng lẫn trong tố
tụng. Vì vậy, trong luận án này, việc nghiên cứu xác định các nguyên tắc
của hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án được thực
hiện dựa trên các nguyên tắc có tính thông lệ của hòa giải tranh chấp kinh
tế, các nguyên tắc luật định của tố tụng tư pháp kinh tế và xuất phát từ bản
chất đặc biệt như đã phân tích ở phần trên của việc tích hợp hòa giải vào
quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án.

Qua nghiên cứu, tác giả luận án có thể nêu ra các nguyên tắc của
hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án như sau.
25

×