Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực vĩnh yên vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.8 KB, 73 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta hiện nay thì giáo dục mầm
non được coi là bậc học quan trọng, đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ. Lịch sử giáo dục mầm non đã ghi nhận “Giáo dục
mầm non là khâu đầu tiên trong quá trình đào tạo nhân cách con người Việt
Nam với mục tiêu là: “giúp trẻ phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm
mĩ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào
lớp một (Điều 21 – Luật giáo dục 2005).
Lứa tuổi mầm non – lứa tuổi bình minh của cuộc đời, đây là độ tuổi mà
các tố chất trở nên hết sức quan trọng để về sau trẻ có thể phát triển lành
mạnh, hài hịa và tồn diện.
Ơng cha ta có câu:
“Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn trẻ thơ”
Câu ngạn ngữ đúc kết kinh nghiệm của ông cha ta đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, điều này chứng tỏ cha ơng ta từ xưa đã có ý thức nuôi dạy
con cái ngay từ khi trẻ mới lọt lịng. Tuy nhiên, trẻ nhỏ ở mỗi gia đình lại
được ni dạy khác nhau phụ thuộc vào trình độ nhận thức, điều kiện kinh
tế, truyền thống sinh hoạt của gia đình đó.
A.C Makaren đã nói “Những gì mà bố mẹ làm cho con trước 5 tuổi đó là
90% kết quả của quá trình giáo dục”, điều này khẳng định được vai trị to
lớn của bố mẹ, hay nói cách khác là vai trị của giáo dục gia đình đối với sự
phát triển của trẻ.
Đối với trẻ nhỏ, gia đình là mơi trường lí tưởng cho việc chăm sóc giáo dục
trẻ, gia đình là tổ ấm được hình thành nên bởi những người thương yêu, ruột
thịt. Sống trong gia đình trẻ được sống trong mơi trường an tồn cả về thể
chất lẫn tâm lý, chỉ có trong gia đình đứa trẻ mới được hưởng đầy đủ tình
u thương, mới có những phút vui đùa thích thú bên bố mẹ, trị chuyện thủ
thỉ với người thân, được âu yếm, vỗ về khi ăn, khi ngủ.
Người lớn trong gia đình tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với trẻ, điều này


tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục trẻ. Từ đó trẻ lớn lên, trẻ học ăn,
học nói, học làm người một cách tự nhiên và nhẹ nhàng.


Những điều trẻ học được từ sự giáo dục của gia đình sẽ quyết định đến sự
phát triển tồn diện của trẻ và theo trẻ đến hết cuộc đời. Nhận thức được tầm
quan trọng đó của giáo dục gia đình nên nhiều gia đình đã quan tâm đến việc
giáo dục trẻ trong gia đình, tuy nhiên, vẫn cịn một số gia đình lại cho rằng
trẻ cịn nhỏ, khơng biết gì nên không cần phải giáo dục, chỉ cần biết ăn, biết
ngủ là được, điều này là vô cùng nguy hiểm đối với sự phát triển của trẻ.
Để giáo dục được một đứa trẻ phát triển toàn diện cả về đức – trí – thể –
mĩ và để kết quả giáo dục trẻ trong gia đình đạt kết quả tốt thì ngồi vai trị
của gia đình một thành phần khác đóng vai trị quan trọng khơng thể thiếu đó
chính là nhà trường, mà ở đây trực tiếp là các giáo viên mầm non. Và để đạt
được kết quả cao trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ thì trước hết nhận
thức của người giáo viên mầm non phải đúng đắn, phải nhận thức hết được
tầm quan trọng của các nội dung trong chương trình. Muốn có một hành
động đúng thì trước hết phải có cái nhìn đúng đắn về vấn đề, vì vậy, nhận
thức của người giáo viên đóng vai trị là kim chỉ nam, dẫn đường cho việc áp
dụng các kiến thức vào trong giảng dạy và trả lời cho câu hỏi “dạy cái gì”,
“dạy như thế nào”.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên đặt nền móng trong sự nghiệp giáo
dục của đất nước, để có được những thế hệ cơng dân tương lai đủ đức, đủ tài
thì vai trò của người giáo viên mầm non là hết sức quan trọng. Chương trình
giáo dục đổi mới, giáo viên mầm non khơng chỉ là những người chăm sóc
mà cịn phải có trách nhiệm giáo dục trẻ, hướng dẫn để trẻ được tiếp cận với
những tri thức khoa học một cách chính xác và đơn giản nhất. Vì vậy nhận
thức của người giáo viên mầm non cũng cần phải thay đổi sao cho đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của nội dung chương trình và đáp ứng
được yêu cầu của xã hội.

Bởi vậy nhận thức của giáo viên mầm non – những người hàng ngày
trực tiếp tiếp xúc và dạy trẻ, về các nội dung giáo dục trẻ, đặc biệt là nội
dung giáo dục trẻ trong gia đình là rất quan trọng, đóng vai trị chủ đạo và
có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau
này.
Là một giáo viên mầm non trong tương lai, tơi thấy mình cần tìm hiểu nhận
thức của chính những đồng nghiệp của tơi – những giáo viên mầm non, đồng
thời cũng là những phụ huynh để biết được nhận thức của họ đã đúng, đã
phù hợp chưa, để từ đó đóng góp ý kiến cho các giáo viên, giúp họ giáo dục


trẻ tốt hơn, đẻ trẻ có thể phát triển tồn diện. Vì vậy tơi đã chọn đề tài “Tìm
hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo
trong gia đình khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đã có rất nhiều các nhà giáo dục, tâm lí cũng như các văn bản pháp luật
của nhà nước nghiên cứu về nội dung giáo dục trẻ mầm non trong gia đình
và các khía cạnh của nó.
Theo Aristot – nhà giáo dục Hy Lạp cổ đại, ông đánh giá rất cao vai trị
của gia đình trong việc giáo dục trẻ, nhất là giáo dục ban đầu.
Theo J. A. Comenxki: Muốn giáo dục trẻ em thì phải dựa vào mặt tâm lí
và sinh lí của trẻ để giáo dục.
Ở Việt Nam, mục tiêu cao cả của giáo dục gia đình được thể hiện ở
chương IV – Quan hệ giữa cha mẹ và con, Điều 34 – Nghĩa vụ và quyền của
cha mẹ trong luật hơn nhân và gia đình: “....giáo dục để con phát triển lành
mạnh về thể chất, trí tuệ, và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia
đình, cơng dân có ích cho xã hội”.
Theo PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết: “Gia đình có ảnh hưởng tuyệt đối
trong q trình phát triển của trẻ thơ, sống trong môi trường giáo dục của gia
đình trẻ được thỏa mãn mọi nhu cầu về thể chất và tinh thần để lớn lên khỏe

mạnh, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người”.
Tác giả Vũ Mạnh Quỳnh cũng đã khẳng định: “Với trẻ thơ, gia đình là
mơi trường thuận lợi để hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục bằng
tình cảm huyết thống nên khơng có một tổ chức xã hội nào có thể thay thế
được.”
Tuy nhiên vấn đề tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung
giáo dục trẻ trong gia đình khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc thì chưa có ai
nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình, để phát hiện thực trạng và tiến hành một số tác động thử
nghiệm nhằm nâng cao nhận thức của họ về các nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình.
4. Mức độ và phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu tại khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


5.

6.

7.

8.

- Nghiên cứu trên những giáo viên mầm non đang giảng dạy tại các lớp
mẫu giáo từ 3 đến 6 tuổi.
- Nghiên cứu nhận thức của họ về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong
gia đình.
Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Nghiên cứu những tài liệu liên quan đến giáo dục trẻ em, tâm lý học trẻ
em.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra và điều tra.
- Phát hiện thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo
dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của những giáo viên
mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực
Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
a. Đối tượng nghiên cứu.
- Nhận thức của giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc về
nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình.
b. Khách thể nghiên cứu.
- Những giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.
Giả thuyết khoa học.
Cùng với hình thức giáo dục trẻ ở trường mầm non, hiện nay các giáo
viên mầm non có trẻ từ 3 đến 6 tuổi đã ý thức được vị trí, vai trị của giáo
dục gia đình đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là nội dung giáo dục trẻ
trong gia đình. Song, do điều kiện kinh tế, do trình độ, do cách sống và sinh
hoạt của từng gia đình là khác nhau nên nhiều giáo viên mầm non còn chưa
nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và vai trò của các nội dung giáo dục trẻ trong
gia đình. Tuy nhiên, nếu họ được tư vấn và cung cấp nhứng kiến thức khoa
học về lĩnh vưc này họ sẽ biết giáo dục trẻ bằng những nội dung đúng đắn
nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Việc tìm hiểu nhận thức của những giáo viên mầm non về nội dung giáo
dục trẻ trong gia đình là rất quan trọng và cần thiết, trên cơ sở tìm hiểu sẽ
phát hiện ra những nhận thức tích cực và tiêu cực của giáo viên mầm non về
nội dung giáo dục trẻ trong gia đình. Từ đó tư vấn những nội dung giáo dục



đúng đắn, phù hợp giúp họ chăm sóc, giáo dục trẻ đúng đắn, khoa học, tạo
cơ sở để trẻ phát triển tồn diện.
9. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp trị chuyện.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích kết quả.
- Phương pháp thống kê tốn học.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
10.Dự kiến cơng trình nghiên cứu.


MỞ ĐẦU
Chương 1: Cỏ sở lý luận.
1.1. Nhận thức là gì?
1.2. Giáo dục là gì?
1.3. Giáo dục gia đình là gì?
1.4. Vai trị của giáo dục gia đình đối với tuổi mầm non.
1.5. Đặc điểm tâm lí của lứa tuổi mầm non.
1.6. Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình.
Chương 2: Thực trạng nhận thức của giáo viên mầm non khu vực Vĩnh
Yên – Vĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình.
2.1. Một số nét khái quát về khách thể nghiên cứu.
2.2. Nhận thức của giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc về nội
dung giáo dục trẻ trong gia đình.
2.2.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục thể chất cho trẻ
mẫu giáo trong gia đình.
2.2.2. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục xúc cảm, tình
cảm; giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.

2.2.3. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục tinh thần hợp
tác, giúp đỡ những người xung quanh; giáo dục các tính cách tốt và giáo dục
đạo đức cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.
2.2.4. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục giới tính cho
trẻ mẫu giáo trong gia đình.
Chương 3: Một số tác động thử nghiệm nhằm nâng cao nhận thức về nội
dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình của những giáo viên mầm non
khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.
3.1. Mục tiêu thử nghiệm.
3.2. Nội dung thử nghiệm.
3.3. Kết quả của quá trình nghiên cứu.
Kết luận và kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.
Trưng cầu ý kiến.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.

1.2.

Nhận thức là gì?
Để phản ánh hiện thực khách quan, con người không chỉ bày tỏ thái
độ của mình với nó mà trước hết là nhận thức về thế giới đó. Để có một
hành vi văn hóa đẹp, biết tơn trọng lễ phép với người lớn, thể hiện bằng
cử chỉ, hành động, lời nói thì trước hết chúng ta phải nhận thức được
người lớn là những người trên, là người lớn tuổi hơn mình. Những hiện
tượng tâm lí của con người (cảm giác, tri giác, tư duy....) nhằm phản ánh
hiện thực khách quan, gọi là hoạt động nhận thức của con người. Hoạt
động này mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan

(hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, khái niệm). Nhận thức là một trong
ba mặt của đời sống tâm lí con người.
Theo quan điểm triết học Mac – Lenin, nhận thức là quá trình phản
ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có
tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn.
Còn theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện
chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ
đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Giáo dục là gì?
Theo quan điểm của học thuyết Mac – Lênin: “ Bản chất của con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, như vậy, con người và xã hội
không tách rời nhau, xã hội muốn phát triển cần dựa vào giáo dục, giáo
dục góp phần làm cho xã hội phát triển thơng qua sản phẩm của nó – đó
là những con người có nhân cách.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” (của Viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ
điển học, NXB giáo dục, 1994, trang 379) có ghi “ Giáo dục là hoạt
động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất như ta yêu cầu đề ra”.
Quá trình giáo dục là một quá trình hoạt động phối hợp tương tác giữa
người giáo dục và người được giáo dục, được tổ chức một cách có mục
đích, có kế hoạch. Dưới sự chỉ đạo của người giáo dục, người được giáo


1.3.

1.4.

dục tự giác, tích cực và tự lực nắm vững hệ thống quan điểm, niềm tin,
thái độ và hình thành hành vi, thói quen hành vi phù hợp với các chuẩn

mực đạo đức.
Giáo dục gia đình là gì?
Giáo dục gia đình được hiểu là tồn bộ những tác động của gia đình
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, trước hết là
của lớp trẻ.
Không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách đầy đủ và vững bền
nếu khơng có một mơi trường giáo dục gia đình thuận lợi. Bởi vì gia
đình là thể chế đầu tiên, quan trọng nhất in dấu lên nhân cách đang hình
thành vào lứa tuổi cịn non dại, khi trẻ em chưa có ý thức về điều đó.
Những mối quan hệ của trẻ em với môi trường nguyên thủy này, đặc
biệt là bố và mẹ, quyết định phương thức ứng xử, nhất là về mặt tình
cảm mà chúng trải qua sau này trong những mối quan hệ với những cá
nhân khác. Một mối liên hệ tốt với bố mẹ, nhất là với người mẹ nếu
được coi là “tốt” sẽ đem lại cho trẻ sự phấn chấn, tin cậy, lòng biết ơn
và sự hào hiệp sau này. Còn như mối liên hệ ấy bị trẻ coi là “xấu” thì sẽ
đem lại cho chúng nỗi lo sợ bị mất đi cái đang có, sự bất an, sự ganh tức,
sự nghi ngờ, thậm chí cả sự co mình lại kiểu tinh thần phân lập.
Vai trị của giáo dục gia đình với tuổi Mầm non.
Tổ ấm gia đình là “cái nơi”, là một bến đỗ để từ đó con người bước ra
ngồi xã hội. Một trong những chức năng cơ bản, quan trọng của gia
đình – đó là chức năng ni nấng và giáo dục con cái. Nếu con người
sinh ra mà không được ni nấng, dạy dỗ trong một gia đình thật sự thì
khó có điều kiện trở thành người bình thường. Nếu từ nhỏ con người
không được giáo dục đầy đủ thì lớn lên sẽ trở thành “hoang dã” khơng
có gia giáo, nề nếp:
“Bé không vin, cả gẫy cành”.
Giáo dục gia đình có tác động mạnh mẽ, có ý nghĩa sâu sắc với trẻ thơ
và có ý nghĩa to lớn của cả cuộc đời con người ngay cả lúc trưởng thành
đến khi về già. Trong giáo dục trẻ em, người mẹ có ảnh hưởng rất lớn
đến những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách và năng lực của con

cái. Cho nên trong cuốn “ Tình huống giáo dục gia đình” của Xecmiacer
có viết “ Có một thực tế lạ lùng là phần lớn những thiên tài đều có


những bà mẹ tuyệt vời và họ nhận được ở người mẹ nhiều hơn là ở
người cha”.
Hơn nữa, giáo dục gia đình có nét đặc thù riêng mà giáo dục nhà
trường và giáo dục xã hội khơng có, đó là giáo dục gia đình dựa vào tình
yêu thương của những con người ruột thịt, quan hệ trong gia đình là
quan hệ huyết thống. Con cái trong gia đình ln được ông bà, cha mẹ
quan tâm, sẵn sàng hy sinh cả về vật chất lẫn tinh thần để tạo thuận lợi
cho việc giáo dục con cái nên người. Vì vậy, giáo dục gia đình là nền
giáo dục tồn diện nhất. Gia đình là mơi trường văn hóa đầu tiên của con
người, đó là dịng văn hóa bắt nguồn từ lịng nhân ái của người mẹ, do
đó gia đình là mơi trường rất phù hợp với sự phát triển của trẻ thơ. Sống
trong gia đình hàng ngày trẻ được “học ăn, học nói, học gói, học mở”...
cũng tức là học làm người một cách tự nhiên và nhẹ nhàng.
Quãng thời gian thơ ấu là thời kì rất dễ uấn nắn và có nhịp độ phát
triển rất nhanh. Nhịp độ phát triển nhanh như vậy sẽ không bao giờ thấy
ở những năm tháng về sau nữa. Đúng như L.N. Tônxtôi đã nhận định khi
nhấn mạnh ý nghĩa của thời kì đó, rằng: “ Tất cả những gì mà đứa trẻ
sẽ có sau này khi trở thành người lớn đều thu nhận được trong thời
thơ ấu. Trong quãng đời còn lại những cái mà nó thu nhận được chỉ
đáng một phần trăm những cái đó mà thơi”. Như vậy, thời thơ ấu sống
trong gia đình là thời kì phát huy tốt nhất những tố chất ưu điểm của trẻ.
Vì vậy, vai trị của gia đình càng trở nên quan trọng hơn lúc nào.
Giáo dục trẻ tuổi mầm non trong gia đình chỉ đạt được hiệu quả tốt
khi các thành viên trong gia đình đều hiểu được tầm quan trọng của gia
đình và trách nhiệm lớn lao đối với xã hội.
Cần nhận thức được rằng: dạy một đứa trẻ trở thành người tốt sẽ dễ

hơn rất nhiều cải tạo một đứa con hư trở thành một người bình thường.
Giáo dục trẻ trong gia đình là một khoa học và là một nghệ thuật, nó
mang ý nghĩa thời sự, nó ln nảy sinh những điều mới mẻ nên địi hỏi
các gia đình phải ln khám phá, tìm hiểu.
1.5. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi mầm non.
1.5.1. Đặc điểm tâm lí của trẻ 3 – 4 tuổi.
Như chúng ta đã biết, cuối tuổi ấu nhi ( tuổi lên 3) ở trẻ xuất hiện một
mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa một bên là tính độc lập đang được phát
triển mạnh , muốn tự mình làm tất cả mọi việc như người lớn với một


bên là khả năng còn quá non yếu của trẻ, khơng thể làm được những
việc đó. Trong trường hợp này người lớn khơng thể dùng biện pháp cấm
đốn, vì như vậy là ngăn chặn bước phát triển của trẻ.
Tình trạng trẻ em ln địi hỏi “để con làm lấy” đã dẫn đến hiện tượng
khủng hoảng. Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ phải tìm đến một hoạt
động mới: khơng làm được mọi việc thật như người lớn thì trẻ làm giả
vờ (tức là làm chơi) vậy. Do đó trị chơi đóng vai theo chủ đề xuất hiện.
Những phẩm chất tâm lí và những đặc điểm nhân cách của trẻ được
phát triển mạnh mẽ, nhất là trong hoạt động vui chơi. Trị chơi đóng vai
theo chủ đề khơng chỉ có ý nghía quyết định đến sự phát triển trí tưởng
tượng của trẻ, mà còn tác động rất mạnh đến đời sống tình cảm của trẻ.
Mối quan hệ người – người được phản ánh trong trò chơi, những rung
động, thái độ buồn rầu, vui vẻ gợi lên ở trẻ. Qua trò chơi, trẻ cịn được
hình thành những phẩm chất, ý chí như tính mục đích, tính kỉ luật, tính
dũng cảm. Nếu trẻ đóng vai người lính gác thì phải thực hiện tính kỉ luật
nghiêm minh, vào vai lái xe thì phải bình tĩnh, nhanh nhẹn.... Vì vậy mà
A. C. Makarenco đã viết “Trị chơi có một ý nghĩa quan trọng đối với
trẻ, đứa trẻ thể hiện như thế nào trong trò chơi thì sau này nó cũng thể
hiện như thế trơng cơng việc. Vì vậy, một nhà hoạt động trong tương lai

trước tiên phải được giáo dục trong trị chơi”.
Tuy nhiên, vì mới chuyển sang vị trí chủ đạo nên hoạt động vui chơi
chưa thể đạt tới dạng hoạt động chính thức, mà chỉ mới ở dạng sơ khai
của nó. Chính vì vậy mà hoạt động vui chơi ở tuổi mẫu giáo bé có những
đặc điểm sau đây:
Do vốn sống của trẻ cịn q ít ỏi nên việc mơ phỏng lại đời sống xã
hội của người lớn còn rất bị hạn chế. Những mảng cuộc sống đưa vào
trong trò chơi chưa nhiều, chưa rộng, chỉ mới quanh quẩn với những sự
việc gần gũi với trẻ như trò “ mẹ con”, trò “ cơ giáo ở lớp mẫu giáo” hay
trị “ khám bệnh”..... Có thể nói rằng chủ đề và nội dung chơi của trẻ
mẫu giáo bé còn chật hẹp và nghèo nàn.
Nét đặc trưng của trị chơi đóng vai theo chủ đề là ở chỗ trẻ cần phải
hoạt động cùng nhau để mô phỏng lại những hoạt động của người lớn
trong xã hội. Nhưng ở tuổi mẫu giáo bé trẻ chưa quen phối hợp hoạt
động với nhau. Trò chơi với đồ vật ở tuổi ấu nhi còn để lại dấu ấn khá
đậm trong hoạt động vui chơi của trẻ, cho nên, tuy hoạt động vui chơi (


thực chất là trị chơi đóng vai theo chủ đề) được chuyển sang vị trí chủ
đạo nhưng vẫn bị hoạt động chủ đạo cũ – hoạt động với đồ vật chi phối
mạnh.
Sở dĩ trị chơi đóng vai theo chủ đề giữ vai trị chủ đạo ở tuổi mẫu
giáo là vì trước hết nó giúp trẻ thiết lập những mối quan hệ với nhau
(quan hệ thực lẫn quan hệ chơi). Người ta chỉ có thể trở thành một nhân
cách khi được sống trong những mối quan hệ của con người, cũng là lúc
sống trong xã hội. ở tuổi mẫu giáo bé, khi mà trị chơi đóng vai theo chủ
đề vừa mới xuất hiện và cịn rất non yếu, nó vẫn tạo ra ở trẻ một cấu tạo
tâm lí mới, một nhân cách với cấu trúc còn hết sức đơn giản, nhằm xác
định một nền tảng nhân cách rõ ràng ở mỗi đứa trẻ. Do đó việc tập trung
sinh lực để làm cho hoạt động vui chơi phát triển mạnh mẽ, đó là một

cơng việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa giáo dục lớn lao.
1.5.2. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 4 – 5 tuổi.
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ việc chơi trong nhóm bạn bè là một nhu cầu bức
bách đối vởi trẻ, từ đó “xã hội trẻ em” được hình thành. Nỗi đau khổ,
điều làm cho trẻ buồn rầu, ỉu xìu là thiếu bạn bè cùng chơi. Nếu người
lớn không thấy được nhu cầu ấy của trẻ để tạo điều kiện cho trẻ cung
chơi với nhau thì đó là một sai lầm trong giáo dục. Tính a dua trở thành
một tật xấu trong nhân cách của trẻ nếu người lớn không kịp thời hướng
dẫn cho trẻ biết nhận xét một cách độc lập về các sự việc xảy ra xung
quanh trẻ.
Tư duy của trẻ mẫu giáo nhỡ có sự phát triển mạnh mẽ của tư duy trực
quan hình tượng. Trẻ đã bắt đầu đề ra cho mình những bài tốn nhận
thức, tìm tịi cách giải thích những hiện tượng mà trẻ nhìn thấy. Phần lớn
trẻ mẫu giáo nhỡ đã có khả năng suy luận.
Tư duy trực quan – hình tượng phát triển mạnh mẽ giúp trẻ giải được
nhiều bài tốn thực tiễn trong cuộc sống. Tuy nhiên, vì chưa có khả năng
tư duy trừu tượng nên những điều mà trẻ suy luận mới chỉ dừng lại ở các
hiện tượng bên ngoài mà chưa đi vào bản chất bên trong. Do đó, nhiều
khi trẻ giải thích các hiện tượng một cách ngộ nghĩnh: Một cháu bé đi
tắm biển, nếm thấy nước biển mặn liền hỏi: “Ai cho muối vào biển thế”.
Tư duy trực quan – hình tượng phát triển mạnh đó là điều kiện thuận
lợi nhất để trẻ cảm nhận tốt những hình tượng nghệ thuật được xây dựng


nên các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp trẻ tạo ra những tiền đề cần
thiết để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy – trừu tượng.
Đời sống tình cảm của trẻ phát triển mạnh mẽ, trẻ thèm khát sự trìu
mến, yêu thương của người lớn, đồng thời rất lo lắng trước thái độ thờ ơ,
lạnh nhạt của những người xung quanh, đáng lưu ý là sự bộc lộ tình cảm
mạnh mẽ của trẻ với những người xung quanh, trước hết là với ông bà,

bố mẹ, những người thân. Trẻ rất thích quan tâm đến những bạn trong
lớp, trong nhóm, các em nhỏ. Chẳng hạn như trẻ sẵn sàng chia sẻ đồ
chơi hay quà bánh của mình cho bạn và thể hiện sự đồng cảm khi trẻ gặp
khó khăn, ta nghe trẻ nói “đừng địi đồ chơi của bạn Dũng vì bạn đang bị
đau chân đấy”.
Những tình cảm của trẻ với người thân cũng dễ dàng được trẻ chuyển
vào những nhân vật trong các câu truyện cổ tích hay các truyện kể khác.
Trẻ thơng cảm với nỗi bất hạnh của nhân vật trong truyện chẳng khác gì
nỗi đau bất hạnh có thực của mình.
Tình cảm của trẻ khơng chỉ biểu lộ với người thân thích hay nhân vật
trong truyện mà cả với động vât, cỏ cây, đồ chơi, đồ vật và các hiện
tượng thiên nhiên. Trẻ thường gắn cho chúng những sắc thái tình cảm
của con người.
Ngoài ra, đây cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ tình cảm thẩm mĩ
của trẻ, trẻ rất dễ sung sướng, ngỡ ngàng khi nhìn thấy một bơng hoa
tươi thắm, một cánh bướm sặc sỡ... Giáodục thẩm mĩ cho trẻ lúc này sẽ
mang lại hiệu quả to lớn cho giáo dục ác mặt khác, đặc biệt là giáo dục
đạo đức.
1.5.3. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 5 – 6 tuổi.
Đây là lứa tuổi chuẩn bị bước váo trường phổ thông. Ở giai đoạn này,
những cấu tạo tâm lí đặc trưng của con ngườ được hình thành trong giai
đoạn trước đây, đặc biệt là trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ vẫn được tiếp tục
phát triển mạnh. Với sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm lí
đó sẽ được hoàn thiện, tạo cơ sở ban đầu cho sự phát triển nhân cách sau
này.
Trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, nhưng vẫn còn nhiều trẻ phát âm
ngọng, dùng từ sai, nói năng chưa đúng, chủ yếu là trẻ học lỏm của
người lớn hay bắt chước. Do đó, ở gia đình cũng như ở trường mầm non



cần coi trọng việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nội
dung quan trọng nhất của giáo dục mầm non.
Trẻ cũng bắt đầu ý thức được về giới tính của mình, trẻ khơng chỉ
nhận ra mình là trai hay gái, mà cịn biết rằng nếu mình là trai hay là gái
thì hành vi phải thể hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính của
mình. Do đó những nhận xét, đánh giá của trẻ cũng bắt đầu mang sắc
thái giới tính. Trẻ thường nói “con trai mà lại khóc à ”, hay “ con gái mà
lại đánh nhau à?”.
Trẻ bắt đầu hiểu mình là người như thế nào, có những phẩm chất gì,
mọi người cung quanh đối xử với mình ra sao, và tại sao mình lại có
hành động này hay hành động khác... Trẻ bắt đầu đánh giá người khác,
nhưng ban đầu sự đánh giá này cịn bị tình cảm, xúc cảm chi phối mạnh
mẽ, chẳng hạn, mọi đứa trẻ thường đáng giá rất tốt về mẹ của mình.
Trẻ biết điều khiển hành vi của mình theo mục đích đã định, sự tập
trung, tính bền vững của chú ý tăng lên. Điều đó được thể hiện ở thời
gian chơi được tăng lên, đặc biệt khi trẻ xem tranh. Ngôn ngữ phát triển
cũng giúp trẻ biết điều khiển sự chú ý của mình, biết tự giác hướng sự
chú ý của mình vào những đội tượng nhất định.
Nhu cầu nhận thức của trẻ phát triển mạnh, hoạt động vui chơi không
thỏa mãn nhu cầu này, trẻ phải tìm đến một hoạt động mới – đó là hoạt
động học tập. Vì vậy, việc chuẩn bị tâm lí cho trẻ đến trường phổ thông
là việc làm quan trọng.
1.6. Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình.
1.6.1. Giáo dục thể chất.
Trẻ mẫu giáo, quá trình sinh trưởng và phát triển diễn ra nhanh, quá
trình trao đổi chất diễn ra mạnh mẽ, do vậy nhu cầu dinh dưỡng của trẻ
là rất lớn. Gia đình cần phải cung cấp đầy đủ, hợp lí các chất dinh
dưỡng: Prootit, Lipit, Gluxit, nước, muối khống và vitamin cho trẻ.
Đồng thời gia đình cần tạo điều kiện cho trẻ được vận động (chạy
nhảy, leo trèo, chui, trườn, bò...), tổ chức cho trẻ được vui chơi, đặc biệt

là các trị chơi đóng vai theo chủ đề, cách nhập vai và các hành động phù
hợp với vai chơi.
1.6.2. Giáo dục xúc cảm, tình cảm cho trẻ.


Giáo dục trẻ biết nhận thức chính xác những xúc cảm của mình và nói
ra được bằng lời, tìm cách giải tỏa và nhận biết chính xác xúc cảm của
những người xung quanh.
Biết kính trọng, thương u ơng bà, cha mẹ: lấy nước, thuốc khi ông
bà, cha mẹ đau yếu....
Giáo dục trẻ biết đồng cảm, thông cảm với những người xung quanh,
biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với những người xung quanh bằng việc
làm vừa sức như: chơi với các em nhỏ hơn, chia đồ chơi cho em, không
quấy khóc khi mẹ mệt mỏi...
Gia đình cần phải giáo dục trẻ có nhu cầu muốn giúp đỡ những người
xung quanh khi họ gặp khó khăn, bện tật, nghĩa là gia đình cần phải giáo
dục trẻ có tình cảm trong sáng, lành mạnh, đúng đắn, biết yêu thương
những người ruột thịt và mọi người xung quanh.
1.6.3. Giáo dục tinh thần hợp tác, giúp đỡ những người xung quanh.
Trong gia đình cần cung cấp cho trẻ những kiến thức về sự hợp tác và
sự kết hợp nhiều người trong hoạt động chung nhằm đạt được mục đích
chung. Nhờ sự hợp tác mà nhu cầu cảu bản thân được thỏa mãn nhiều
hơn, tốt hơn, hoạt động cảu bản thân được thực hiện nhanh hơn, kết quả
hoạt động đạt ở mức cao hơn làm một mình.
Sự hợp tác có thể giữa mẹ và con, giữa những thành viên trong gia
đình với em bé . Trong gia đình, giáo dục năng lực hợp tác cho trẻ là
thuận lợi nhất, bởi giáo dục thông qua nhu cầu và quá trình thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản, ví dụ: nếu trẻ giúp cha mẹ, anh chị làm việc này
thì trẻ sẽ được đi chơi, đi xem phim.... Những phần thưởng này nhằm tạo
động cơ cho trẻ, khuyến khích trẻ có tinh thần hợp tác với mọi người.

Đơi khi cũng cần đưa trẻ vào những tình huống khó xử để dạy trẻ hợp
tác với mọi người xung quanh: trẻ muốn xem đồ chơi của bạn, muốn
tham gia chơi cùng bạn mà bạn không cho trẻ chơi....
Các phương tiện để hợp tác, giao tiếp với mọi người xung quanh:
phương tiện ngơn ngữ, phương tiện vật chất, hoặc bằng kí hiệu ngôn
ngữ: cử chỉ, nét mặt, điệu bộ...
Tất cả những việc làm trên sẽ tạo thành thói quen tốt, nét tính cách tốt
trong nhân cách của trẻ sau này. Chính gia đình là mơi trường giáo dục
tình đồn kết, thương yêu, sự hợp tác với mọi người cho trẻ thuận lợi
nhất.


1.6.4. Giáo dục các tính cách tốt cho trẻ.
 Sự cơng bằng:
Trong gia đìnhphải quan tâm, chăm sóc và ni dưỡng giáo dục
trẻ để đáp ứng những nhu cầu cần thiết của trẻ, thỏa mãn mong muốn
được cư xử công bằng và được quan tâm như mọi người trong gia
đình.
Tuy nhiên, có những hồn cảnh, những tình huống, những giai
đoạn trẻ không được đối xử công bằng như: mẹ mới sinh em bé nên
mẹ sẽ dành tình cảm, thời gian nhiều hơn cho em bé, lúc này đòi hỏi
những người lớn trong gia đình phải thay mẹ quan tâm, chăm sóc, trị
chuyện với trẻ, tạo ra sự cơng bằng để trẻ cảm nhận được trẻ vẫn
được mọi người yêu thương, quan tâm.
 Lịng can đảm:
Gia đình cần giáo dục cho trẻ biết đương đầu với những khó khăn,
thử thách, dám chấp nhận thất bại để đi đến thành công. Giáo dục trẻ
không nên sợ hãi trước những thay đổi của cuộc sống mà hãy bình
tĩnh suy nghĩ và tìm cách giải quyết.
 Sự chăm chỉ.

Trẻ mẫu giáo đã có thể tham gia một số công việc nhỏ để tự phục
vụ mình và giúp đỡ những người xung quanh. Bởi vậy, gia đình cần
giáo dục trẻ tích cực và chăm chỉ tham gia những công việc phù hợp
với trẻ như: quét nhà, tưới hoa..., qua đó hình thành ở trẻ thói quen
chăm chỉ, thích được làm việc, thích giúp đỡ mọi người.
Đặc biệt, cần giáo dục trẻ khi tham gia công việc cần phải có trách
nhiệm, làm có kết quả và cố gắng đạt kết quả tốt, tạo niềm tin với
mọi người xung quanh, ví dụ: khi rửa tay chân phải rả sạch sẽ, khi
quét nhà phải quét sạch...
Tuy nhiên, ban đầu trẻ có thể chưa quen hoặc chưa làm đến nơi
đến chốn, nên rất cần ông bà, cha mẹ làm mẫu và nhắc nhở để trẻ
thích lao động với tinh thần và trách nhiệm cao.
 Giáo dục trẻ có sự tơn trọng và tự hào:
Gia đình cần giáo dục trẻ có thái độ hành vi lễ phép, khiêm tốn
trong ứng xử, khơng nói tục, khơng nói bậy, nói trống khơng, khơng
có thái độ cáu gắt, khó chịu với người trên. Muốn vậy gia đình cần là


tấm gương cho trẻ, cần tôn trọng trẻ và tôn trọng những thành viên
khác trong gia đình.
Trẻ mẫu giáo đã xuất hiện niềm tự hào khi được cô giáo, bố mẹ
khen ngoan giỏi, thông minh hay khi trẻ làm được việc khó, giỏi hơn
các bạn khác... Muốn giáo dục niềm tự hào, gia đình nên giao cho trẻ
những cơng việc mà trẻ cần phải có sự cố gắng mới làm được, chẳng
hạn như: quét nhà, tưới cây, trông em, trông nhà.... Khi thực hiện trẻ
hứng thú, tò mò, điều này có tác động tích cực để xây dựng các thói
quen hành vi đạo đức cho trẻ.
1.6.5. Giáo dục hành vi giới tính.
Trẻ mẫu giáo đã biết hành động phù hợp với giới tính của mình, ví dụ:
trẻ gái chơi búp bê, trẻ trai chơi đá bóng. Việc giáo dục hành vi giới tính

cho trẻ mẫu giáo chính là giúp trẻ học tâp, bắt chước và lĩnh hội kiểu
hành vi con người để trẻ thành người phù hợp với giới tính của mình. Cụ
thể: trẻ em gái phải nhẹ nhàng, duyên dáng, biết nhường nhịn, biết quan
tâm đến mọi người…, trẻ trai phải mạnh mẽ, quyết đoán, đá nghĩ, dám
làm....
Giáo dục hành vi giới tính diễn ra nhanh, mạnh và có sức thuyết phục
rất lớn từ gia đình. Thơng qua hành vi mẫu cảu mẹ và cua cha mà trẻ trai
bắt chước cha, trẻ gái bắt chước mẹ, để từ đó trẻ học được, nhập tâm
được các hành vi ứng xử phù hợp với giới tính.
Gia đình nên giao cho trẻ những cơng việc địi hỏi trẻ phải thực hiện
các cơng việc theo giới, ví dụ: con gái giúp mẹ làm nội trợ: nhặt rau, rửa
rau...., con trai cùng bố sửu chữa đồ đạc... , lựa chọn trang phục, giầy
dép, cắt tóc phải phù hợp với giới tính của trẻ.
Gia đình cần nhắc nhở, sửa chữa, uốn nắn những hành vi khơng phù
hợp với giới tính của trẻ, nếu để thành thói quen sau này sẽ rất khó sửa.
Cần thường xuyên khích lệ, khen ngợi những hành vi phù hợp với các
chuẩn mực hành vi giới tính ở trẻ, để trẻ sớm nhận thức được hành vi
tốt, xấu, nên và không nên, để từ đó trẻ điều chỉnh hành vi của mình phù
hợp với chuẩn mực xã hội.
1.6.6. Giáo dục thẩm mĩ trong gia đình.
Trẻ 3 – 6 tuổi đã hình thành tình cảm thẩm mĩ. Trẻ xuất hiện những
rung cảm, xao xuyến...với những cái đẹp: bông hoa đẹp, tiếng chim hót,
mặt trời, bình minh đang lên...


Gia đình cần giáo dục trẻ co cách cảm thụ cái đẹp, thích cái đẹp và
biết bảo vệ cái đẹp, từ đó kích thích ở trẻ óc thẩm mĩ. Trong gia đình
nên thường xuyên cắm hoa, trồng hoa, trồng cây cảnh, trang trí phịng
khách, phịng ngủ...hợp thẩm mĩ.
Gia đình cần cho trẻ tiếp xúc với những lời nói, hành vi đẹp, bài hát,

bản nhạc hay giúp trẻ hình thành khả năng thưởng thức nghệ thuật và có
tâm hồn nghệ thuật.
Gia đình nên động viên và cho trẻ tham gia vào những hoạt động
trang trí nhà cửa trong ngày lễ, tết hay khi trong gia đình sắp diễn ra một
hoạt động vui chơi nào đó, có thể cho trẻ tham gia vào những công việc
nhỏ như: măc quần áo, chọn giầy dép, chải đầu tóc, soi gương...và khen
ngợi khi thấy trẻ mặc đẹp.
Gia đình có thể sử dụng các chương trình trên tivi, phim ảnh, truyện
cổ tích... để cho trẻ nhận xét, đánh giá những cái xấu, cái đẹp của các
nhân vật, qua đó để bồi dưỡng những xúc cảm thẩm mĩ cho trẻ. Những
đứa trẻ được bồi dưỡng xúc cảm thẩm mĩ từ gia đình sau này lớn lên
khơng chỉ biết bảo vệ, giữ gìn cái đẹp mà cịn biết hành động để tạo ra
cái đẹp, những sản phẩm đẹp cho mình và cho mọi người.
1.6.7. Giáo dục đạo đức trong gia đình.
Gia đình cần giáo dục cho trẻ biết phân biệt tốt – xấu, thiện – ác,
ngoan – hư.
Gia đình cần hình thành cho trẻ tình thương yêu, sự khoan dung độ
lượng đối với mọi người. Đây chính là cơ sở của nền tảng đạo đức để
hình thành cái thiện.
Gia đình nên dạy trẻ biết làm những việc thiện như: ủng hộ quần áo,
sách vở với những bạn có hồn cảnh khó khăn hơn, chia đồ chơi, chia
q cho bạn, khơng coi thường những bạn nghèo khó hơn mình, khơng
đố kị với các bạn giỏi hơn, có điều kiện hơn.
Gia đình cần tiếp tục giáo dục trẻ có tinh thần trách nhiệm, lịng tự
trọng, tính kỉ luật, biết u thương, kính trọng ơng bà, cha mẹ, có lịng
tốt với mọi người và ln có mong muốn được giúp đỡ mọi người trên
tinh thần cơng bằng, hợp tác và có tinh thần, trách nhiệm.


CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON KHU
VỰC VĨNH YÊN – VĨNH PHÚC VỀ NỘI DUNG GIÁO DỤC TRẺ
MẪU GIÁO TRONG GIA ĐÌNH.
2.1. Một số nét khái quát về khách thể nghiên cứu.
Trong thời gian thực tập mười tuần tại trường mầm non Hoa Sen – Vĩnh
Yên – Vĩnh Phúc, tơi đã có điều kiện tiếp xúc, trò chuyện với những giáo
viên của trường. Tất cả những giáo viên ở đây đều đạt trình độ chuẩn (tốt
nghiệp trung cấp sư phạm) và trên chuẩn ( cao đẳng, đại học tại chức ), có
kinh nghiệm giảng dạy tư 3 đến 10 năm, nên tơi đã có được những thuận lợi
nhất định khi tiến hành điều tra, tuy nhiên, do trình độ khơng đồng đều nên
nhận thức của các giáo viên ở đây cũng có nhiều ý kiến trái chiều, nhất là về
cách thức mà họ đưa các nội dung về giáo dục gia đình trong giảng dạy cho
trẻ.
Qua trao đổi, trị chuyện, tơi nhận thấy phần đơng các giáo viên ở đây có
rất ít thời gian và điều kiện để học tâp, trau dồi thêm kiến thức. Có nhiều
giáo viên tuy đã nắm rõ được phương pháp nhưng do kiến thức còn hạn chế
nên họ chưa thể đưa được đầy đủ các nội dung giáo dục trẻ vào trong
chương trình giảng dạy.
Có khơng ít giáo viên chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc giáo
dục trẻ mẫu giáo trong gia đình, họ mới chỉ chú trọng đến việc giáo dục trẻ ở
trên lớp, họ cho rằng giáo dục trẻ trong gia đình là trách nhiệm của cha mẹ
trẻ và những người lớn trong gia đình. Điều này đã dẫn đến một thực trạng
là khơng có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường – mà ở đây trực tiếp là
các giáo viên trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, từ đó dẫn đến cịn
nhiều thiếu xót trong q trình giáo dục trẻ.
Trải qua thời gian thực tập, tơi cũng đã có thời gian để tìm hiểu, trị
chuyện với trẻ ở các lứa tuổi khác nhau. Là một trường đặt tại trung tâm
thành phố, tuy nhiên bố mẹ của các cháu đang theo học ở đây lại xuất thân
từ nhiều thành phần khác nhau, có cháu bố mẹ đều là viên chức nhà nước, có
cháu bố mẹ là cơng nhân, có cháu bố mẹ làm kinh doanh...., điều này đã gây

nên những hạn chế nhất định trong việc kết hợp cùng với nhà trường trong
sự nghiệp giáo dục trẻ, do nhận thức của họ là khác nhau. Tuy vậy, tôi nhận


thấy phần lớn các cháu ở đây đều được bố mẹ chăm lo về đời sống vật chất.
Trẻ có khả năng tự phục vụ và ý thức tự giác cao, các cháu hàng ngày đến
lớp rất ngoan và không quấy khóc địi về.
Ở lớp trẻ biết giúp đỡ cơ những công việc vừa sức như: thu dọn đồ dùng, đồ
chơi, để giày dép đúng nơi quy định, đến giờ ăn trẻ biết tự giác đi lấy ghế, kê
bàn giúp cô....
Những thực trạng trên có ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục trẻ, đặc
biệt là nội dung giáo dục trẻ trong gia đình. Để hiểu rõ hơn nhận thức của
các giáo viên về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình, tơi đã tiến
hành điều tra, trưng cầu ý kiến của họ và đã thu được những kết quả nhất
định.
2.2. Nhận thức của các giáo viên mầm non khu vực Vĩnh Yên – Vĩnh
Phúc về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình.
Để tìm hiểu thực trạng nhận thức của các giáo viên mầm non về nội dung
giáo dục trẻ trong gia đình, tơi đã đưa ra hệ thống câu hỏi trong phiếu trưng
cầu ý kiến để các giáo viên lựa chọn, bày tỏ, thể hiện quan điểm của mình,
đồng thời trị chuyện, giúp họ tiếp cận với những tài liệu giáo dục để họ có
được những nơi dung, phương pháp giáo dục thật đúng đắn.
Tiến hành điều tra ý kiến của giáo viên đang dạy ở cả 3 độ tuổi sau:
- 15 giáo viên dạy ở lớp 3 – 4 tuổi.
- 10 giáo viên dạy ở lớp 4 – 5 tuổi.
- 15 giáo viên dạy ở lớp 5 – 6 tuổi.
Tổng số phiếu điều tra là 40, sau khi tiến hành điều tra nhằm tìm hiếu
nhận thức của các giáo viên mầm non về nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình, kết quả thu được như sau:
2.2.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục thể chất

cho trẻ mẫu giáo.
Bảng 1: Nhận thức của các giáo viên mầm non về nội dung giáo dục thể
chất cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.
STT
Câu hỏi
Phương án lựa chọn
Số ý
Tỉ lệ
kiến
(%)
1

Là một giáo viên, chị Cho trẻ ăn uống đầy đủ, 0
sẽ trao đổi với phụ hợp lí

0


huynh của mình nội
dung nào dưới đây
để thể lực của trẻ
được phát triển toàn
diện?

2

3

Cho trẻ tập thể dục, vận 0
động.


0

Cho trẻ chơi các trò chơi 0

0

Tất cả các ý kiến trên.

40

100

Chị sẽ hướng dẫn Nhiều thịt, cá ít rau.
7
các phụ huynh tổ
Nhiều rau, hoa quả, ít 32
chưc bữa ăn cho trẻ
thịt cá.
như thế nào?
Cho trẻ ăn vặt, ăn nhiều 1
bữa các loại bánh keo,
hoa quả sữa.

17,5

Khi trẻ muốn tham Hạn chế cho trẻ chơi
gia chơi các trò chơi
Để trẻ tự chơi
vận động chị sẽ?


1

2,5

4

10

Hướng dẫn và khuyến 35
khích trẻ chơi

80
2,5

87,5

Với câu hỏi 1: Là một giáo viên, chị sẽ trao đổi với phụ huynh của mình
nội dung nào dưới đây để thể lực của trẻ được phát triển tồn diện?
Có 40 giáo viên, tức 100% các giáo viên cho rằng cần phải cho trẻ ăn
uống đầy đủ, hợp lí, kết hợp với vận động, chơi các trò chơi. Điều này chứng
tỏ các giáo viên đã nhận thức rất đúng đắn về tầm quan trọng của giáo dục
thể chất đối với trẻ. Là người hàng ngày tiếp xúc trực tiếp vơi trẻ, nắm được
tình hình sức khỏe, trạng thái thể lực của từng cháu, các giáo viên là những
người hiểu rõ hơn bất kì ai vai trị của giáo dục thể chất đối với sức khỏe và
thể chất của trẻ. Trẻ cịn nhỏ, muốn có một thể lực tốt ngồi việc ăn uống đủ
chất, đủ lượng thì trẻ cần phải được vận động, được chơi phù hợp với lứa
tuổi và thể chất của mình. Qua các hoạt động vận động ấy sẽ giúp trẻ khỏe
mạnh, nhanh nhẹn, cân đối, hấp thu tốt các chất dinh dưỡng.
Với câu hỏi 2: Chị sẽ hướng dẫn các bậc phụ huynh tổ chưc bữa ăn cho

trẻ như thế nào? Tôi đưa ra 4 phương án trả lời, kết quả thu được là:


Có 32 giáo viên, chiếm 80% lựa chọn đáp sẽ hướng dẫn phụ huynh cho
trẻ ăn nhiều rau, hoa quả và ít thịt cá. Tìm hiếu lý do lựa chọn đáp án này,
tôi nhận được nhiều câu trả lời với những ý kiến như sau: một số giáo viên
nói rằng rau xanh, hoa quả chứa nhiều vitamin, rất tốt cho sức khỏe, hơn nữa
theo quan sát của những giáo viên này thì trong lớp của họ có rất nhiều cháu
khơng thích ăn thịt cá (vì khó nuốt, trẻ khơng thích vì phải nhai lâu, vì ở nhà
bố mẹ bắt trẻ ăn nhiều thịt, cá..). Một số ý kiến khác cho rằng rau, quả tốt
cho sức khỏe và hệ tiêu hóa của trẻ, ăn nhiều thịt, cá dễ dẫn đến những bệnh
đang phổ biến ở học đường hiện nay, nhất là bệnh béo phì.
Có 7 giáo viên, chiếm 17,5% chọn phương án cho trẻ ăn nhiều thịt, cá, ít
rau, quả, họ nói rằng rau, quả tuy tốt nhưng khơng thể thay thế được các chất
dinh dưỡng có trong thịt, cá, ăn nhiều hoa quả sẽ làm cho trẻ không thể hấp
thu hết các chất dinh dưỡng cần thiết để lớn lên và khỏe mạnh, đặc biệt là ở
độ tuổi mà tất cả các cơ quan đều phát triển với tốc độ rất nhanh như ở lứa
tuổi mẫu giáo.
Có 1 giáo viên, chiếm 2,5% lựa chọn phương án cho trẻ ăn vặt, ăn thành
nhiếu bữa với hoa quả, bánh kẹo, và sữa. Qua tìm hiểu tơi được biết rằng
trong lớp của chị có rất nhiều trẻ khơng thích ăn cơm, chỉ thích ăn vặt các
loại hoa quả, bánh kẹo, do đó đến giờ ăn rất khó để ép cho trẻ ăn, trẻ ăn
được rất ít và khơng đáng kể, nên phải cho trẻ ăn vặt để đảm bảo cho sức
khỏe của trẻ và để trẻ không bị tụt cân.
Với trường hợp này, theo tơi, là một giáo viên nên góp ý, kết hợp cùng với
gia đình giúp trẻ dần từ bỏ thói quen ăn vặt, khắc phục tình trạng biếng ăn
của trẻ nếu không sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển thể chất của trẻ.
Với câu hỏi 3: Khi trẻ muốn tham gia chơi các trò chơi vận động anh, chị
sẽ?
Với câu hỏi này thì có 35 giáo viên, chiếm 87,5% lựa chọn phương án sẽ

hướng dẫn và khuyến khích trẻ chơi, với cá nhân tôi, tôi nhận thấy đây là
cách giáo dục trẻ rất khoa học. Trẻ nhỏ cần phải được chơi, nhưng khơng
phải trị chơi nào trẻ cũng biết chơi, do đó người lớn cần phải hướng dẫn trẻ,
đặc biệt là các trò chơi vận động, phải leo trèo, chạy nhảy, bò, trườn..., nếu
người lớn mà ở đây là cô giáo không hướng dẫn trẻ chơi đúng cách thì rất có
thể sẽ dẫn đến tai nạn. Hơn thế nữa, trong khi chơi trẻ cũng rất cần được
người lớn động viên, khích lệ để tạo hứng thú khi chơi, vì đặc điểm tâm lý
của trẻ ở lứa tuổi này là rất thích được người lớn khen ngợi, động viên.


Có 4 giáo viên, chiếm 10% đồng ý với phương án nên để trẻ tự chơi, đây
là những giáo viên đang giảng dạy ở khối lớp mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi. Theo
ý kiến của những giáo viên lựa chọn phương án này thì họ cho rằng nên để
trẻ tự khám phá, mày mò, phát hiện những điều mới lạ, có như thế trẻ mới
nhớ lâu, và khi gặp những tình huống tương tự như thế trong cuộc sống hằng
này trẻ sẽ biết cách giải quyết mà không bỡ ngỡ. Điều này cũng hồn tồn có
lý, vì đặc điểm tâm lý của lứa tuổi mẫu giáo là thích được khám phá, tìm tịi
những điều mới lạ, có điều nếu khơng có sự hướng dẫn của người lớn trẻ sẽ
dễ có những nhầm lẫn, và khi để trẻ tự tìm hiểu cách chơi nếu trẻ khơng tự
tìm được cách chơi đúng trẻ sẽ mau chán và bỏ chơi.
Còn lại 1 giáo viên, chiếm 2,5% lựa chọn phương án hạn chế cho trẻ
chơi. Theo ý kiến chủ quan của giáo viên này thì họ đang giảng dạy ở lớp
mẫu giáo bé, hầu hết trẻ chưa có khả năng điều khiển những hành động của
bản thân, hơn nữa lớp có số lượng trẻ đơng nên nếu tổ chức chơi các trị chơi
vận động nhiều họ lo lắng sẽ không bao quát, hướng dẫn được hết tất cả số
trẻ trong lớp của mình, có thể gây ra những tai nạn khi cho trẻ chơi.
Để tìm hiểu xem các giáo viên có tổ chức các hoạt động để chăm sóc sức
khỏe cho trẻ hay khơng, tơi đã đưa ra một câu hỏi mở đó là: Chị có thường
xuyên tổ chức các hoạt động rèn luyện thể chất cho trẻ khơng? Đó là
những hoạt động nào?

Với câu hỏi này tôi đã thu nhận được rất nhiều ý kiến, đa số các giáo
viên đều nói rằng họ thường xuyên cho trẻ tham gia vào các hoạt động thể
lực như: thể dục buổi sáng, tổ chức các giờ giáo dục thể chất, đi dạo xung
quanh trường, các trò chơi vận động như: bịt mắt bắt dê, mèo đuổi chuột....,
một số giáo viên còn cho trẻ tham gia vào các hoạt động ngoại khóa như:
tưới cây, nhổ cỏ trong vườn hoa của trường, cùng cơ trồng hoa....
Có một số ít giáo viên, chiếm 5% nói rằng ngồi những giờ thể dục buổi
sáng, thì họ khơng thường xun tổ chức hoạt động rèn luyện thể lực cho trẻ.
Theo họ thì do trẻ ở khối lớp của họ cịn nhỏ, khơng thể tổ chức các hoạt
động vui chơi ngồi trời như khối lớp lớn, họ chỉ có thể tổ chức cho trẻ chơi
các trò chơi vận động nhẹ nhàng trong lớp học như: ngồi chuyền bóng, thả
đỉa ba ba... những trị chơi khơng địi hỏi sự vận động nhiều của đôi chân.
2.2.2. Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục xúc cảm,
tình cảm, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.


Bảng 2: Nhận thức của giáo viên mầm non về nội dung giáo dục xúc cảm
tình cảm cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.
STT
Câu hỏi
Phương án lựa chọn
Số ý
Tỉ lệ
kiến
(%)
1.

2.

3.


4.

Theo chị việc gia Cần thiết
đình giáo dục xúc
cảm tình cảm cho trẻ
ngay từ khi cịn nhỏ Khơng cần thiết
có cần thiết khơng?
Là một giáo viên, chị
đã giáo dục xúc cảm,
tình cảm cho trẻ như
thế nào?

Với người tàn tật,
người có hồn cảnh
khó khăn anh, chị đã
dạy trẻ phải có thái
độ như thế nào?

40

100

0

0

Dạy trẻ biết giúp đỡ ông 32
bà, cha mẹ những cơng
việc phù hợp với lứa

tuổi của mình, quan tâm,
thăm hỏi khi ông bà, cha
mẹ ốm đau.

80

Chủ yếu dạy trẻ đoàn 8
kết, yêu thương bạn bè
xung quanh.

20

Cả 2 phương án trên

0

0

Biết yêu thương, đồng 40
cảm

100

Coi thường, không quan 0
tâm

0

Chị làm thế nào để Dạy cho trẻ biết thông 7
dạy trẻ biết lễ phép, qua những trị chơi, các

kính trọng những câu chuyện kể.
người xung quanh?
Để cho trẻ tự học từ 2
những
người
xung
quanh.

17.5

5


Cả 2 phương án trên
31
77.5
Với câu hỏi 1: Theo chị việc gia đình giáo dục xúc cảm, tình cảm cho trẻ
ngay từ khi cịn nhỏ có cần thiết khơng?
Câu trả lời mà tôi nhận được là 100% các giáo viên ở đây nói rằng việc
giáo dục xúc cảm, tình cảm cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là hết sức cần thiết,
bởi vì lứa tuổi mẫu giáo là độ tuổi mà trẻ đang phát triển mạnh về xúc cảm,
tình cảm, trẻ rất dễ rung động trước những cái đẹp xung quanh mình, trẻ vui
mừng và có thể ngồi nhìn ngắm rất lâu khi thấy một bơng hoa vừa nở.... Vì
vậy, nhiệm vụ của người lớn chúng ta là phải giáo dục cho trẻ những xúc
cảm, tình cảm tốt đẹp với quê hương, đất nước, Bác Hồ, với thiên nhiên
xung quanh trẻ, góp phần làm phong phú thêm những biểu tượng cho trẻ.
Với câu hỏi 2: Là một giáo viên, chị đã giáo dục xúc cảm, tình cảm cho
trẻ như thế nào?
Kết quả thu được là 32% giáo viên, chiếm 80% chọn đáp án sẽ dạy trẻ
phải biết thương yêu, quan tâm, thăm hỏi khi ông bà, cha mẹ đau ốm, giúp

đỡ ông bà, cha mẹ những công việc phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Tuy nhiên
họ cũng nói thêm rằng, muốn làm được như vậy thì cần có sự kết hợp giáo
dục giữa gia đình và nhà trường.
Có 8 giáo viên, chiếm 20% nói họ chủ yếu dạy trẻ phải biết yêu thương,
đoàn kết với bạn bè xung quanh, còn những nội dung khác chỉ kết hợp dạy
thêm cho trẻ. Tìm hiểu nội dung này tơi nhận được câu trả lời rằng theo họ
thì nội dung giáo dục trẻ phải biết quan tâm, giúp đỡ ông bà, cha mẹ những
công việc phù hợp với trẻ là nhiệm vụ của gia đình, bởi trên lớp họ có thể
dạy trẻ như vậy, nhưng nếu khơng có sự kết hợp của gia đình khi trẻ ở nhà
thì cũng sẽ khơng đạt được kết quả như mong muốn.
Hơn nữa, ở lớp có thể trẻ rất nghe lời cô, nhưng khi về nhà do được sự
nng chiều của gia đình, nhất là những gia đình chỉ có một mình trẻ thì họ
sẽ khơng để trẻ tham gia những công việc như: tưới cây, nhặt rau, qt nhà...
Vì vậy rất khó để giáo dục trẻ những nội dung ấy nếu khơng có sự trao đổi,
kết hợp giữa các giáo viên và phụ huynh của trẻ.
Với cá nhân tôi cho rằng trong trường hợp này, giáo viên nên trao đổi
trực tiếp với những phụ huynh như vậy, giúp họ hiểu rằng để trẻ được giúp
đỡ ông bà, cha mẹ những công việc vừa sức cũng là một cách giáo dục trẻ,
đó là giáo dục ý thức tự giác và tính độc lập – những tính cách tốt cần phải


hình thành cho trẻ ngay từ khi trẻ cịn nhỏ.
Với câu hỏi 3:Với người tàn tật, người có hồn cảnh khó khăn anh, chị
đã dạy trẻ phải có thái độ như thế nào?
Kết quả thu được là 100% giáo viên dạy trẻ phải biết yêu thương, đồng
cảm với những người tàn tật, người có hồn cảnh khó khăn. Họ hiểu rằng,
ngay từ khi cịn nhỏ khơng chỉ dạy trẻ biết yêu thương, quan tâm người thân,
bạn bè xung quanh trẻ mà còn phải biết yêu thương, đồng cảm với số phận
bất hạnh của những người tàn tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn.
Các giáo viên ở đây đã nói rằng họ thường xuyên trò chuyện với các bậc phụ

huynh để họ tạo điều kiện cho con của mình có điều kiện tham gia những
đợt ủng hộ, quyên góp sách vở cho các bạn nhỏ vùng sâu, vùng xa mà nhà
trường phát động, mỗi lần như vậy trẻ tham gia rất nhiệt tình và hứng thú.
Cháu Đức Long – một học sinh lớp 5 tuổi đã nói rằng: “ mỗi lần nghe cơ
giáo cháu nói ủng hộ sách, truyện cho các bạn nhỏ khó khăn, cháu lại về nói
với bố mẹ cháu, bố mẹ cho cháu mang đi những quyển truyện cháu đã được
bố mẹ kể cho nghe để ủng hộ các bạn, chắc các bạn cũng thích nghe những
câu truyện ấy như cháu”.
Chị Hồng – một giáo viên đang dạy ở lớp 5 tuổi đã kể lại rằng: trong một
lần tổ chức cho trẻ đi tham quan gần trường, trên đường về nhìn thấy một
người ăn xin, khi ấy trẻ đã bàn tán rất nhiều và có ý chê bai vì người này ăn
mặc khơng được sạch sẽ, nhìn rất khổ sở, nghe được những lời ấy của trẻ chị
đã nói rằng: “ đó là những người có hồn cảnh khó khăn, họ khơng có điều
kiện như chúng mình, các con khơng được chê bai, hay cười họ, nếu có thể
khi gặp những người như thế này chúng mình hãy cùng bố mẹ giúp họ như
cho họ một ít tiền, hay một bát gạo”..., chị kể tiếp: sau đấy một cháu trong
lớp đã mang cho người ăn xin này một gói bim bim mà cháu đang cầm trên
tay.
Với câu hỏi 4: Chị làm thế nào để dạy trẻ biết lễ phép, kính trọng những
người xung quanh?
Với câu hỏi này, có 7 giáo viên, chiếm 17,5% nói rằng họ đã dạy trẻ biết
lễ phép, kính trọng những người xung quanh thơng qua các câu truyện kể,
các trò chơi, theo họ, khi lắng nghe những câu truyện này trẻ như được thấy
mình trong những nhân vật, và đồng thời qua những nhận vật có tính cách


×