Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----o0o-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT
ĐỀ TÀI:

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

MẠC GIÁNG CHÂU

NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

MSSV : 5062345
Lớp: Luật TM1 - K32

Cần Thơ 4/2010


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa các quyền con người luôn được tôn trọng và
được pháp luật bảo vệ. Trong các quyền đó thì quyền bào chữa được ghi nhận trong


Hiến pháp là một điều quan trọng và cần thiết. Ở Điều 132 Hiến pháp 1992 của nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định quyền bào chữa của bị cáo được bảo
đảm. Quyền bào chữa là cơ sở của các quyền khác mà pháp luật quy định cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng hình sự.
Phát triển và cụ thể hoá nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng hình sự đã quy
định một cách hệ thống các quyền tố tụng mà người bị tình nghi (người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo) có thể sử dụng để đưa ra những lý lẽ và chứng cứ để bào chữa cho mình.
Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.” Trong một số điều luật, đặc biệt là các
Điều 48- 49- 50 Bộ luật tố tụng hình sự, quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã được quy định tương đối đầy đủ. Như
chúng ta đã biết không phải bất cứ người bị tình nghi nào cũng có thể tự bào chữa cho
mình, mà thông thường họ thường nhờ người có khả năng hiểu biết pháp luật để bào
chữa thay cho họ. Luật gọi những người này là người bào chữa. Vì vậy, để đảm bảo
quyền bào chữa cho người bị tình nghi pháp luật tố tụng hình sự cho phép họ mời
người bào chữa. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia vào quá trình tố
tụng hình sự cũng được luật quy định khá cụ thể ở các Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự
2003.
Đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ là một
nguyên tắc hiến định mà còn là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự. Vì
bất kỳ sự vi phạm nào về nguyên tắc này trong qúa trình giải quyết vụ án hình sự đều
có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới hậu quả xấu không chỉ đối với người bị
tình nghi mà còn ảnh hưởng xấu đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói
chung và của Nhà nước nói riêng. Với tinh thần của cải cách tư pháp hiện nay chúng ta
muốn quán triệt Nghị quyết 08-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về việc giải
quyết vụ án hình sự phải chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì sự tôn
trọng nguyên tắc nói trên càng mang tính chất thiết thực hơn bao giờ hết. Và tầm quan
trọng của người bao chữa cũng được xác định rõ hơn và quan trọng hơn.

Xuất phát từ tầm quan trọng của người bào chữa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tình nghi trong quá trình tố tụng hình sự và góp phần bảo vệ quá
GVHD: Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

trình tố tụng được chính xác khách quan, tránh làm oan người vô tội, tránh bỏ lọt tội
phạm. Do đó tôi chọn đề tài “Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự” để
làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khi nói đến người bào chữa là chúng ta luôn nghĩ đến họ gắn liền với việc giúp
cho người bị tình nghi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bảo vệ quá trình tố tụng, trợ
giúp pháp lý,…
Với bài viết này tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận, chức
năng, nhiệm vụ, bản chất pháp lý của người bào chữa, phân tích các quy định của pháp
luật và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc và đề ra một số giải pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở tham khảo một số bài viết và nghiên cứu một số tài liệu về vai trò
của người bào chữa trong tố tụng hình sự, tác giả muốn đánh giá thực trạng về hoạt
động của người bào chữa trong lĩnh vực tố tụng hình sự qua một số thành tựu, hạn chế
về vai trò của người bào chữa khi tham gia tố tụng hình sự, đồng thời đề ra phương
hướng hoàn thiện về vai trò của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu tác giả sử dụng một số phương pháp chính như

sau:
 Khảo sát thực tế;
 Thống kê;
 Phân tích tổng hợp;
 Đối chiếu và so sánh.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính
của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Chương 3: Một số vấn đề về thực trạng và vướng mắc về vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn hiện nay, đề xuất và những giải pháp.
Lời cảm ơn: Để hoàn thành được đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật trước hết tôi
xin gửi lời cảm ơn đến cô Mạc Giáng Châu đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều
ý kiến quý giá trong quá trình nghiên cứu đề tài, đồng thời gửi lời cảm ơn đến tất cả
quý thầy cô trong khoa luật Đại học Cần Thơ cùng các bạn sinh viên đã giúp đỡ tôi
trong quá trình tìm kiếm tài liệu.

GVHD: Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trong tố tụng hình sự ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án thì bộ phận cũng không kém phần quan
trọng trong việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự đó là người bào chữa,
để làm rõ thế nào là người bào chữa chúng ta cần tìm hiểu những lý luận chung về bào
chữa, quyền bào chữa, người bào chữa để thấy được vai trò quan trọng của người bào
chữa trong tố tụng hình sự.
1.1.Khái niệm chung
Người bào chữa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo (gọi chung là người bị tình nghi) trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Để làm rõ được vai trò của người bào chữa chúng ta phải làm rõ các khái niệm liên
quan đến bào chữa, chức năng và nhiệm vụ của người bào chữa trong quá trình tham
gia tố tụng hình sự.
1.1.1.Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Khái niệm bào chữa
Ở Việt Nam từ thời kỳ phong kiến người ta đã biết dùng những lời nói biện hộ cho
những hành vi sai trái mà bản thân không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng vẫn biện
hộ cho hành vi của mình là đúng để tránh bị phạt vạ hay trách móc của người khác gọi
là “bào chữa”. Bào chữa là dùng lời nói hay đưa ra những chứng cứ để chứng minh
một vấn đề nào đó mà chính bản thân mình cho là đúng hoặc là những việc làm sai để
có được sự khoan hồng tha thứ từ người khác. Trong bối cảnh xã hội hiện nay người
ta vẫn quen sử dụng cụm từ “bào chữa” để nói lên quyền được chống lại sự buộc tội
từ người khác hoặc từ cơ quan quyền lực Nhà nước. Theo Từ điển luật học thì “bào
chữa” được hiểu là “việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ bị can, bị cáo”1. Từ “bào chữa” còn được sử dụng rộng rãi hơn
trước, không chỉ được hiểu là dùng lời nói để biện hộ mà còn đưa ra những chứng cứ,
vật chứng, nhân chứng,…để bào chữa. Không những thế mà còn được nâng lên thành
những điều luật cho phép người bị buộc là phạm tội, có thể chứng minh là mình
không có lỗi, không có tội hay để giảm nhẹ hành vi lỗi hoặc tội mà mình gây ra.
Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá

trình tiến hành giải quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mà trong đó người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử
1

Từ điển luật học,do Nhà xuất bản Tư pháp và nhà xuất bản từ điển bách khoa xuất bản năm 2006.

GVHD: Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

dụng chức năng này để tự mình bào chũa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Chế định về bào chữa cũng được quy định trong Hiến pháp tại Điều 132 như sau:
“Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm….”. Chế định bào chữa không những
được quy định trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hoá hơn trong luật, theo Điều 11
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 có quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của bộ luật này”.
Tóm lại, bào chữa là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tự mình đưa ra các lý lẽ
chứng cứ chứng minh vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp hoặc có thể nhờ người khác thực hiện chức năng bào chữa cho mình (gọi là
người bào chữa).
1.1.1.2.Khái niệm quyền bào chữa
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong những quyền
quan trọng nhất của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng giải quyết

vụ án hình sự. Việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động tư pháp.
Trong giới luật gia có quan điểm cho rằng: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
tổng thể các quyền mà pháp luật quy định, cho phép bị can, bị cáo có thể sử dụng
nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”.2
Có quan điểm khác lại cho rằng “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là tổng thể
các quyền năng mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc
tâm thần để họ sử dụng nhằm chống lại một phần hay toàn bộ sự buộc tội, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo”.3
Một quan điểm khác nữa lại cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hợp các hành vi tố
tụng của bị can, bị cáo trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đưa
ra các chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan
tiến hành tố tụng”4.
Các quan điểm trên đều đã phản ánh được nội dung của quyền bào chữa, nhưng
chưa đầy đủ ở chỗ là chưa làm sáng tỏ được từ “quyền” và cụm từ “bào chữa”. Để có
cơ sở khoa học định nghĩa về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, cần phải làm sáng tỏ
nội dung của từ “quyền” và cụm từ “bào chữa”, đồng thời phải căn cứ vào các quy
2

Hoàng Thị Minh Sơn, Thực hiện quyền bào chữa cho bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ, năm
2003 trang 14.
3
Phan Văn Thiệu: Về quyền bào chữa của bị cáo, Tạp chí Toà án Nhân dân, số 10, năm 2008 trang 3.
4
Nguyễn Ngọc Chí: Giáo trình luật Tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà nội- 2001, trang 59.

GVHD: Mạc Giáng Châu


4

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

định của pháp luật tố tụng hình sự quy định về quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.
Theo Từ điển Luật học thì “quyền” được hiểu là “khái niệm pháp lý để chỉ những
điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo
đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản,
hạn chế”.5
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho
đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước Toà án hoặc cho một việc làm
đang bị lên án”.6
Như vậy quyền bào chữa trước hết phải là những điều được pháp luật ghi nhận và
bảo đảm thực hiện, có nghĩa là phải được pháp luật ghi nhận vế mặt pháp lý. Những gì
không được pháp luật quy định thì không được coi đó là quyền bào chữa. Cùng với
việc ghi nhận, pháp luật còn xác định cơ chế đảm bảo cho chủ thể (cụ thể là người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo) thực hiện. Các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng cũng như các cơ quan, cá nhân khác không được hạn chế, ngăn cản. Thứ hai,
quyền bào chữa gắn liền với chủ thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thể hiện
thông qua quan hệ xã hội cụ thể là quan hệ pháp luật hình sự giữa một bên là Nhà
nước và bên kia là người bị tình nghi trong vụ án hình sự. Thứ ba, nội dung của quyền
bào chữa là người bị buộc tội sử dụng mọi lý lẽ, chứng cứ, tài liệu để chống lại toàn
bộ hoặc một phần sự buộc tội của Nhà nước (cụ thể là cơ quan công tố) nhằm chứng
minh sự vô tội, hoặc nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của mình.
Từ sự phân tích và tổng hợp tri thức về các khái niệm “quyền” và “bào chữa”, có

thể xây dựng khái niệm “quyền bào chữa” như sau: Quyền bào chữa là tổng thể các
quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực
hiện trong việc sử dụng các lý lẽ, chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh sự vô tội, hoặc
nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
mình.
1.1.1.3.Khái niệm người bào chữa
Quyền bào chữa là quyền quan trọng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có thể sử dụng tất cả những biện pháp, phương tiện mà pháp
luật không cấm để chống lại, phủ nhận, bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội của
những cơ quan có thẩm quyền. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thường thì có trình độ
hiểu biết pháp luật thấp, khả năng thu thập chứng cứ, tranh luận và điều kiện về thời
gian, về cơ sở vật chất… của họ có hạn chế, nhất là những người bị tạm giữ, bị can, bị
5
6

Từ điển luật học, Nxb Tư pháp và Nxb Từ điển bách khoa- 2006 trang 33 và trang 648.
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – 2006 trang 38.

GVHD: Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

cáo bị tạm giam, trong đó quá trình giải quyết vụ án hình sự gồm nhiều vấn đề phức
tạp thì việc tự bào chữa của không ít người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gặp nhiều khó
khăn, do vậy việc nhờ người bào chữa cho mình là rất cần thiết. Tại Điều 5 Sắc lệnh

số 13C-SL ngày 13/9/1945 về việc thiết lập các Toà án quân sự đã quy định: “Bị cáo
có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho”. Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà năm 1946 cũng ghi nhận tại Điều 67: “Người bị cáo có
thể tự bào chữa hoặc nhờ luật sư”. Trong các bản Hiến Pháp 1959 và năm 1980 đều
ghi nhận quyền của bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo được ghi nhận đầy đủ tại
Điều 132 Hiếp pháp 1992 như sau: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị
cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Người bào chữa là người được pháp luật quy định tham gia vào quá trình tố tụng
hình sự để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, góp phần làm
sáng tỏ các tình tiết gỡ tội hay giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo
vệ họ khỏi sự vi phạm có thể từ phía Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác.
Người bào chữa theo quy định của khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
thì người bào chữa có thể là:
-Luật sư;
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
- Bào chữa viên nhân dân;
Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, thì luật sư, người đại diện hợp
pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có quyền và
nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho người bào chữa.
a.Luật sư bào chữa
Theo Điều 2 Luật Luật sư 2006 “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề theo quy định của luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Người muốn được hành nghề
luật sư phải gia nhập một đoàn luật sư phải có đủ các điều kiện theo quy định của Luật
Luật sư, để đạt tiêu chuẩn để trở thành luật sư hội đủ điều kiện được quy định tại Điều
10 Luật luật sư: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và

pháp luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư,
có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư.” Và khi đạt đủ
tiêu chuẩn tại Điều 10 còn phải hội đủ điều kiện hành nghề luật sư được quy định tại
Điều 11 Luật luật sư: “Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này
GVHD: Mạc Giáng Châu

6

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

muốn được hành nghề luật sư phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
Đoàn luật sư”.
Những luật sư được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của họ mời làm người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ và luật sư
này không thuộc một trong những điều kiện không được bào chữa được quy định tại
Khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự: “Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó;
người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người
tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người
phiên dịch”, thì luật sư được mời làm người bào chữa và được Cơ quan tiến hành tố
tụng đồng ý cấp giấy chứng nhận bào chữa thì luật sư được mời mới trở thành luật sư
bào chữa trong vụ án hình sự. Đây là hai điều kiện phải cùng tồn tại song song với
nhau có một bên chủ thể không đồng ý thì luật sư không thể trở thành luật sư bào
chữa trong vụ án hình sự.
Tóm lại, luật sư bào chữa là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của
pháp luật và đại diện cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người mà luật sư bào chữa nhận lời bào chữa và phải được Cơ quan tiến
hành tố tụng cấp giấy chứng nhận bào chữa thì luật sư mới chính thức trở thành luật

sư bào chữa trong vụ án hình sự.
b.Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại diện hợp
pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa trong trường người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không tự mình bào chữa
được hoặc trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên
hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, người không có khả năng nhận
thức hoặc nhận thức kém cần có người đại diện về mặt pháp luật để giúp cho họ có thể
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Người đại diện hợp pháp
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người đại diện hợp pháp không chỉ là người đại diện cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong vai trò là người bào chữa mà người đại diện hợp pháp cũng có quyền thay
mặt người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mời người bào chữa để giúp họ bảo về quyền và
lợi ích hợp pháp.
Tóm lại, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất và họ phải tuân
thủ theo những quy định mà pháp luật đặt ra cho người bào chữa (nếu người đại diện
hợp pháp thực hiện luôn chức năng bào chữa).
GVHD: Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

c.Bào chữa viên nhân dân

Người bào chữa trong tố tụng hình sự còn có thể là bào chữa viên nhân dân. Chức
danh bào chữa viên ở nước ta ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và
chế định bào chữa viên nhân dân còn tồn tại đến ngày nay và được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự tại Điều 56 về người bào chữa: Những người có thể là người bào
chữa trong đó có chế định bào chữa viên nhân dân.7
Bào chữa viên nhân dân: Là người được Uỷ Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử người bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, để đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo trong những trường hợp do pháp
luật quy định. Bào chữa viên nhân dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào
chữa, đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào
chữa. Về mặt pháp lý bào chữa viên nhân dân là một chủ thể tư pháp có tư cách của
người bào chữa trong tố tụng hình sự.
Qua những phân tích trên bào chữa viên nhân dân là người được Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử
người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ mời, những người khác được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo uỷ
quyền mời hay được Cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công, văn
phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhằm làm sáng tỏ
những tình tiết gỡ tội hoặc là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý cần thiết trong vụ án hình sự.
1.1.2.Chức năng và nhiệm vụ của người bào chữa
1.1.2.1.Chức năng của người bào chữa
a.Tìm ra những chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ bị
can, bị cáo
Đây là chức năng quan trọng nhất của người bào chữa trong quá trình tham gia bào
chữa trong vụ án hình sự. Vì khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã bị khởi tố về hình
sự và đang trong giai đoạn điều tra hay chuẩn bị đưa ra xét xử thì do trình độ pháp lý

của họ còn kém, ít hiểu biết về pháp luật lại thêm tâm lý hoang mang lo sợ không
được ổn định, vì họ đang trong tình trạng bị hạn chế quyền tự do không được hưởng
chế độ tại ngoại, do đó rất khó khăn để người bị tạm giữ, bị can bị cáo trong trường
hợp này có thể tự mình thu thập chứng cứ, tài liệu,… liên quan đến vụ án để chứng
minh mình vô tội hoặc giảm nhẹ tội cho mình. Mặt khác nữa là do kiến thức pháp luật
7

/>
GVHD: Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

kém, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không có khả năng tranh luận đối đáp với Cơ
quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó trong những hoàn cảnh
như vậy họ rất cần có người bào chữa để giúp họ thu thập chứng cứ, tranh luận, đối
đáp với những người thực hiện chức năng buộc tội.
Cho nên chức năng quan trọng của người bào chữa là phải xem xét thật kỹ tình tiết
của vụ án, tham gia tích cực vào các quá trình tố tụng từ khởi tố, đến điều tra, truy tố,
xét xử,… và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tìm kiếm thu thập chứng cứ; thu
thập lời khai của nhân chứng, người bị hại, mà quan trọng nhất là lời khai của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì họ thường sẽ thành thật khai báo sự việc với người bảo vệ
mình;… để tìm ra những chứng cứ để chứng minh người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô
tội hoặc giảm nhẹ tội cho họ.
Còn trong trường hợp hành vi của bị cáo là có lỗi có dấu hiệu phạm tội thì người
bào chữa cần hướng dẫn họ khai báo theo hướng có lợi nhất, khuyên họ thành khẩn

khai báo qua lời khai đó người bào chữa có thể giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
phát hiện những tình tiết có thể giúp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Môi trường,
hoàn cảnh thực hiện hành vi, thái độ của bị hại đối với họ lúc xảy ra vụ việc như thế
nào, nguyên nhân dẫn họ đến việc thực hiện hành vi phạm tội, trạng thái tinh thần của
họ và của bị hại như thế nào,.... Ngoài những tình tiết đó người bào chữa còn giúp cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tìm ra những tình tiết về nhân thân có lợi cho việc
giảm nhẹ hình phạt như: Hoàn cảnh gia đình, chưa từng phạm tội, gia đình có công
với cách mạng, những nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (nếu có), độ tuổi thực
hiện hành vi,…để có thể giúp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự.
b.Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong quá trình tố tụng
Trong quá trình tố tụng sự xuất hiện của người bào chữa đóng vai trò quan trọng
đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì người bào chữa sử dụng những hiểu biết
pháp luật của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo mà người bào chữa trực tiếp bảo vệ.
Luật pháp quy định cho họ những quyền năng nhất định trong quá trình tố tụng mà
khi bị tạm giữ hoặc bị can trong giai đoạn điều tra, bị cáo trong giai đoạn vụ án được
đưa ra xét xử thì chính họ khó tự mình bào chữa cho chính mình nên rất cần người
bào chữa. Có đôi khi lợi ích hợp pháp và quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
không được Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng tuân thủ theo
đúng pháp luật, hoặc thực hiện qua loa, sơ sài để vụ án nhanh chóng được kết thúc.Vì
vậy, người bào chữa sẽ sử dụng những quyền mà pháp luật quy định để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người mà mình bào chữa một cách tốt nhất.
GVHD: Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung



Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Trong vụ án hình sự người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng được pháp luật quy định
cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định. Nhưng vì khả năng hiểu biết pháp luật
kém người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không hiểu và vận dụng được hết những quyền
mà pháp luật trao cho để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Do đó họ cần một người bào
chữa với khả năng hiểu biết pháp luật người bào chữa sẽ giúp họ trong quá trình tố
tụng, giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp dựa trên những quyền mà pháp luật
trao cho họ. Vì vậy, sự xuất hiện của người bào chữa trong quá trình tố tụng là hết sức
cần thiết để bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ vụ án được
chính xác khách quan.
c.Kiến nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng về việc áp dụng, vận dụng chính
xác pháp luật
Việc áp dụng vận dụng đúng pháp luật góp phần rất quan trọng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự,
hạn chế tình trạng bị buộc tội oan, sai. Trên thực tế có một số trường hợp người tiến
hành tố tụng không làm đúng, vận dụng không chính xác pháp luật sẽ dẫn đến nhiều
trường hợp oan, sai xảy ra.
Nhưng khi có người bào chữa trong quá trình tố tụng thì bằng sự hiểu biết pháp
luật của mình, bằng những quy định mà pháp luật cho phép, người bào chữa sẽ phát
hiện sự vận dụng không đúng pháp luật trong việc giải quyết vụ án mà đề nghị lên cơ
quan tiến hành tố tụng điều chỉnh cho hợp lý, hoặc phải sửa chữa nếu có sai lầm xảy
ra. Để giúp quyền lợi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, không bị xâm phạm mà còn
giúp quá trình tố tụng được chính xác khách quan hơn.
Ví dụ: Nhận được tin báo tại nhà Lê Thị Huệ (trú tại tổ 29, phường Duyên Hải,
Thành phố Lào Cai) đang tổ chức đánh bạc, vào lúc 23h15 ngày 8.10.2008, Phòng
Cảnh sát điều tra tội phạm về Trật tự xã hội - Công an Lào Cai ập vào nhà Huệ và bắt
giữ 11 người trong nhà Huệ gồm: Lê Thị Huệ, Trương Quốc Chiến, Đỗ Minh Toàn,
Lê Bích Thủy, Trần Thanh Thủy, Đặng Vũ Hiệp (là những người Việt Nam) và Mã

Hiểu An, Lã Thanh Hải, Lộ Nguyên Phi, Đỗ Tuấn Học, Nghê Hải (là người nước
ngoài); thu giữ quân bài, bát đĩa sứ dùng để đánh bạc và với số tiền là 518 triệu đồng
tiền Việt Nam và 169.376 NDT (tiền Trung Quốc).
Sau thời gian tạm giữ, Cơ quan điều tra đã thả tự do cho Đỗ Tuấn Học và Nghê
Hải (người nước ngoài) vì cho rằng những người này không tham gia đánh bạc, chín
người còn lại đều khởi tố, bắt tạm giam.
Sau 3 tháng điều tra, ngày 22.01.2009, Cơ quan điều tra không tìm đủ căn cứ để
khởi tố bị can Lê Bích Thủy về hành vi đánh bạc, vì Thủy chỉ tình cờ có mặt tại nhà
Lê Thị Huệ mà không biết có vụ đánh bạc ở đó, nên đã ra quyết định thay đổi từ tội
"đánh bạc" sang tội "khai báo gian dối", vì khi công an bắt bạc, Thủy cũng bị tạm giữ
GVHD: Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

cùng với những con bạc lúc đó và trong thời gian này Đỗ Minh Toàn đề nghị Thủy
khai nhận hộ Toàn số tiền 39.000 NDT và Thủy đã khai nhận như lời Toàn đề nghị.
Tuy nhiên trong thời gian tạm giữ, Thủy đã khai lại đúng sự thật. Thêm gần một
tháng bị giam giữ để điều tra, ngày 17.02.2009, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã nhận
thấy: "Lê Bích Thủy có hành vi khai báo gian dối... Tuy nhiên, sau đó bị can đã thành
khẩn khai báo, hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" và đã đình chỉ
vụ án đối với bị can Lê Bích Thủy. Ngày 22.01.2009, Lê Bích Thủy được trả tự do.8
Trong vụ án này Lê Bích Thuỷ không mời người bào chữa cho mình. Nếu có
người bào chữa trong trường hợp này thì Cơ quan điều tra không thể bắt tạm giam
Thuỷ vì không đủ căn cứ khởi tố Lê Bích Thuỷ thì không được bắt tạm giam để điều
tra. Như vậy là Cơ quan điều tra đã vận dụng không đúng pháp luật. Vì qua lời khai

của Thuỷ và chứng cứ cho thấy Thuỷ không có hành vi đánh bạc. Theo quy định của
pháp luật thì khi có đủ căn cứ để xác định một người nào đó thực hiện hành vi phạm
tội thì Cơ quan điều tra mới được ra quyết định khởi tố bị can. Nhưng trong trường
hợp này Cơ quan điều tra chưa xác định được căn cứ phạm tội của Thuỷ đã ra quyết
định khởi tố bị can là đã sai luật.
1.1.2.2.Nhiệm vụ của người bào chữa
a. Tôn trọng sự thật khách quan và tôn trọng pháp luật
Người bào chữa được quyền sử dụng mọi biện pháp miễn là không vi phạm pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nhưng
không vì thế mà làm sai lệch sự thật khách quan và không tôn trọng pháp luật, người
bào chữa không được vì những mục đích nhất định mà không tôn trọng sự thật, tôn
trọng chân lý.
Pháp luật trao cho người bào chữa nhiều quyền là muốn tạo nên sự công bằng cho
tất cả mọi người. Vì không ai bị coi là có tội nếu không có bản án của Toà án kết tội
họ có hiệu lực pháp luật được quy định tại Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự: “Không ai
bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật”. Nên người bào chữa phải sử dụng những quyền mà pháp luật trao
cho để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mình bào chữa, nhưng không được
vì lợi ích riêng như: lợi ích vật chất, có thể người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người
thân, bạn bè của người bào chữa hoặc có thể là người bào chữa từng có tranh chấp với
bị hại,… mà tiếp tay với bị can, bị cáo, tạo ra những chứng cứ giả, mua chuộc nhân
chứng cho lời khai có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể chứng minh bị
can, bị cáo vô tội. Hành động như vậy chẳng những là không tôn trọng pháp luật, tôn
trọng sự thật khách quan mà còn liên quan đến lương tâm, đạo đức của người bào
chữa, hơn thế nữa nếu người bào chữa làm trái pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm
8

/>
GVHD: Mạc Giáng Châu


11

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

hình sự, vì tại khoản 4 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “Người bào chữa
làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng
nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Đó là quy
định của người bào chữa nói chung còn riêng với luật sư thì theo quy định tại khoản 3
Điều 5 Luật luật sư về nguyên tắc hành nghề luật sư có quy định: “Độc lập, trung
thực, tôn trọng sự thật khách quan”.
Vì vậy, trong mọi trường hợp bào chữa người bào chữa phải luôn luôn bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người mình nhận bào chữa và luôn tôn trọng sự thật
khách quan và tôn trọng pháp luật tôn trọng chân lý.
b.Góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa
Người bào chữa tham gia bào chữa trong vụ án hình sự không chỉ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa được thực thi đầy đủ và công minh nhất. Đây là hai vấn đề có tác
động lẫn nhau và song song nhau, không mặt nào được coi nhẹ. Bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tốt, sẽ tạo điều kiện cho việc bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa; ngược lại, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều
kiện cho việc cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo được thuận lợi.
Nếu người bào chữa chỉ coi trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo mà coi nhẹ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì dễ đi đến chổ nguỵ
biện, thậm chí xuyên tạc sự thật khách quan của vụ án hình sự, đi ngược lại công lí;
ngược lại, nếu chỉ coi trọng bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì dễ biến thành “công

tố viên thứ hai”, buộc tội người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ngoài ra, việc cho người bào chữa tham gia từ giai đoạn tạm giữ, giai đoạn điều
tra không chỉ mở rộng những nguyên tắc dân chủ của tố tụng hình sự mà còn nâng cao
chất lượng điều tra, xét xử vụ án hình sự, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở giai
đoạn điều tra, xét xử. Vì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa có bản kết tội cuả Toà
án có hiệu lực pháp luật thì họ chỉ đang trong tình trạng “bị tình nghi” mà khômg phải
là tội phạm. Để bảo đảm tính công bằng của pháp luật đã quy định cho người bào
chữa xuất hiện từ khi có quyết định tạm giữ, khởi tố bị can. Vì một bên là cơ quan
Nhà nước có đầy đủ quyền lực, được trang bị kiến thức pháp luật vững chắc còn một
bên chỉ là một công dân bình thường đang trong trường hợp “bị tình nghi” trong vụ án
hình sự với kiến thức pháp luật thấp không thể tự mình bào chữa. Cho nên sự có mặt
của người bào chữa một mặt bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn mặt khác
người bào chữa tham gia sẽ giúp nâng cao chất lượng điều tra hạn chế oan sai.
GVHD: Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

c.Thúc đẩy công tác điều tra, xét xử đầy đủ và khách quan
Sự tham gia của người bào chữa góp phần thúc đẩy công tác điều tra, xét xử đầy
đủ và khách quan. Trong vụ án hình sự khi người bào chữa tham gia có thể giám sát
các hoạt động của Cơ quan điều tra, của Hội đồng xét xử để kịp thời phát hiện những
thiếu sót, sai lầm (nếu có) để yêu cầu Cơ quan điều tra, Hội đồng xét xử sửa chữa,
khắc phục những thiếu sót sai lầm xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án, để bảo đảm
cho việc điều tra giải quyết vụ án được chính xác khách quan và đúng pháp luật.
Ví dụ: Tại phiên toà phúc thẩm ngày 24.02.2009, Hội đồng xét xử Toà án nhân

dân tối cao Hà Hội đã tuyên huỷ bản án sơ thẩm có quá nhiều sai phạm này, trả hồ sơ
để điều tra lại. Sau án sơ thẩm, chị Lê Thị Thu Huyền - vợ bị cáo và luật sư Nguyễn
Văn Thập thuộc Đoàn luật sư Hải Phòng là người bào chữa miễn phí cho bị cáo cùng
có đơn kháng cáo. Toà Phúc thẩm, Toà án nhân dân Tối cao tại Hà Nội đã thụ lý và
quyết định trưng cầu giám định bổ sung tại Viện Giám định pháp y tâm thần Trung
ương. Ngày 08.9.2008, từ Trại tạm giam Hải Phòng, Phạm Văn Thắng được đưa lên
Viện giám định pháp y tâm thần Trung ương. Sau gần 2 tháng theo dõi giám định nội
trú, ngày 31.10.2008, Viện giám định pháp y tâm thần trung ương có biên bản giám
định pháp y tâm thần số 48/GĐPYTT.
Theo đó, về tiền sử bệnh lý, biên bản xác nhận: Phạm Văn Thắng sinh năm 1980,
trú quán xã Thái Sơn, huyện An Lão, Hải Phòng, có bố đẻ là ông Phạm Văn Bê - cựu
chiến binh chống Mỹ cứu nước, bị nhiễm chất độc da cam. Thắng cùng chị gái đang
có sổ điều trị bệnh tâm thần mạn tính tại Bệnh viện tâm thần Hải Phòng từ năm 2000.
Ông Phạm Văn Bê được hưởng chế độ trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng.
Tại biên bản giám định pháp y cũng ghi nhận về tình trạng bệnh lý của Phạm Văn
Thắng trong suốt quá trình kể từ khi bị bắt giam ngày 07.12.2006: Các báo cáo của
cán bộ quản giáo, của bác sĩ Trại tạm giam Hải Phòng, báo cáo của phạm nhân cùng
buồng cũng như qua theo dõi trực tiếp gần 2 tháng tại Viện giám định pháp y tâm thần
trung ương đều thấy bị cáo Thắng có các biểu hiện như hay la hét, nói lảm nhảm, xé
quần áo, tự gây thương tích cho mình, uống nước cống, lấy phân bôi lên tường...
Kết hợp với thăm khám hiện tại, Viện giám định pháp y tâm thần trung ương kết
luận: "Bị cáo Phạm Văn Thắng mắc bệnh tâm thần phân liệt thể Pananoit. Ngày
24.02.2009, một lần nữa, bị cáo Thắng lại được đưa đến vành móng ngựa tại phiên
phúc thẩm. Vị chủ toạ phiên toà bắt đầu thẩm vấn: "Bị cáo tên là gì?". Tay chỉ thẳng
lên trời, bị cáo Thắng dõng dạc: "Thái Sơn, An Lão, Hải Phòng!". Toà hỏi tiếp: "Bị
cáo sinh năm bao nhiêu?". Mắt bị cáo ngơ ngác, cười một mình và lẩm nhẩm đọc tấm
bảng trên bàn công tố viên: "Đại diện Viện Kiểm sát...".
Những người tham dự phiên toà không khỏi bàng hoàng, tại sao bị cáo có biểu
hiện của người bị tâm thần mà vẫn được toà đưa ra xét xử. Tuy nhiên, những băn
GVHD: Mạc Giáng Châu


13

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

khoăn của người tham dự phiên toà cũng đã được giải tỏ bởi trong lời kết luận vụ án,
ông Văn Trường Chinh- đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ quyền công tố tại
phiên toà đã chỉ rõ: Tại hồ sơ vụ án thể hiện, ngay sau khi Phạm Văn Thắng bị bắt
khẩn cấp (ngày 07.12.2006), Cơ quan điều tra đã được gia đình bị cáo nộp sổ điều trị
bệnh tâm thần mạn tính của Thắng được cấp từ năm 2000. Như vậy, Cơ quan điều tra
đã biết rõ Thắng bị bệnh tâm thần.
Khoản 2 Điều 312 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Khi tiến hành tố tụng, Cơ
quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định là
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần". Thế nhưng 3 biên bản hỏi
cung bị can được lập tại Công an quận Hồng Bàng không hề có luật sư tham gia. Đây
là một vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Do vậy, dù tại 3 biên bản hỏi cung này bị can có nhận tội chăng nữa cũng không
có giá trị pháp lý, không thể coi là chứng cứ buộc tội. Khi vụ án được chuyển lên Cơ
quan điều tra cấp thành phố theo thẩm quyền, nhưng cả hai lần Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng vào trại tạm giam để hỏi cung Phạm Văn Thắng cũng
đều không có luật sư tham gia. Cả hai lần hỏi cung này đều bất thành vì bị can trả lời
linh tinh, lảm nhảm.
Điều tra viên đã phải lập biên bản về việc hỏi cung bất thành. Như vậy, trong hồ sơ
vụ án chỉ có một chứng cứ duy nhất buộc tội cho Phạm Văn Thắng là lời khai của hai
kẻ đồng phạm trong vụ án. Từ nhận xét trên, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đề nghị Hội đồng xét xử huỷ án sơ thẩm, trả hồ sơ về cấp sơ thẩm để điều tra lại.
Kết thúc phiên toà, vì những vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng, Hội đồng
xét xử phúc thẩm tuyên: Huỷ án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại.9

Do đó trong vụ án này tại phiên toà sơ thẩm do không có sự tham gia của người
bào chữa nên có xảy ra nhiều sai sót nhưng vi không có sự tham gia của người bào
chữa nên những sai phạm này không được khắc phục. Việc bị cáo bị bệnh tâm thần
mà Cơ quan điều tra không phát hiện (hoặc biết nhưng vẫn để vậy) làm công tác điều
tra không được tiến hành một cách khách quan và đầy đủ. Còn việc khi tại toà bị cáo
có những biểu hiện không bình thường nhưng Hội đông xét xử sơ thẩm vẫn để vậy để
xử là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử đã không khách quan
trong nhiệm vụ của mình chỉ sau cho vụ án mau chóng giải quyết xong là được.
Tóm lại, việc điều tra một vụ án nào đó dù phức tạp hay những vụ án đơn giản thì
cũng dễ xảy ra sai sót, đôi khi Cơ quan điều tra không khách quan, công tác điều tra
không được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét
xử không khách quan trong lúc thực hiện nhiệm vụ, qua loa sơ sài (như vụ án trên) thì
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ không được bảo đảm.
9

/>
GVHD: Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Cho nên để vụ án được tiến hành một cách khách quan công tác điều tra được thực hiện
đúng và đầy đủ thì việc có người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng sẽ hạn chế
được những thiếu sót trên.
d. Góp phần xác định sự thật vụ án
Nhiệm vụ chính của công tác bào chữa không chỉ là bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của thân chủ mình mà còn góp phần xác định sự thật vụ án. Vì việc xác định sự
thật vụ án xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có tội hay không không phải là
nhiệm vụ của người bào chữa mà là nhiệm vụ của người tiến hành tố tụng. Vì theo
quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh là mình vô tội”. Do đó người bào chữa chỉ góp phần làm sáng tỏ vụ án chứ đây
không phải là nhiệm vụ của người bào chữa.
Vấn đề xác định sự thật khách quan của vụ án liên quan đến đạo đức, đến trách
nhiệm nghề nghiệp của người bào chữa. Nhưng đôi khi người bào chữa vì tiền hay vì
một lợi ích vật chất nào đó, hay vì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người thân của
mình nên người bào chữa cố tình không đưa ra những chứng cứ tài liệu mà trong quá
trình điều tra người bào chữa đã phát hiện được liên quan đến sự thật của vụ án nhưng
lại có hại cho người mà người bào chữa đang bảo vệ. Việc điều tra và phát hiện chứng
cứ mới của người bào chữa không những góp phần chứng minh sự vô tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần làm
sáng tỏ vụ án. Nên khi người bào chữa điều tra được những chứng cứ mới, tình tiết
mới phải có trách nhiệm giao cho Cơ quan tiến hành tố tụng vì đây là nghĩa vụ của
người bào chữa mà luật đã quy định. Theo điểm b khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng
hình sự có quy định: “… Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và
cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập thành biên bản theo quy định tại Điều 95 của
bộ luật này;…”.
Vì vậy người bào chữa cần phải thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình
là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn phải
góp phần bảo vệ sự chân thật, chân lý trong từng vụ án.

ơ

GVHD: Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

1.2.Bản chất pháp lý của hoạt động bào chữa
Người bào chữa tham gia vào vụ án hình sự với vai trò là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mà cụ thể hơn hoạt động bào chữa của
người bào chữa là chứng minh sự vô tội và làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng.
1.2.1.Chứng minh sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
a.Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tính
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội
Một quy định tồn tại xuyên suốt trong tố tụng hình sự là không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản kết tội của cơ quan có thẩm quyền. Do đó việc tham gia của người
bào chữa trong vụ án sẽ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm rõ những tình tiết để
xác định họ vô tội. Đó là việc người bào chữa vận dụng kiến thức pháp luật của mình
kết hợp với công tác điều tra trong quá trình tham gia giải quyết vụ án để tìm ra những
chứng cứ, tình tiết,…để chứng minh người mà mình bào chữa không có tội.
Trong quá trình tố tụng ngoài Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố có chức năng
buộc tội thì để tạo sự công bằng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì pháp luật quy
định cho họ quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa cho mình (gọi là người
bào chữa). Khi có người bào chữa tham gia thì trách nhiệm của người bào chữa là
giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý không những bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp mà còn góp phần bảo vệ quá trình tố tụng được diễn ra công bằng,
nhanh chống khách quan không làm oan người vô tội.
Ví dụ: như trong vụ án xảy ra ở Lâm Đồng ngày 15.6.2002, anh Đỗ Duy Minh là
người miền Bắc vào làm việc tại Đức Trọng- Lâm Đồng. Anh Đỗ Duy Minh bị bắt vì
bị nhằm với Nguyễn Xuân Minh, người có hành vi trộm cắp nhiều lần. Một cán bộ
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã nói rằng: “Minh bị bắt và xử tù vì
không đưa ra được những bằng chứng vô tội”10. Vậy là Viện kiểm sát tỉnh Lâm Đồng
trong trường hợp này đã vi phạm nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Nếu trong vụ án
này có người bào chữa tham gia thì Viện kiểm sát sẽ không vi phạm nguyên tắc xác
định sự thật vụ án. Vì người bào chữa sẽ yêu cầu Viện kiểm sát đưa ra những chứng
cứ để chứng minh cho việc bắt người là đúng, và người bào chữa sẽ làm sáng tỏ
những tình tiết để có thể xác định bị cáo không có tội.
Do đó khi có người bào chữa tham gia vào các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử thì người bào chữa sẽ vận dụng những quy định của pháp luật trao cho để tham
gia vào các hoạt động đó nhằm giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chứng minh rằng
họ vô tội và góp phần giúp Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng giải
10

Hoàng Thị Minh Sơn, Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo,Tạp chí luật học số 10, năm 2008 trang 10

GVHD: Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự


quyết vụ án một cách công bằng và tích cực hơn.
Vì vậy người bào chữa phải vận dụng những quyền mà pháp luật trao cho một
cách tích cực và có hiệu quả nhất để làm sáng tỏ những tình tiết trong vụ án để chứng
minh người bị tạm giữ,bị can, bị cáo vô tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
và góp phần bảo vệ sự thật vụ án.
b. Bảo đảm sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động tố tụng
Người bào chữa đã nhận lời bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mặc dù
là do hợp đồng hay do bào chữa chỉ định của Cơ quan tiến hành tố tụng trong một số
trường hợp được pháp luật quy định thì người bào chữa cũng phải hoạt động tích cực
vì lợi ích của người mình bào chữa, chứ không phải bào chữa theo hợp đồng sẽ tham
tích cực còn bào chữa chỉ định thì qua loa sơ sài. Do đó khi người bào chữa tham gia
tích cực vào từng giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án nhất là việc người bào
chữa có mặt trong giai đoạn xét xử cũng như có mặt trong các hoạt động tố tụng
không những bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần giúp cho họ ổn
định về mặt tinh thần.
Do đó sự tham gia của người bào chữa trong quá trình tố tụng là hết sức quan
trọng nhất là ở giai đoạn xét xử. Vì chỉ khi người bào chữa tích cực tham gia trong
giai đoạn tố tụng thì mới nắm rõ vấn đề, tình tiết vụ án, các chứng cứ có được trong
quá trình điều tra, nhất là tại phiên toà tâm lý của bị cáo đang hoang mang cần có
người giúp họ bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Và với sự tham gia
của người bào chữa thì khi có những thiếu xót, vi phạm (nếu có) xảy ra từ phía Cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thì người bào chữa sẽ phát hiện và
yêu cầu Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng pháp luật.
Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
người bào chữa cần phải tham gia tích cực vào các hoạt động tố tụng mà nhất là giai
đoạn xét xử tại phiên toà vì tại phiên toà thì việc bị cáo có tội hay vô tội thì sẽ được
xử lý chính thức tại đây. Vì vậy, sự tham gia đầy đủ, tích cực của người bào chữa mới
giúp được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
c.Quan điểm của người bào chữa không thể mâu thuẩn với quan điểm của
người bị tạm giữ,bị can, bị cáo

Người bào chữa có nhiều quyền đồng thời pháp luật cũng quy định trách nhiệm
của họ. Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng những biện pháp do pháp luật quy định.
Trong mọi hoạt động của mình họ phải dựa trên cơ sở pháp luật. Những quy định
mang tính nguyên tắc xác định vai trò của người bào chữa trong tố tụng, quan hệ của
họ đối với người được bảo vệ. Đặc biệt có ý nghĩa quan trọng và phức tạp là vấn đề
quan điểm của người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là vấn đề rất
quan trọng nó liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
GVHD: Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

cáo. Vì nếu người bào chữa không đồng thuận với quan điểm của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thì việc bào chữa rất khó thực hiện được và không thể bảo vệ lợi ích của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo một cách toàn diện.
Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà thật có tội theo những chứng cứ mà người
bào chữa thu thập được thì người bào chữa phải giải thích cho bị cáo hiểu vấn đề và
chuyển hướng nhận tội để có thể được giảm án, còn không thì yêu cầu bị cáo đề nghị
Cơ quan tiến hành tố tụng được thay đổi người bào chữa. Còn trường hợp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra những chứng cứ và những lý do, nguyên nhân có tính
thuyết phục là họ không có tội, thì người bào chữa cần áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để nghiên cứu các tình tiết mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo dựa vào đó mà
bảo vệ sự vô tội của mình. Để qua đó có thể tìm ra những chứng cứ có lợi cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Vì vậy quan điểm của người bào chữa không thể mâu thuẫn với quan điểm của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vì người bào chữa là người giúp người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo chứng minh là họ không có tội nên người bào chữa và người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo phải có cùng quan điểm nếu không thì không còn là bào chữa.
d.Người bào chữa không được hành động có hại cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, không được chuyển sang quan điểm buộc tội
Người bào chữa không được hành động có hại cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, không được chuyển sang quan điểm buộc tội vì như thế là đi ngược lại với chức
năng và nhiệm vụ của người bào chữa, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hành động có hại có thể là người bào chữa không
thực hiện chức năng bào chữa mà quay sang buộc tội người họ, hay từ chối bào chữa
mà không có lý do chính đáng,…đó là những việc người bào chữa không được làm
trong quá trình tố tụng.
Nhiệm vụ của người bào chữa là phải thông tin cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo biết tình trạng của họ trong vụ án, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
các chứng cứ mà người bào chữa thu thập được,…Song người bào chữa không được
đồng ý với sự buộc tội, ép người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhận tội. Nếu người bào
chữa làm như vậy thì sẽ không thể phát hiện thấy thiếu sót của việc buộc tội hoặc
không chứng minh được tính thiếu căn cứ của giả thiết buộc tội, có nghĩa là người bào
chữa không thực hiện được nhiệm vụ của mình.
Tóm lại, người bào chữa không có quyền hành động có hại cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, không có quyền chuyển sang quan điểm buộc tội, người bào chữa phải
thực hiện đúng chức năng là “bào chữa”, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
mình bào chữa nhưng ngược lại người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể bắt người
bào chữa hoạt động sai quy định của pháp luật, trái với lương tâm nghề nghiệp của
người bào chữa.
GVHD: Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung



Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

1.2.2.Giảm nhẹ bản án của người được bào chữa
a.Xác định rõ nhân thân của bị cáo trong vụ án hình sự
Đây là vấn đề hết sức quan trọng cho quá trình tìm kiếm những tình tiết có lợi cho
bị can, bị cáo để giảm nhẹ trách hình sự cho bị can, bị cáo. Nhân thân của bị cáo có
thể hiểu như: Hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, môi trương sinh sống, những biến
cố từng xảy ra trong cuộc sống của họ,… Nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc phạm tội
của bị can, bị cáo.
Ví dụ: Phát hiện hai thanh niên đang câu trộm chó, người dân xã Xuân Giang,
huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) hò nhau bắt lại rồi dùng hung khí đánh chết. 4 đối tượng
trực tiếp tham gia đánh chết người bị tuyên tổng mức án 20 năm tù giam.
Vào ngày 28/12/2009, Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà xét xử phúc thẩm
đối với Phan Thanh Cương (sinh năm 1958), Mai Văn Tình (sinh năm 1983), Đặng
Viết Thắng (sinh năm 1982) và Phan Văn Thiện (sinh năm 1956), đều quê ở xóm An
Tiên xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) về tội "giết người”.
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân: Vào 21 giờ ngày 22/8/2009, Phan
Thanh Cương cùng với Mai Văn Tình, Đặng Viết Thắng và Phan Văn Thiện đã chuẩn
bị dây thừng, gậy tre, ống tuýp nước tổ chức bắt người trộm chó.
Đến khoảng 23h cùng ngày, cả nhóm phát hiện hai đối tượng đi trên xe máy có
biển kiểm soát 37K- 9724 là Trần Đình Châu (trú khối I, thị trấn Nghi Xuân) và Hồ
Chí Trung (thôn Lam Thuỷ, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân) đang câu trộm chó.
Cương liền hô hoán mọi người xông ra đuổi và bắt được Châu, Trung. Ngay lập tức
Cương, Tình, Thắng, Thiện cùng nhóm người đã dùng gậy tre, ống tuýp nước đánh
chết ngay tại chỗ Trần Đình Châu, còn Hồ Chí Trung chết trên đường đi cấp cứu.
Ngày 24/9/2009, Tòa án Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã xét xử, tuyên án Phan Thanh
Cương 8 năm tù, Mai Văn Tình 7 năm tù, Đặng Viết Thắng 5 năm 6 tháng tù và Phan
Văn Thiện 5 năm 6 tháng tù về tội "giết người".11
Do đó việc người bào chữa giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tìm ra các tình tiết

giảm nhẹ liên quan đến nhân thân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là vấn đề rất
quan trọng trong việc giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Nếu không có người bào chữa thì đôi khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thuộc
một trong những trường hợp có nhân thân tốt được giảm án mà họ không biết để đề
cập với Cơ quan tiến hành tố tụng để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình nhưng
khi có người bào chữa thì những tình tiết này sẽ được người bào chữa khai thác triệt để
để giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nhiều bị
cáo nhân thân tốt, có đóng góp cho xã hội, nhưng đôi khi chỉ vì những nông nổi nhất
thời mà dẫn đến vi phạm pháp luật, nhưng họ thành khẩn nhận tội, cố gắng khắc phục
11

/>
GVHD: Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

hậu quả mình gây ra, thì họ nên có một mức hình phạt nhất định để họ sớm hoà nhập
với cộng đồng để góp phần phát triển xã hội.
b.Độ tuổi thực hiện hành vi của bị cáo trong vụ án hình sự
Theo tại Điều 12 Bộ luật hình sự có quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.” Vì việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tuỳ
thuộc vào chỉ số phát triển con người, sự phát triển của xã hội,… của từng quốc gia.
Vì theo tiêu chuẩn của người Việt Nam thì độ tuổi chưa đủ 16 tuổi tuy không phải là

còn quá nhỏ nhưng cũng chưa đủ lớn để hiểu biết và nhìn nhận những vấn đề những
tình huống xảy ra cho bản thân một cách tốt nhất. Nhưng để xác định được chính xác
độ tuổi thực hiện hành vi thì thật là không dễ dàng. Vì đôi khi những giấy tờ thường
được sử dụng để làm căn cứ chứng minh độ tuổi lại không thật chính xác, do vậy việc
xác định tuổi lại khó khăn hơn. Vì nếu trẻ dưới 16 tuổi thì pháp luật cho rằng khả
năng nhận thức hành vi của những người này còn kém, thiếu hiểu biết, hay bắt chước
người lớn hay phim ảnh chứ thật không nhận thức được tầm quan trọng và mức độ
nguy hiểm của hành vi mà mình thực hiện.
Thông thường Cơ quan điều tra lại chỉ dựa vào chúng minh nhân dân hay sổ hộ
khẩu để chứng minh độ tuổi của bị can, bị cáo (vì đây là những bằng chứng tốt nhất để
chứng minh độ tuổi). Nhưng chỉ dựa vào những dữ kiện này thì thường không thật
chính xác. Vì vậy phải xác định thật rõ ràng tốt nhất là đi giám định độ tuổi thì sẽ
tương đối chính xác và khách quan hơn cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cho
việc giải quyết vụ án được chính xác hơn.
Khi người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng thì độ tuổi thực hiện hành vi
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ được người bào chữa xem xét kỹ, vì đây là một
trong những vấn đề rất quan trọng trong vụ án. Vì chỉ cần có sự chêch lệch vài tháng
tuổi thôi thì trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có sự thay đổi rất
lớn, theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, việc xác định đúng
độ tuổi thực hiện hành vi của bị can, bị cáo mới góp phần giải quyết vụ án được chính
xác, khách quan vụ án hình sự. Cho nên người bào chữa phải dựa vào những tình tiết
đó để làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Tránh trường hợp vì bị cáo
chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà phải lãnh hình phạt.
c.Các tình tiết khác
Trong nhiều trường hợp tội trạng của bị can, bị cáo đã quá rõ ràng nhưng những
người này vẫn ngoan cố không nhận tội, không thành khẩn khai báo. Thì người bào
chữa trong trường hợp này phải giải thích cho họ hiểu hành vi của mình, mức hình
phạt mà họ có thể được nhận nếu như họ cứ chối quanh co làm mất thời gian, không
GVHD: Mạc Giáng Châu


20

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

có ý hối cải bị cáo vẫn không thành khẩn nhận tội. Nếu như họ thành khẩn nhận tội
thì sẽ hưởng được sự khoan hồng của pháp luật. Vì theo điểm p Điều 46 Bộ luật hình
sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình quy định: “Người phạm tội thành khẩn
khai báo, ăn năng hối cải;” thì sẽ được giảm nhẹ hình phạt.
Còn trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thực hiện hành vi và
thành khẩn nhận tội thì người bào chữa nên định hướng cho họ là nên bồi thường thiệt
hại cho gia đình nạn nhân hay cố gắng khắc phục hậu quả mà mình gây ra một cách
tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì theo quy định tại khoản 1 điểm b Điều 46 Bộ luật hình sự
có quy định: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục
hậu quả;” thì sẽ được giảm nhẹ hình phạt được sự khoan hồng của pháp luật vì người
phạm tội đã nhận ra mình sai và cố gắng sửa chữa những sai lầm mà người phạm tội
đã gây ra cho người bị hại.
Trong lúc vụ án đang được làm rõ thì người bào chữa là người mà người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có thể tin tưởng nhất. Nếu thật sự những chứng cứ thu thập được từ
Cơ quan điều tra, từ người bào chữa không có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thì người bào chữa phải giải thích những tình huống có thể xảy ra đối với họ, để họ
nói rõ sự thật với người bào chữa hoặc thành khẩn nhận tội (nếu có thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật). Để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được hưởng những tình tiết có
lợi nhất.
Tóm lại, với những lý luận cơ bản về bào chữa, quyền bào chữa, người bào chữa
và bản chất pháp lý của hoạt động bào chữa chúng ta cũng có thể thấy được tầm quan
trọng và sự cần thiết của người bào chữa trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt
động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng.


GVHD: Mạc Giáng Châu

21

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Chương 2

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Người bào chữa đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Vai
trò của người bào chữa thể hiện rõ nhất là trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tình nghi (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trong suốt quá trình tố tụng và
góp phần bảo vệ quá trình tố tụng được chính xác, khách quan.
2.1.Vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị tình nghi trong vụ án hình sự. Vì họ
chỉ là người bị tình nghi chứ không phải tội phạm nên pháp luật cũng quy định cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo những quyền và nghĩa vụ nhất định trong quá trình
giải quyết vụ án, và một trong những quyền quan trọng là quyền được bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa. Do đó, chúng ta cần phải làm rõ thế nào là người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo và vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.1.1.Khái niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Để tìm hiểu được vai trò của người bào chữa trong việc bảo vệ người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thì trước hết chúng ta phải làm rõ thế nào là người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Khi nào gọi người bị tình nghi là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình
tố tụng.

2.1.1.1. Người bị tạm giữ
Người bị tạm giữ: theo Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự có quy đinh: “Người bị
tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt
theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết
định tạm giữ”
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự đó là những người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, trường hợp người phạm tội tự
thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, đã có quyết định tạm giữ. Mặc
dù họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế của
cơ quan đã tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các
câu hỏi của cán bộ điều tra. Chính vì lẽ đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người
tham gia tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định.
Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị cáo, người
bị kết án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú
và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là người bị tạm giữ. Trong thời gian
tạm giữ, họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ. Quyền và nghĩa vụ của

GVHD: Mạc Giáng Châu

22

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

người bị tạm giữ được quy định cụ thể tại Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự.12
2.1.1.2.Bị can
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định
khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần

giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra
đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Toà án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một
người bị khởi tố về hình sự (khởi tố bị can), họ trở thành đối tượng buộc tội trong vụ
án, điều đó không đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội.
Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, Điều 9 bộ luật Tố tụng hình sự có quy định
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật”. Các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành
các biện pháp tố tụng nhất định đối với họ để xác định sự thật. Bên cạnh các nghĩa vụ,
bị can còn được pháp luật quy định cho các nguyên tắc tố tụng để họ có thể tự bảo vệ
mình trước các Cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình không bị xâm phạm. Các quyền và nghĩa vụ của bị can được quy định tại Điều
49 Bộ luật tố tụng hình sự.13
2.1.1.3.Bị cáo
Bị cáo là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu
12

Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ:
“ 1. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết
định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a. Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b. Được giải thích quyền và nghĩa vụ;
c. Trình bày lời khai;
d. Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ. Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e. Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.”

13
Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của bị can:“1. Bị can là người đã bị khởi tố về
hình sự.
2. Bị can có quyền:
a. Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
b. Được giải thích về quyền và nghĩa vụ:
c. Trình bày lời khai;
d. Đưa ra tìa liệu, đồ vật, yêu cầu;
đ. Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật
này;
e. Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g. Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, bản kết
luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng,
quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
h. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không
có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.”

GVHD: Mạc Giáng Châu

23

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


Vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự

lực pháp luật. Cũng như khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái niệm mang tính hình
thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng được áp dụng đối với người đó. Một người sẽ trở
thành bị cáo khi có quyết định đưa ra xét xử, quyết định đó có thể đúng cũng có thể

sai.
Vì vậy, bị cáo không đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Trên thực tế bị cáo
cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải
là người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Toà án ra
bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Bị cáo cũng có một số quyền và
nghĩa vụ được pháp luật quy định tại Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự.14
2.1.2.Hoạt động bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của người bào chữa
Sau khi tìm hiểu thế nào là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và họ có quyền và
nghĩa vụ gì trong quá trình tố tụng. Trong những quyền của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo có quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Khi có người bào chữa tham
gia vào quá trình tố tụng, thì người bào chữa sẽ có những quyền và nghĩa vụ nhất định
mà pháp luật quy định cho người bào chữa khi tham gia tố tụng với tư cách người bào
chữa. Người bào chữa sẽ vận dụng những quyền mà pháp luật trao cho để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố
tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, phúc thẩm, giám đốc thẩm.
2.1.2.1.Hoạt động bảo vệ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo của người bào chữa ở
giai đoạn khởi tố
Khởi tố là giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trước tiên
chúng ta phải xác định rõ như thế nào là khởi tố vụ án hình sự và sự tham gia của
người bào chữa trong việc bảo vệ người bị tạm giữ, bị can ở giai đoạn này.
a. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, ở giai đoạn khởi tố
cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
14

Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của bị cáo “1. Bị cáo là người đã bị Toà án quyết
định đưa ra xét xử.
2. Bị cáo có quyền:
a. Được nhân quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của

Bộ luật này;
b. Tham gia phiên toà;
c. Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
d. Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật
này;
đ. Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e. Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g. Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà;
h. Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
i. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;
k. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì
có thể bị áp giải; nếu bỏv trốn thì bị truy nã.”

GVHD: Mạc Giáng Châu

24

SVTH: Nguyễn Thị Tuyết Nhung


×