Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

phân tích khả năng áp dụng chính sách phát triển tài chính của các nước đông á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.78 KB, 25 trang )

PHẦN I. PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG Á
I. Mục tiêu, chính sách phát triển tài chính của các nước Đông Á
1. Mục tiêu của chính sách phát triển tài chính
1.1. Làm cho thị trường và các tổ chức tài chính hoạt động tốt hơn
Chức năng cơ bản của một hệ thống tài chính là làm cầu nối giữa tiết kiệm
và đầu tư. Thị trường là công cụ hữu hiệu để khuyến khích tiết kiệm, sau đó dẫn
truyền các khoản tiết kiệm này tới các hoạt động đầu tư mang lại suất sinh lời cao
nhất. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không như các loại hàng hóa thông thường khác,
tiền là một loại hàng hóa đặc biệt. Thị trường tài chính ( bao gồm thị trường vốn
và thị trường tiền tệ ), phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia
thị trường, vào sự minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi các
quy định pháp luật về điều tiết và quản lý thị trường của nhà nước. Hơn thế, đầu
tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế cũng
như kỳ vọng trên thị trường. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng một
vai trò then chốt trong việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính
hệ thống. Chẳng hạn như Đài Loan đã ban hành những quy định nghiêm ngặt về
hoạt động tích luỹ của cải thông qua việc sở hữu đất đai và đầu cơ tài chính.
Chính phủ Đài Loan và Hàn Quốc còn ngăn cấm các tập đoàn công nghiệp mở
ngân hàng, chống lại việc sáp nhập các thế lực tài chính và công nghiệp, mặc dù
những chính sách này ở Hàn Quốc sau đó bị các chaebol phá dỡ. Việc tăng lợi
nhuận của các tập đoàn công nghiệp chủ yếu thông qua nỗ lực tăng năng suất và
sức cạnh tranh chứ không phải thông qua các hoạt động tài chính hay đầu cơ.
1.2. Điều chỉnh sự phân bổ nguồn lực để đạt hiểu quả xã hội tối đa
Các nước Đông Á thực hiện một chính sách kiên trì nhiều khi đến cực
đoan trong việc theo đuổi kỹ năng, công nghệ, và tri thức tiên tiến để có thể giúp
các doanh nghiệp của mình xâm nhập thị trường sản phẩm mới và hiện đại hóa
quá trình sản xuất. Các nước này đã xây dựng các “hệ thống sáng tạo” cấp quốc
gia để tiếp thu và nâng cao năng lực công nghệ cũng như khả năng tiếp cận, điều
chỉnh, và hoàn thiện các công nghệ nhập khẩu. Họ đã sử dụng các chính sách
thương mại, tài chính, giáo dục, thuế để thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa nâng




cao kỹ năng và chất lượng sản phẩm của mình. Chính phủ Đài Loan đã đổi mới
hệ thống giáo dục để có thể cung cấp cho nền kinh tế những kỹ sư và nhà khoa
học được đào tạo bài bản. Nước này đã tạo nhu cầu cho các dịch vụ tin học bằng
cách tin học hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng các viện nghiên
cứu đẳng cấp thế giới để phát triển các công nghệ tiên phong. Công viên Khoa
học Công nghệ Hsin-Chu được thành lập để thu hút các nhà khoa học và doanh
nhân Đài Loan từ Thung lũng Silicon và các nơi khác về nước làm việc. Công ty
Chế tạo Bán dẫn Đài Loan (TSMC), một công ty đúc bán dẫn hàng đầu thế giới,
là một sản phẩm của Viện Nghiên cứu Công nghệ của Chính phủ Đài Loan, được
thành lập với sự hợp tác của Philips vào năm 1987. Trừ một số rất ít ngoại lệ đối
với doanh nghiệp thâm dụng vốn cao (như trường hợp của TSMC) thì Chính phủ
không đứng ra thành lập doanh nghiệp mà chỉ tạo điều kiện sao cho các doanh
nghiệp tư nhân có thể thành công. Các doanh nghiệp của Đài Loan đang đi đầu
trong các lĩnh vực máy tính, điện tử, và nhiều lĩnh vực khác. Trái lại, In-đô-nêxia và Thái-lan đang cố gắng thu hút một lượng lớn FDI nhưng nhìn chung lại
không tạo ra được môi trường hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài nước bước
lên những bậc thang công nghệ cao hơn. Thái-lan thành công hơn nhiều so với
In-đô-nê-xia trong lĩnh vực phụ tùng ô tô và ổ cứng máy tính, nhưng doanh
nghiệp của Thái-lan cho đến nay cũng vẫn chưa thể xâm nhập vào khâu thiết kế
và sáng tạo (là những khâu tạo ra nhiều giá trị gia tăng nhất) của những ngành
này.
2. Chính sách phát triển tài chính của Chính phủ
2.1. Thiết lập thị trường và các tổ chức tài chính
Các quốc gia Đông Á có một tầm nhìn chiến lược dài hạn và ý chí chính trị
để có thể dự báo trước và phản ứng lại với các thách thức phát triển trước khi mọi
sự trở nên quá muộn. Các nước này cũng ứng xử khá tốt trước các cuộc khủng
hoảng bất ngờ. Sự “tự chủ” của Chính phủ các nước Đông Á cho phép họ thúc
đẩy tích lũy vốn và đầu tư mà không bị chi phối và thao túng bởi các tập đoàn
kinh tế. Các nước này tạo ra được một sự cách ly giữa các nhà làm chính sách và

các nhóm lợi ích đặc biệt, nhất là đối với những nhóm cản trở phát triển công
nghiệp nhanh và bền vững.
Chính phủ thiết lập thị trường và các tổ chức tài chính. Chính phủ xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y tế, và an ninh công


cộng với một mức chi phí chấp nhận được, đồng thời thỏa mạn được kỳ vọng của
nhân dân về chất lượng. Kinh tế vĩ mô ở các nước này được điều hành một cách
thận trọng bởi những nhà chuyên môn thực sự, trong đó mục tiêu phát triển
chung của đất nước luôn được đặt lên hàng đầu.
Các nước Đông Á cũng chứng minh được rằng họ có thể tạo ra những
quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thay đổi khi cần thiết. Hàn Quốc đã phản ứng
một cách mạnh mẽ trước những yếu kém trong cấu trúc nền kinh tế mà họ nhận
ra được từ cuộc khủng hoảng 1997 và sau đó đã trỗi dậy vững vàng hơn.
Chính phủ các nước Đông Á chủ trương thượng tôn pháp luật, trong đó hệ
thống tư pháp không chịu sự chi phối của các thế lực chính trị có tính đảng phái.
Sing-ga-po, Hồng Kông là những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên dành ưu tiên
cho việc củng cố hệ thống luật pháp. Chính điều này đã tạo ra một môi trường
thuận lợi, khuyến khích giao dịch kinh tế và đầu tư. Đồng thời, việc đề cao
thượng tôn pháp luật cũng là vũ khí then chốt để chống tham nhũng.
Các nhà lãnh đạo của các nước Đông Á ra quyết định dựa trên những phân
tích chính sách có chất lượng và kịp thời. Họ cũng khuyến khích những tranh
luận thẳng thắn và cởi mở trong nội bộ Chính phủ, giữa những nhà khoa học và
trong giới kinh doanh về nội dung và đường hướng của chính sách kinh tế.
Kinh nghiệm cải cách ở Trung Quốc cho thấy quốc gia này chỉ thành công
ở trong các lĩnh vực mà tại đó họ cương quyết loại bỏ những di sản tiêu cực của
hệ thống kế hoạch hóa tập trung, đồng thời không lặp lại những sai lầm của các
nước Đông Nam Á. Chẳng hạn như, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Trung
Quốc có suất sinh lợi của đầu tư cao nhất và tạo ra gần như toàn bộ việc làm mới
cho nền kinh tế; việc chấm dứt cơ chế hai giá đã loại trừ được một kênh tham

những phổ biến, và tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã giúp tăng
cường tính kỷ luật cho các Doanh Nghiệp Nhà Nước.
2.2. Kiểm soát, giám sát hoạt động
Bên cạnh việc thiết lập thị trường và các tổ chức tài chính, Chính phủ tại
các quốc gia Đông Á thực hiện chính sách kiểm soát, giám sát hoạt động của thị
trường tài chính và các tổ chức tài chính. Ngoài ra, Chính phủ cũng thực hiện
việc kiểm soát, giám sát hoạt động của nền kinh tế để có những chính sách, biện
pháp thích hợp điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô có những bất ổn như lạm phát cao,
thâm hụt ngân sách… thì Chính phủ sẽ đưa ra những giải pháp nhằm kiềm chế


lạm phát, giảm thâm hụt và thương mại, giảm tốc độ tăng trưởng cung tiền và tín
dụng thông qua một tập hợp các chính sách được phối hợp một cách nhất quán và
nhịp nhàng…
2.3. Ban thưởng (trợ giá hay cấp tín dụng) cho các công ty tốt hay trong
các lĩnh vự ưu tiên
Đặc trưng cơ bản của mô hình phát triển Đông Á ( được thể hiện ở Hàn
Quốc, Đài Loan, Sing-ga-po ) là khả năng của nhà nước trong việc áp đặt kỷ
cương đối với các nhóm lợi ích, nhất là khi các nhóm này cản trở nền kinh tế trở
nên có tính cạnh tranh hơn. Trong mô hình Đông Á, sự ưu ái của nhà nước đối
với một doanh nghiệp phụ thuộc vào thành công trong kinh doanh chứ không
phải vào các mối quan hệ chính trị hay thân quen của nó. Chính phủ thường
xuyên từ chối ký hợp đồng, cấp tín dụng và các phương tiện khác ngay cả với
những tập đoàn có thế lực nhất về mặt chính trị khi chính phủ thấy rằng kế hoạch
kinh doanh của những tập đoàn này không khả thi, không đem lại lợi ích xã hội,
hay những dự án trước đây của chúng không được thực hiện một cách thỏa đáng.
“Chủ nghĩa tư bản thân hữu” phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á là thất bại của
nhà nước trong việc xác định một ranh giới rạch ròi giữa những thế lực kinh tế và
chính trị.
II. Các điều kiện, bài học áp dụng chính sách phát triển tài chính hiệu

quả của các nước Đông Á
1. Sự ổn định kinh tế vĩ mô
1.1. Thâm hụt Ngân sách Chính phủ được kiểm soát và lạm phát thấp
Các quốc gia Đông Á luôn có các biện pháp kiểm soát thâm hụt ngân sách
chính phủ một cách có hiệu quả nhằm kiềm chế lạm phát.
Các quốc gia Đông Á luôn lựa chọn chính sách thích hợp để đối phó với
lạm phát. Theo đó, việ c sử dụng cách tiếp cận thực dụng đối với một loạt các
chính sách có thể giúp các chính phủ kiềm chế được tác động lạm phát do giá cả
hàng hóa thay đổi liên tục và đột ngột. Các nhà hoạch định có thể sử dụng các
chính sách thúc đẩy nguồn cung và tăng tính linh hoạt của nền kinh tế khi đối phó
với sự thay đổi của giá cả hàng hóa. Bên cạnh đó, các nền kinh tế Đông Á tăng
cường hợp tác hơn nữa để đảm bảo mức độ trao đổi thương mại phù hợp về
lương thực và năng lượng cũng như các quy định quản lý thị trường hàng hóa


hiệu quả hay đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý có thể giúp điều tiết sự
biến động của giá cả hàng hóa và lạm phát.
Lạm phát ở khu vực Đông Á luôn ở mức thấp, trong giai đoạn vừa qua
thường dao động ở khoảng 3-6%. Tăng trưởng GDP chung của các nền kinh tế
Đông Á đạt 7,3% vào năm 2009 và bằng với tốc độ tăng trưởng trung bình trong
giai đoạn từ năm 2000 đến 2008. Tăng trưởng GDP thực tế lên tới 8,9% trong
khu vực năm 2010 (6,7% không tính Trung Quốc), đạt 7,9% trong năm 2011.
Đầu tư của các thành phần kinh tế tư nhân một lần nữa là động lực thúc đẩy tăng
trưởng, niềm tin gia tăng và lưu lượng thương mại trở lại mức tiền khủng hoảng.
Thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc và Đài Loan hiện nay đều vượt
mức 15.000 USD . Sự thực là trong khu vực, Hàn Quốc và Đài Loan là hai nước
duy nhất (ngoại trừ Sing-ga-po và Nhật Bản) đã thành công trong việc đưa mức
thu nhập trung bình của người dân vượt ngưỡng 10.000 USD. So với Đông Nam
Á thì các nền kinh tế Đông Á đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong
một thời gian dài hơn, và kết quả là các nước Đông Á (trừ Trung Quốc) đang

nằm trong số những nước giàu nhất trên thế giới.
Hình 1. Tăng trưởng GDP trên đầu người, 1960 - 2004


Nguồn: Những Chỉ báo Phát triển Thế giới (World Development
Indicators)
Nền kinh tế ở các nước Đông Á có sự tăng trưởng cao và bền vững. Lý do
của sự tăng trưởng cao và bền vững ở các nước này không có gì là thần kỳ. Các
nước này có nền tảng giáo dục mạnh và ổn định, có chính sách đúng đắn sẽ tăng
trưởng 8-10% một năm cho đến khi đạt thu nhập bình quân 14.000 đô la Mỹ
(GDP theo sức mua tương đương - PPP - giá năm 2000), và tại đó các nước này
tăng trưởng chậm lại vì nhiều lý do. Những điều kiện quan trọng để có tăng
trưởng cao ở các nước Đông Á:
- Dân số có trình độ giáo dục tốt ở các cấp – Đông Á xuất phát từ nền tảng
văn hóa Khổng giáo vững chắc và phát huy trên nền tảng đó;
- Tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư cao – sự dịch chuyển nhân khẩu học nhanh
chóng trong khi tỉ lệ sinh sản và tỉ lệ tử vong giảm nhanh, tạo điều kiện cho tiết
kiệm cao. Chính sách của Nhà nước là rất quan trọng trong việc đảm bảo suất
sinh lợi cao trong đầu tư, từ đó dẫn đến tiết kiệm nội địa cao để chuyển sang đầu
tư (và sẽ mang tiết kiệm nước ngoài vào thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài –
FDI);
- Định hướng mở cửa với bên ngoài (thúc đẩy xuất khẩu, FDI) chủ yếu sẽ
giúp ngành sản xuất công nghiệp phát triển nhanh chóng, vì xuất khẩu không bị
ràng buộc bởi quy mô nhỏ của thị trường nội địa;
- Việc sử dụng vốn đầu tư khôn khéo vào những hoạt động đầu tư cho
năng suất cao. Các nước giàu tài nguyên đặc biệt khó khăn khi làm việc này (ví
dụ Indonesia trong những thập niên 90 và phần lớn lục địa Châu phi), ngược lại
đa số các nước Đông Á lại nghèo về tài nguyên (ngoại trừ một số vùng ở Đông
Nam Á);
- Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định (lạm phát thấp, thâm hụt tài khoản vãng

lai ở tầm kiểm soát);
- Môi trường chính trị ổn định có lợi cho đầu tư. Bất ổn định có thể là hệ
quả của chính sách hay thay đổi, môi trường chính trị phản tăng trưởng (ví dụ chủ
trương Đại nhảy vọt của Trung Quốc), và chiến tranh cũng như nội chiến.
1. 2. Lãi suất thực được duy trì ở mức thực dương


Hầu hết các quốc gia Đông Á lãi suất thực được duy trì ở mức thực dương
có nghĩa là ở các nước này tỉ lệ lạm phát luôn thấp hơn mức lãi suất danh nghĩa
(vì Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỉ lệ lạm phát). Chính sách này đã phát
huy hiệu quả góp phần thúc đẩy hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế của
quốc gia nói chung. Chính sách lãi suất thực dương đã làm tăng tính hấp dẫn của
kênh tiết kiệm so với đầu tư vào vàng, ngoại tệ, bất động sản…, qua đó giúp tăng
nguồn vốn huy động của các ngân hàng để phân phối vốn đến các lĩnh vực có
nhu cầu, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách hài hoà và cân bằng hơn. Đồng
thời, chính sách lãi suất thực dương cũng khuyến khích người dân tiết kiệm nhiều
hơn và do đó làm tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế.
2. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để tránh tình trạng đồng tiền được
định giá cao
Ở các quốc gia Đông Á, tỷ giá hối đoái luôn được điều chỉnh để tránh tình
trạng đồng tiền được định giá cao. Việc áp dụng tỷ giá hối đoái một cách linh
hoạt có thể giúp giảm nhẹ tác động của sự tăng giá hàng hóa trên thị trường thế
giới đối với giá trong nước. Sự thay đổi tỷ giá luôn được điều tiết sao cho hợp lý
để có thể vừa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, vừa khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư sản xuất - kinh doanh, tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu;
vừa đảm bảo phục vụ cho tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn kiểm soát được lạm
phát.
Tại Trung Quốc, có thể thấy cho đến tận đầu những năm 1990, nước này
đã sử dụng các biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu như: giảm dần mức độ
kiểm soát hoạt động xuất khẩu, tạo động lực khuyến khích đối với xuất khẩu

thông qua các biện pháp điều chỉnh tỷ giá, ban hành chế độ giữ lại ngoại tệ, thiết
lập chế độ tỷ giá kép, áp dụng chế độ khoán hợp đồng ngoại thương và một loạt
các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu khác, kể cả việc sử dụng ngân sách nhà nước để
bù lỗ xuất khẩu... Những biện pháp này chủ yếu nhằm triệt tiêu bớt thiên hướng
chống lại xuất khẩu do mức bảo hộ cao đối với sản xuất trong nước và tình trạng
do đồng nội tệ được định giá cao tạo ra.
3. Các biện pháp tài chính
3.1. Đẩy mạnh tiết kiệm:
Để thực hiện chính sách phát triển tài chính một cách có hiệu quả, các quốc
gia Đông Á đã thực hiện chính sách đẩy mạnh tiết kiệm như: tiết kiệm bưu điện;


hạn chế tín dụng tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là hoạt động cung cấp những
khoản vay trung, ngắn hạn để mua hàng hóa và dịch vụ có giá trị như xe máy,
thiết bị kim khí điện máy, nhà cửa… Tín dụng tiêu dùng gồm hai hình thức là trả
góp và phi trả góp tức thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng được các ngân hàng phát hành
cho phép người tiêu dùng có thể chi tiêu mua hàng bằng thẻ tại hầu hết các cửa
hàng, nhà hàng, khách sạn… trên toàn quốc. Hạn chế cung cấp những khoản vay
tiêu dùng sẽ giúp dân chúng hạn chế tiêu dùng từ đó thúc đẩy tiết kiệm trong dân
cư, làm cho tiết kiệm quốc dân được đẩy mạnh.
3.2. Các quy định điều hành ngân hàng thận trọng làm giảm khả năng
khủng hoảng, thúc đẩy tiết kiệm lớn hơn
Các quốc gia Đông Á sử dụng và điều hành linh hoạt các công cụ chính
sách tiền tệ, tập trung ở 4 công cụ chính là lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở, tái
cấp vốn và dự trữ bắt buộc để điều tiết lượng tiền cung ứng và thanh khoản; đảm
bảo tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức cần thiết. Về lãi suất giúp
kiểm soát lãi suất ở mức hợp lý theo hướng chủ động, tích cực kiềm chế lạm
phát, kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nâng cao giá trị và mức hấp dẫn của đồng
nội tệ so với ngoại tệ, đồng thời kiểm soát được việc chuyển dịch tín dụng nội tệ
sang ngoại tệ.

Các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (điều hành lãi suất, tỷ
giá...) một cách thận trọng của ngân hàng Trung giúp giữ cho tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ năm này sang năm khác nằm trong một biên độ vừa phải (có lẽ trong vòng
5 phần trăm) kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, qua đó giảm khả năng
khủng hoảng, thúc đẩy tăng trưởng, đầu tư, từ đó thúc đẩy tiết kiệm lớn hơn.
3.3. Kiềm chế tài chính:
Các nền kinh tế Đông Á cũng khống chế lãi suất thấp hơn mức cân bằng.
Tuy nhiên, mức độ áp chế tài chính có mức độ vừa phải và thấp hơn nhiều so với
các nước đang phát triển khác. Các nước này duy trì lãi suất thấp để chuyển thu
nhập từ các hộ gia đình sang các doanh nghiệp có xu thế tiết kiệm cao hơn
Các chính sách này đã đạt hiệu quả thể hiện ở tỷ lệ tiết kiệm rất cao tại các
nước có tốc độ tăng trưởng cao.
4. Kiểm soát ngân hàng để tăng khả năng thanh toán


Chính phủ và Ngân hàng Trung ương ở các nước Đông Á đã nỗ lực không
ngừng, triển khai nhiều giải pháp điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền
tệ để kiểm soát lượng tiền cung ứng, bảo đảm khả năng thanh toán, hỗ trợ tích
cực vốn cho các tổ chức tín dụng, ổn định thị trường.
Để kiểm soát ngân hàng, tăng khả năng toán, Ngân hàng Trung ương các
nước Đông Á thực hiện các biện pháp:
4.1. Quy định an toàn về vốn
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng. Khi
ngân hàng đảm bảo được tỷ lệ này, tức là ngân hàng đã tự tạo ra một tấm đệm
chống lại những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ những người
gửi tiền. Tỷ lệ 8% cũ theo tiêu chuẩn của Basel I do Ủy ban giám sát các ngân
hàng Basel ban hành. Tuy nhiên, trên thế giới, việc áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu hiện phổ biến ở mức 12% theo tiêu chuẩn của Basel II. Theo thỏa ước mới
của Ủy ban Basel, quy định về tỷ lệ dự phòng bảo toàn vốn (capital buffer) được
đưa ra nhằm đảm bảo rằng, các ngân hàng có thể hoạt động an toàn trên thị

trường chứa đựng nhiều rủi ro. Số tiền này sẽ ngày càng lớn, khi thị trường trở
nên rủi ro hơn.
Mới đây, tại Basel (Thuỵ Sỹ), Nhóm các thống đốc ngân hàng trung ương
và người đứng đầu cơ quan thanh tra, giám sát tài chính đã họp bàn về các quy
định mới về vốn (Basel III) của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Ủy ban
Basel). Theo đó, cải cách lần này của Ủy ban Basel, tỷ lệ cổ phần phổ thông
(common equity - ở một số nước có thể coi là vốn điều lệ) tối thiểu được quy
định tăng từ 2% lên đến 4,5% trên tổng tài sản có của ngân hàng... Quy định khắt
khe hơn về vốn này đã được Nhóm các thống đốc ngân hàng trung ương và người
đứng đầu cơ quan thanh tra, giám sát thông qua, trong khi các yêu cầu cao hơn về
vốn dự trữ đối với kinh doanh và các hoạt động phái sinh, chứng khoán hóa sẽ
được đưa ra vào cuối năm 2011.
4.2. Quy định về tài sản thế chấp:
Quy định về tài sản thế chấp nhằm kiểm soát rủi ro đối với giá của TSTC
đặc biệt là BĐS. Tài sản thế chấp: BĐS là các tài sản được ưu thích do không di
chuyển được và khó sử dụng lãng phí ; hàng tồn kho và động sản có thể được sử
dụng nhưng chất lượng thấp – làm cho động sản trở nên bất động về mặt pháp
luật bằng cách tạo ra những đăng ký đặc biệt về quyền sở hữu


Tài sản thế chấp có vai trò rất lớn trong quyết định cấp tín dụng của các tổ
chức tín dụng không đơn giản vì nó là chỗ dựa tin cậy trong việc đưa ra quyết
định cấp tín dụng mà hơn thế nữa, tài sản đảm bảo có tác dụng rất tốt trong việc
ngăn ngừa sự xuất hiện của tâm lý ỷ lại sau khi cho vay.
Vấn đề hoàn trả nợ: ưu đãi người vay bằng cách làm cho người cho vay
khó thu hồi TS thế chấp làm tăng chi phí trung gian tài chính và làm giảm khả
năng cho vay các khách hàng mới ( giải pháp: cho thuê tài chính)
4.3. Các hạn chế cho vay (mang tính chất đầu cơ), mức độ tập trung rủi
ro
Rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động đầu tư nói chung, trong đó có

hoạt động cho vay của các ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi
ro lâu đời và quan trọng nhất mà các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính
trung gian khác phải đối mặt. Trên quan điểm quản lí rủi ro tín dụng là không thể
tránh khỏi, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, ngày nay
việc tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng luôn trở thành vấn đề
mang tính sống còn, là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ ngân hàng nào ở các
nước Đông Á. Vì thế ngân hàng ở các nước này đề ra chính sách hạn chế cho vay
các khoản vay mang tính chất đầu cơ và các khoản vay có mức độ tập trung rủi ro
cao.
4.4. Ngân hàng Trung ương Giám sát trực tiếp hoạt động cho vay của
các Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực
tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng
với các ngân hàng thương mại. NHTW giám sát trực tiếp hoạt động cho vay của
các NHTM. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung
ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các ngân hàng thương mại, mà thông
qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường
xuyên hoạt động của các ngân hàng thương mại nhằm: Đảm bảo sự ổn định trong
hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt
là của những người gửi tiền, trong quan hệ với ngân hàng.
Mặc dù vẫn còn có tranh luận về sự cần thiết hay sự mong muốn có việc
kiểm tra ngân hàng, thế nhưng ở gần như tất cả các nước Đông Á một hình thức
kiểm toán, kiểm tra, hay thanh tra nào đó là hết sức quan trọng đối với cả việc


thực hiện chính sách tiền tệ lẫn việc đánh giá hoạt động của những ngân hàng
được quốc hữu hóa. Vì phần lớn các ngân hàng trung ương thực sự hoạt động
như là các cơ quan bảo hiểm tiền gởi, cho nên việc thanh tra ngân hàng cũng là
bắt buộc vì mục đích thận trọng (theo Stiglitz 1994). Việc kiểm tra vì tất cả ba
mục đích trên cần phải có nhiều hơn một hệ thống kiểm toán chuẩn mực. Cụ thể

là, phải thực hiện một số phân tích định lượng về danh mục đầu tư cho vay của
một ngân hàng.
4.5. Sự điều hành thận trọng của NHTW
Sự điều hành thận trọng của NHTW tại các nước Đông Á giúp:
4.5.1. Bảo vệ NHTM khỏi sự cạnh tranh.
Do sự gia tăng số lượng các ngân hàng tư nhân và lĩnh vực ngân hàng
được mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài nên cạnh tranh giữa các ngân hàng
tăng. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày khắc nghiệt hơn với sự tham gia
của các đối thủ nước ngoài. Để có lợi nhuận, các NHTM phải vượt qua các vấn
đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự vỡ nợ có thể xảy ra đặc biệt là trong nến kinh tế đầy tính cạnh tranh như hiện
nay. Trong bối cảnh đó, NHTW xây dựng quy chế đối với các hoạt động chống
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của quốc gia mình giúp bảo vệ các NHTM
khỏi sự cạnh tranh.
Hạn chế cạnh tranh làm tăng lợi nhuận và tăng sự vững mạnh của NH
(không hoàn toàn đúng). Các NH lớn sẽ có hiệu quả trung gian tài chính cao hơn
4.5.2 Thiết lập Ngân hàng phát triển và thị trường tài chính để lấp các lỗ
hổng tín dụng
Các nước Đông Á đã Thiết lập Ngân hàng phát triển và thị trường tài
chính theo cơ chế thị trường, tự chủ trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm; thực
hiện chức năng bổ sung cho hoạt động của khu vực tư nhân, "khỏa lấp" khoảng
trống thị trường. Ngân hàng phát triển sẽ trở thành một ngân hàng phát triển chủ
động quyết định tài trợ, chủ động quyết định lãi suất và điều kiện tín dụng dựa
trên nguyên tắc thị trường.Về dài hạn, Ngân hàng phát triển sẽ đẩy mạnh huy
động các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả quản lý vốn theo hướng đa dạng hóa;
lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính; . Đồng thời, sẽ tăng cường năng
lực quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng bằng biện pháp xây dựng các giới


hạn tín dụng: nhóm ngành, nhóm khách hàng; hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ;

Kiên định tuân theo các tiêu chuẩn thương mại trong phạm vi ngành ưu tiên
4.5.3. Tăng cường tăng trưởng thông qua kiềm chế tài chính và phân bổ
tín dụng
Các quốc gia Đông Á thực hiện chính sách tăng cường tăng trưởng thông
qua kiềm chế tài chính và phân bổ tín dụng. Sự phân hạng tín dụng dựa trên “sức
khỏe” của các ngân hàng giúp dòng vốn ra nền kinh tế hiệu quả hơn. Tăng cường
công tác kiểm soát tín dụng giúp ngân hàng Trung ương giám sát được hoạt động
và kiểm soát chặt dòng vốn ra của các ngân hàng. Chỉ ở những nền kinh tế mới
nổi và các ngân hàng chưa được tự do hóa hoàn toàn dễ dẫn đến dòng vốn tín
dụng bị bóp méo khi ra nền kinh tế. NHTW các nước Đông Á phân loại ngân
hàng để có những chính sách phù hợp với từng nhóm, không có một chính sách
đồng đều. Để tránh dòng vốn đổ vào đầu cơ, năm ngoái Trung Quốc đã quy định
khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán chỉ được dùng 30% để bổ sung vốn lưu
động và trả nợ, còn lại phải đầu tư trung, dài hạn. Tháng 10-2011 Trung Quốc
còn hạ tỷ lệ này xuống 10% để doanh nghiệp muốn huy động vốn cũng phải đầu
tư dự án trung, dài hạn, tạo ra tăng trưởng dài hạn.
Bên cạnh việc phân bổ tín dung, các NHTW đẩy mạnh giám sát dự án nâng
cao khả năng trả nợ của các NHTM, các tổ chức tài chính được phân bổ vốn tín
dụng.
5. Các bài học kinh nghiệm khác:
5.1. Thúc đẩy xuất khẩu dựa vào lợi thế so sánh
Một bài học quan trọng từ Đông Á là thương mại quốc tế không chỉ tạo ra
sức ép cạnh tranh mà nó còn là một thước đo chính xác cho năng lực cạnh tranh
của các công ty nội địa. Các công ty xuất khẩu thành công của Hàn Quốc được
Chính phủ thưởng công một cách hào phóng thông qua việc ưu đãi các công ty
này trong việc thâm nhập thị trường nội địa và thực hiện các hợp đồng của Chính
phủ. Đồng thời, các công ty thất bại trong hoạt động xuất khẩu bị “trừng phạt”
một cách thích đáng. Ngay cả khi một công ty nào đó (như trong ngành đóng tàu
chẳng hạn) của Hàn Quốc được sự hỗ trợ của nhà nước thì công ty này cũng luôn
chịu sức ép phải trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Mặc dù nhiều

công cụ trong số này không còn thích hợp trong thời kỳ hậu WTO nữa nhưng
nguyên lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp thành công trên thị trường quốc tế vẫn là


một biện pháp hữu hiệu để Chính phủ khuyến khích năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Để khuyến khích xuất khẩu Chính phủ Hàn Quốc tập trung cấp tín dụng
với lãi suất thấp cho các ngành công nghiệp ưu tiên, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu, đến năm 1970, dư nợ cho vay ngành công nghiệp chế tạo chiếm 46,1% dư
nợ ngân hàng (trong đó ngành công nghiệp hóa chất và chế tạo chiếm 22,6%) .
Bản chất thành công của các nước Đông Á nằm ở khả năng của những
nước này trong việc phát triển những nền kinh tế có tính cạnh tranh quốc tế. Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đều đã từng thực hiện chính sách hỗ trợ các ngành
công nghiệp then chốt non trẻ, thế nhưng sự hỗ trợ này chỉ kéo dài trong một thời
gian ngắn, và sau đó các ngành công nghiệp này phải tự đứng trên đôi chân của
chính mình và phải có khả năng xuất khẩu. Chính sức ép phải có khả năng cạnh
tranh quốc tế là động lực thúc đẩy tăng trưởng năng suất và GDP. Ở khía cạnh
này, có thể coi Trung Quốc là một nước Đông Á vì Trung Quốc cũng đã thành
công trong việc khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm chế tạo mà không cần sử
dụng những biện pháp bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ (đã từng đóng vai
trò quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu ở một số quốc gia Đông Á khác) theo
những quy định mới của WTO. Trên thực tế, Trung Quốc bắt đầu thực hiện
những biện pháp tự do hóa thương mại như thế này một cách có ý thức thậm chí
từ trước khi gia nhập WTO để gây sức ép đối với các Doanh Nghiệp công nghiệp
nhà nước kém hiệu quả.
5.2. Khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân
Chính sách của các nước Đông Á là hạn chế sự can thiệp của nhà nước, đề
cao vai trò của khu vực tư nhân trong tăng trưởng và tạo việc làm, và hội nhập
thương mại quốc tế mạnh mẽ.
Thực tiễn phát triển của Trung Quốc trong mấy chục năm qua cho thấy, vai

trò đầu tàu trong việc tạo công ăn việc làm ở khu vực đô thị của Doanh Nghiệp
Nhà Nước đã mất đi và sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Mặc dù tốc độ tạo việc
làm mới có tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với trước vì giờ đây doanh nghiệp
chịu sức ép phải trở nên hiệu quả hơn. Cụ thể là, theo dự đoán, tốc độ tăng trưởng
việc làm trong thập kỷ tới ở Trung Quốc sẽ vào khoảng 1,4%/năm, tuy có tăng
đôi chút so với tốc độ 1,1% năm trong những năm 1990, nhưng vẫn thấp hơn hẳn
so với tốc độ 4,2% trong những năm 1980. Giải pháp tốt nhất cho vấn đề việc


làm ở Trung Quốc là phát triển khu vực dịch vụ vì hiện nay, tỷ lệ việc làm trong
khu vục này ở Trung Quốc là tương đối thấp so với các nước có mức phát triển
tương đương. Nếu khu vực này được mở cửa rộng rãi hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài thì có thể tạo thêm 40-50 triệu việc làm. Một giải pháp khác là phát
triển khu vực dân doanh. Về mặt địa lý, các doanh nghiệp dân doanh của Trung
Quốc tập trung chủ yếu ở các tỉnh ven biển. Riêng 5 tỉnh, thành phố Giang Tô,
Quảng Đông, Chiết Giang, Thượng Hải, và Bắc Kinh đã chiếm tới 54% số doanh
nghiệp dân doanh, gấp hơn 4 lần số doanh nghiệp dân doanh của tất cả các tỉnh
miền Tây cộng lại. Phát triển kinh tế dân doanh cũng là một biện pháp để cải
thiện kinh tế địa phương vì theo số liệu thống kê, tỉ lệ doanh nghiệp dân doanh
của một địa phương càng lớn thì mức sống trung bình của người dân ở địa
phương ấy càng cao.
III. Các bài học mang tính tiêu cực, vai trò của Chính phủ trong cuộc
khủng hoảng 1997
1. Các bài học mang tính tiêu cực
1.1. Tín dụng chỉ định chỉ nên thực hiện trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển, nếu kéo dài sẽ gây ra các hậu quả xấu
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, đôi khi chính sách tín dụng
chỉ định là cần thiết cho phát triển kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội, tuy
nhiên nguồn tín dụng này nếu kéo dài sẽ gây hậu quả xấu. Trong trường nguồn
vốn lớn cần đến các NHTM thì phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng của NHTM.

Các khoản vay ưu đãi, nhà nước có thể đứng ra bù lãi suất, chịu trách nhiệm về
các khoản vay này.
1.2. Quản lý chặt chẽ kỳ hạn nợ nước ngoài
Ở các nước đang phát triển, trong điều kiện khu vực kinh tế tư nhân còn
nhỏ, không đủ năng lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thì kinh tế nhà nước có
vai trò đặc biệt quan trọng. Để đạt được tốc độ phát triển nhanh, chính phủ các
nước đang phát triển thường sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, tăng chi tiêu
chính phủ, giảm thuế sẽ kích thích tổng cầu tăng, đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thực hiện chính sách tài khóa mở rộng đồng nghĩa
với việc gia tăng thâm hụt ngân sách, chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt.
Việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng trong thời gian dài sẽ làm gánh nặng
nợ lớn dần lên. Trong trường hợp tốc độ tăng thu ngân sách không theo kịp với


tốc độ tăng của các nghĩa vụ trả nợ, chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp vay
mới để trả nợ cũ. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới nguy cơ mất khả năng trả nợ
của chính phủ, nếu tổng số nghĩa vụ nợ phải trả vượt quá khả năng thu của ngân
sách.
Sự tài trợ quá mức của ngân hàng dành cho các tập đoàn, đã đẩy hệ thống
ngân hàng Hàn Quốc phải đối đầu với khó khăn nợ nước ngoài, đứng bên bờ vực
thẳm. Năm 1997, tỷ lệ bình quân nợ trên vốn của các Chaebol là 519%. Mặc dù
Hàn Quốc đã tự do hóa hệ thống tài chính của mình nhưng lại phát triển theo một
cấu trúc tài chính dễ đổ vỡ, các trung gian tài chính, các ngân hàng mới được
thành lập và chi nhánh tín thác của ngân hàng được điều tiết một cách quá lỏng
lẻo, các khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ gia tăng nhanh. Trong khi đó, các
chaebol lại tăng cường vay nợ ngắn hạn thị trường tài chính trong và ngoài nước
thông qua sự hỗ trợ gián tiếp của ngân hàng để đầu tư mở rộng quá mức năng lực
sản xuất.
Cuối cùng, chính các khoản nợ ngắn hạn không được đảo nợ khi các chủ
nợ nước ngoài cảm nhận sâu sắc sự bất an do các công ty con nợ Hàn Quốc, nợ

nần chồng chất đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng. Chính tình trạng thua lỗ đến
mức phá sản của các công ty Hàn Quốc là con nợ của ngân hàng đã trực tiếp chất
đầy thêm gánh nặng nợ khó đòi của ngân hàng Hàn Quốc.
1.3. Sự thiếu vắng các quy định tối thiểu về các tỷ lệ an toàn tài chính
Trong chính sách tài chính, tiền tệ của các nước Đông Á còn thiếu một số
quy định tối thiểu về các tỷ lệ an toàn tài chính.
1.4. Chính sách bảo hộ thương mại, thay thế nhập khẩu làm trầm trọng
các vấn đề về cán cân thanh toán và thiếu bền vững về phương diện tài chính
Các nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá ở Đông Á đã dùng các chính sách
bảo hộ để hồi sinh nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, ngày nay, các nước đang phát
triển không nên lặp lại lịch sử. Chỉ khi Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan mở cửa
thị trường của họ cho hàng hóa nhập khẩu thì nền kinh tế của họ mới thực sự tăng
trưởng vững chắc. Việc duy trì các rào cản bảo hộ chỉ làm giảm đi những thành
công to lớn này.
2. Vai trò của chính phủ trong cuộc khủng hoảng 1997


Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ
tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán,
trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều
quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng
này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.
Nguyên nhân chủ quan cuả cuộc khủng hoảng này trước hết do sự yếu kém
trong quản lý của Nhà nước của Chính phủ. Tiếp đến là do các yếu tố làm trở
ngại tới hiệu quả thị trường: thiếu thông tin, đầu cơ, tập trung rủi ro quá mức và
do tâm lý ỷ lại của Chính phủ.
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao
quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách
thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.

Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn.
Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng
vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của
chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bắt
chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm
để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm
rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo
đức.)
Xét về phương diện lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống
Bretton Woods, có ý nghĩa tích cực trong việc ổn định hóa đòng tiền nội tệ và hỗ
trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ
giá cố định trong điều kiện đồng nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền
mạnh khác cũng như cơ cấu kinh tế mất cân đối lớn dẫn đến nguy cơ khủng
hoảng. Đáng nhẽ ngay từ năm 1996, khi những triệu chứng thâm hụt tài khoản
vảng lai xuất hiện, Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác phải thực hiện chính
sách thả nổi đồng nội tệ, trả lại giá đích thực của nó, kết hợp với chính sách thắt
chặt tài chính, chác chắn nguy cơ khủng hoảng bị dập tắp. Thay vì chính chính
sách kìm giữ một cách giả tạo đồng nội tệ để thu hút vốn nước ngoài nhằm bù
đắp lỗ hỏng của tài khoản vảng lai và kiềm chế lạm phát.


Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các
nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị
đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do
hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980
và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố
định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới
lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa
(sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy

mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối
tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong
thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy
yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng.
Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng
lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai
được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà
phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng
trưởng nóng mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ ủa tất yếu là ngân
sách nhà nước bị thâm hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì củng lâm vào
khủng hoảng. Hệ thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhậy cảm và
chứa đựng nhiều rủi ro, chỉ cần một tổn thương cũng gây nên những xáo trộn lớn
trong quá trình điieù tiết kinh tế. Việc duy trì quá lâu tỷ gia hối đoái cố định đã
tạo nên kẻ hở trong hệ thống ngân hàng của các nước này. Hệ thống ngân hàng
hoạt động yếu kém dấn đến kẻ hở cho nhà đấu cơ tiền tệ vay vốn để mua ngoại tệ
kiếm lời. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật so với USD khiến cho các ngân hàng đổ
xô mua nhau mua sau đó bán lại để mua USD hưởng chênh lệch giá.
Sau lời tuyên bố từ chức của Bộ trưởng Tài chính A. Vinavan vào cuối
tháng 6/1997 khi khủng hoảng xảy ra, giới kinh doanh đầu tư mất niềm tin làm
thị trường chứng khoán Băngkok giảm xuống ở mức thấp nhất với chỉ số 482,97
điểm, giảm 14,75 điểm so với giữa tháng 6/1997. Các nhà đầu cơ bán hạ giá các
cổ phiếu và chuyển tiền ra nước ngoài để mua USD.



PHẦN II. ĐIỀU KIỆN ÁP DỰNG CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Thực trạng kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay

Năm 2011, Việt Nam đạt được những thành tựu rất đáng trân trọng, rất
đáng mừng là kiểm soát được lạm phát, cơ bản giữ được ổn định kinh tế vĩ mô.
Giá tiêu dùng tăng cao những tháng đầu năm nhưng 5 tháng vừa qua đã liên tục
có xu hướng giảm, chỉ tăng không quá 1%/tháng (tháng 8 là 0,93%, tháng 9 là
0,82%, tháng 10 là 0,36%, tháng 11 là 0,39%, tháng 12 là 0,53%); cả năm lạm
phát là 18,13%. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2011 ước đạt
674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so dự toán, tăng 20,6% so thực hiện năm 2010, tỷ lệ
động viên từ thuế và phí đạt 20,3% GDP.Đi liền với ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm
phát, hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì; chính sách an sinh xã hội tiếp
tục được bảo đảm.
Tuy bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong năm 2011, tình hình kinh
tế vĩ mô cũng còn một số yếu kém, tồn tại như: kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn
định; lạm phát mặc dù được kiểm soát, nhưng vẫn ở mức cao; lãi suất ngân hàng
vẫn còn ở mức cao (trần lãi suất huy động do Ngân hàng Nhà nước quy định là
14%) gây khó khăn cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; nợ xấu của
hệ thống ngân hàng tăng, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại khó
khăn; dự trữ ngoại hối đạt thấp, áp lực đối với tỷ giá còn lớn. Sản xuất kinh
doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện nguồn vốn tín dụng hạn hẹp,
lãi suất đã bắt đầu giảm nhưng vẫn còn cao. Thị trường chứng khoán và thị
trường bất động sản giảm sút. Đầu tư công năm 2012 sẽ hết sức khó khăn (chỉ có
180.000 tỷ đồng vốn ngân sách và 45.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ) trong khi
nhu cầu rất lớn (chỉ tính riêng các dự án đang triển khai đã gấp đôi số vốn). Đời
sống nhân dân, nhất là người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, người lao
động có thu nhập thấp và đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, vẫn tiềm ẩn những nguy cơ về an ninh trật tự, chủ quyền quốc gia...
Năm 2012 là năm bản lề trong việc thực hiện chủ trương tái cấu trúc nền
kinh tế, với 3 khâu đột phá quan trọng: Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư
công; tái cơ cấu tài chính, ngân hàng, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương
mại; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các doanh nghiệp nhà nước.



II. Điều kiện áp dụng chính sách phát triển tài chính ở Việt Nam hiện
nay
Năm 2012 Chính phủ Việt Nam tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức 6% và nếu điều kiện thuận lợi là 6,5%
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Việc kiềm chế
lạm phát trước hết phải thực hiện hiệu quả các giải pháp trong gói chính sách tiền
tệ; làm tốt công tác quản lý giá; không để mất cân đối về cung cầu hàng hóa, chú
trọng bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu tại các thời điểm và địa bàn nhạy cảm.
Bên cạnh đó quyết liệt các giải pháp hạn chế nhập siêu, kiểm soát nhập siêu
khoảng 10% (bằng năm 2011); giữ vững sự ổn định tỷ giá; giảm dần lãi suất ngân
hàng phù hợp với đà giảm dần của lạm phát.
Để thực hiện được mục tiêu đòi hỏi sự đồng bộ của các chính sách như:
1. Nâng cao tính minh bạch của ngân hàng và doanh nghiệp
Để thực hiện được mục tiêu của các chính sách trên thì nhiệm vụ hàng đầu
là cần nâng cao năng lực quản lý của các bộ, ngành, trong đó đặc biệt là Ngân
hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, cần nâng cao tính minh bạch của Ngân hàng và
doanh nghiệp.
Tính minh bạch (transparency) không chỉ giới hạn trong việc kiểm toán
báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nói đến tính minh bạch - trước hết người ta
thường nói đến tính minh bạch trong việc quản trị công ty, doanh nghiệp. Việc
minh bạch trong hoạt động quản trị sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động ổn
định và tăng trưởng vững chắc. Một doanh nghiệp có hệ thống quản trị tốt và
minh bạch bao giờ cũng có các chính sách quản trị rủi ro hích hợp.
Có quản điểm cho rằng: sự minh bạch của doanh nghiệp là một thứ tài sản
rất có giá trị đối với bản thân doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp đã tạo được
niềm tin với các nhà đầu tư, các đối tác kinh doanh..sẽ tạo điều kiện tốt cho việc
huy động vốn đầu tư, tìm kiếm đối tác kinh doanh,vay vốn ngân hàng thuận lợi
hơn; mặt khác cũng nâng cao được thương hiệu củadoanh nghiệp trên thị trường.
Ngân hàng – với tư cách là một doanh nghiệp – khi đã tạo được niềm tin với

khách hàng thì cũng sẽ có điều kiện huy động thêm một số lượng lớn tiền gửi, mở
rộng các nguồn vốn ở cả thị trường trong nước và ngoài nước...


Không minh bạch – khó tạo được niềm tin với các đối tác làm ăn. Không
minh bạch, các cổ đông và các nhà đầu tư sẽ không tin tưởng vào doanh nghiệp
và ngân hàng trong việc quản lý đồng vốn của họ ngânhàng sẽ khó quyết định
cho doanh nghiệp vay vốn – và ngược lại ngân hàng cũng khó khăn trong việc
huy động vốn vay của chính bản thân mình.
Tóm lại: sự minh bạch của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để phát triển
bền vững, làm gia tăng giá trị của các doanhnghiệp nói chung. Muốn phát triển
mạnh và bền vững, doanh nghiệp cũng như ngân hàng đều cần phải đề cao tính
minh bạch.
2. Hạn chế tín dụng chỉ đạo, tín chấp
2.1. Hạn chế tín dụng chỉ đạo
Trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay đôi khi chính sách tín dụng chỉ định
là cần thiết cho phát triển kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội, tuy nhiên
nguồn tín dụng này nên chuyển cho NHCS. Trong trường nguồn vốn lớn cần đến
các NHTM thì phải đảm bảo nguyên tắc tín dụng của NHTM. Các khoản vay ưu
đãi, nhà nước có thể đứng ra bù lãi suất, chịu trách nhiệm về các khoản vay này.
Vì vậy nên giảm thiểu tín dụng chỉ định với NHTMNN và chuyển các hoạt động
cho vay chỉ định sang ngân hàng chính sách
2.2. Hạn chế tín dụng tín chấp
Vay tín chấp là hình thức vay tiền ngân hàng và các tổ chức tín dụng được
bảo đảm bằng sự tín nhiệm, không cần có tài sản thế chấp.Tất nhiên, tài sản thế
chấp được đề cập ở đây là một tài sản hữu hình hoặc một bất động sản đầu tư.
Khái niệm trên cho thấy, vay tín chấp không phải là việc cho vay không có bảo
đảm mà cao hơn, tài sản bảo đảm là sự tín nhiệm giữa người cho vay (các ngân
hàng, tổ chức tín dụng) và người vay, thông thường là các doanh nghiệp. Sự tín
nhiệm (“tài sản” đảm bảo tiền vay) lại là loại tài sản vô hình, không thể đem đấu

giá để thu hồi vốn cho vay. Vì vậy, quyết định cho vay tín chấp của các ngân
hàng và tổ chức tín dụng cần đặc biệt cẩn trọng và vì vậy, khó khăn là lẽ đương
nhiên.
Về lý thuyết, các tổ chức tín dụng, ngân hàng đã được trao quyền tự chủ,
được quyết định cho vay tín chấp từ ngày 01/10/2004 (Luật các tổ chức tín dụng


năm 2004). Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần hạn chế tín dụng
tín chấp vì:
Một là, thị trường vốn ở nước ta còn nhỏ bé về quy mô. Cạnh tranh trong
hoạt động tín dụng còn chưa gay gắt. Vì vậy, chỉ với hình thức cho vay có tài sản
thế chấp, các ngân hàng và tổ chức tín dụng đã yên tâm và thu lợi nhuận khá cao.
Từ đó, thiết lập các quan hệ để áp dụng hình thức cho vay tín chấp chưa phải là
nhu cầu cấp bách của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Hai là, kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Song, khi xẩy
ra rủi ro trong kinh doanh, phần lớn những vụ thất thoát do không thu hồi được
vốn vay đều bị hình sự hóa. Người cho vay bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị đi
tù và chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh, thậm chí là tan cửa, nát nhà. Do đó, ít
có tổng giám đốc ngân hàng dám mạnh dạn duyệt cho vay tín chấp.
Ba là, các doanh nghiệp – khách hàng chủ yếu của ngân hàng và các tổ
chức tín dụng – cũng chưa thật chú ý đến việc bảo đảm tín nhiệm trong kinh
doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Tình trạng sử dụng tiền vay
không đúng mục đích và nguy hiểm hơn cả là vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn,
vay đảo nợ vẫn xẩy ra ở khá nhiều doanh nghiệp. Hơn nữa, thông tin về tình hình
kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp thiếu minh bạch là nguyên nhân đặc biệt
quan trọng dẫn đến các ngân hàng và tổ chức tín dụng không đủ lòng tin khi cho
vay tín chấp.
3. Xác định tỷ giá hối đoái cạnh tranh hơn
NHNN Việt Nam đã cố gắng xây dựng và điều hành một chính sách tỷ giá
hối đoái thả nổi có điều tiết, cố gắng theo sát tình hình cung cầu trên thị trường,

đồng thời vừa thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, để thực
hiện một chính sách tỷ giá hối đoái ổn định, linh hoạt trong chiến lược tăng
trưởng hướng ngoại của Việt Nam đòi hỏi phải có sự điều chỉnh hợp lý hơn nữa.
Cuộc khung hoảng tài chính tiền tệ khu vực và hàng loạt các cuộc suy thoái khác
đã cho thấy những nguy cơ tiềm tàng mà chúng ta phải đối phó; sự suy giảm sức
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giá trị thực của đồng Việt Nam v.v... Vì vậy,
Việt Nam cần xác định tỷ giá hối đoái cạnh tranh hơn.
TGHĐ sẽ phải điều chỉnh thế nào và khi nào để không gây ra những cú sốc
và không tạo kỳ vọng mất giá đồng Việt Nam. TGHĐ là giá cả đối ngoại của
đồng tiền, theo tín hiệu thị trường tỷ giá lúc lên, lúc xuống phải được xem là việc


bình thường của nền kinh tế. Còn khi tỷ giá diễn biến theo chiều hướng bất lợi,
thì bất cứ Quốc gia nào cũng cần can thiệp tỷ giá. Điểm khác nhau ở chỗ: thời
điểm can thiệp; công cụ can thiệp, mức độ can thiệp và sự giám sát của quá trình
can thiệp. Kinh nghiệm của nhiều Quốc gia trong điều hành chính sách tỷ giá cho
thấy, việc chọn thời điểm điều chỉnh với “liều lượng” hợp lý là yếu tố quan trọng,
thậm chí quyết định cho việc ổn định tỷ giá và khắc phục áp lực cộng hưởng lên
tỷ giá và thị trường. Với kinh nghiệm này, khi tỷ giá đang dần ở thế ổn định,
NHTW sẽ chủ động (tính toán một cách cụ thể) điều chỉnh tăng/giảm nếu dự báo
trong thời gian tới là cần thiết, không nên để diễn biến tỷ giá ở mức “nóng” mới
điều chỉnh, bởi điều chỉnh thời điểm này dễ gây hiệu ứng bất ổn từ tỷ giá sang
các chỉ tiêu vĩ mô khác.
4. Nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong nước
Những nền kinh tế có tỷ lệ tiết kiệm cao có tiềm năng tăng trưởng chi tiêu
tiêu dùng lớn. Nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết
kiệm tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi cho đầu
tư, phát triển. Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện CSTK “thắt lưng buộc bụng”
nhằm hạn chế lượng tiền trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỷ VND). Dồn vốn

cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án
nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng... Chính phủ còn giao các đơn vị hành
chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường xuyên 10%,
tăng cường chống thất thu thuế và nuôi dưỡng nguồn thu, cơ cấu lại các khoản nợ
và rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức đánh giá
hiệu quả hoạt động đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữa nhà
nước....
5. Chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu
Trong những năm qua, phát triển xuất khẩu đã có những đóng góp to lớn
vào công cuộc đổi mới của đất nước. Xuất khẩu đã trở thành một trong những
động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định kinh tế, xã hội như
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo.
Trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước ta còn thấp,
chính sách nhập khẩu trong thời gian qua đã tạo thuận lợi để Việt Nam tiếp cận
công nghệ tiên tiến, giải quyết sự thiếu hụt về nguyên, nhiên liệu, máy móc thiết


bị. Nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện trình độ
công nghệ của nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Người tiêu dùng được tiếp
cận hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn và tốt hơn… Vì Vậy, chúng ta cần tiếp tục thực
hiện Chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu, đồng thời cần phát huy những ưu
điểm và khắc phục những nhược điểm của chiến lược đã thực hiện.
6. Khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, ví dụ như London vượt qua khủng
hoảng là nhờ đòn bẩy từ khu vực kinh tế tư nhân. Rất nhiều công trình xây dựng
tại Anh có nguồn vốn và được xây dựng bởi các công ty tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân ở đâu cũng luôn năng động và đóng vai trò trong
sự phát triển của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, đóng góp của khu vực tư nhân với
nền kinh tế khoảng 60% GDP. Sự tăng trưởng mạnh mẽ rõ nhất là ở lĩnh vực
xuất khẩu, đầu tư và thu hút nguồn nhân lực.Vì vậy Nhà nước cần khuyến khích

sự đóng góp từ khu vực này thông qua chính sách hỗ trợ như đơn giản hóa thủ
tục hành chính, tăng cường hợp tác mô hình nhà nước, tư nhân cùng làm.


MỤC LỤC


×