PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tốc độ phát triển nhanh chóng của xã hội trên mọi lĩnh vực (kinh tế,
văn hóa, thương mại, hợp tác quốc tế,…) đã kéo theo những thay đổi của mỗi
cá nhân (con người) để thích ứng với những biến đổi của xã hội và thời đại.
Con người trong thời đại mới phải chủ động, tích cực, năng động và sáng
tạo.... để làm chủ những tiến bộ về khoa học, kĩ thuật, công nghệ,... và để đảm
bảo sự thành công của bản thân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực
tế này đã đặt ra những yếu cầu với việc giáo dục trong các nhà trường hiện
nay: các trường học chuyển từ mô hình dạy học mang tính truyền đạt (tập
trung vào người dạy) sang dạy học khám phá và thử nghiệm (nhấn mạnh vai
trò của người học).
GDTH là bậc học giữ vai trò nền tảng cho sự phát triển toàn diện của con
người. Chất lượng GDTH góp phần quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục
của mỗi quốc gia. Vì thế, đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói
chung và GDTH nói riêng hiện đang là mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội
và của mỗi người dân. Yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng
GDTH là đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy học. Tư tưởng chỉ đạo
đổi mới PPDH được thể hiện trong nhiều văn kiện, chủ trương của Đảng và
Chính phủ. Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong các Nghị
quyết TW từ năm 1996, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12/1998) và
được tái khẳng định trong Luật Giáo dục (2005). Việc đổi mới PPDH ở tiểu
học về cơ bản là nhằm giúp HS hướng tới việc học tập chủ động, tích cực và
sáng tạo.
Mục tiêu của mỗi môn học trong chương trình nói chung nhằm cung
cấp kiến thức, rèn luyện các kĩ năng và giáo dục thái độ cho HS. Muốn lĩnh
hội kiến thức và vận dụng để rèn kĩ năng có hiệu quả thì đòi hỏi HS phải có
năng lực tư duy; rèn cho HS phương pháp suy nghĩ và giải quyết vấn đề một
cách độc lập, linh hoạt và sáng tạo. Ngạn ngữ cổ Hi Lạp có câu: “Dạy học
1
không phải là rót kiến thức vào một chiếc thùng rỗng mà là thắp sáng lên
những ngọn lửa”. Ý nghĩa của nó cũng giống như việc hãy cho người học
chiếc cần câu để tự câu cá, cho người học chiếc chìa khóa để tự mở cánh cửa
tri thức. Theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Điều chủ yếu không phải là
nhồi nhét một mớ kiến thức hỗn độn… mà là phương pháp suy nghĩ, phương
pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề”. Như
vậy, người GV không chỉ là người dạy kiến thức mà phải quan tâm đến việc
dạy HS cách tư duy, dạy HS phương pháp tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh
tri thức. Điều này cho thấy việc đổi mới dạy học nhằm phát huy vai trò chủ
thể tích cực của HS trong quá trình học tập là một đòi hỏi tất yếu nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học, đáp ứng các yêu cầu của xã hội về phát triển con người.
HSTH với vốn hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn chế nên mọi thứ xung
quanh dường như luôn chứa đựng những điều mới lạ thôi thúc các em tìm tòi,
khám phá (động lực kích thích HS tích cực chiếm lĩnh tri thức mới). Điều này
được thể hiện rõ ở đặc điểm tâm lí của trẻ lứa tuổi tiểu học. Các em tò mò,
ham tìm hiểu và có nhu cầu rất cao trong việc khám phá các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội. Môn TN&XH với đặc điểm là môn học có tính
tích hợp cao, có liên quan đến kiến thức của nhiều môn khoa học như: Toán
học, Hóa học, Vật lý học, Sinh học,… được xem là môn học quan trọng giúp
thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Môn học này
cung cấp cho HS những hiểu biết cơ bản về tự nhiên, xã hội và con người.
Đồng thời hình thành và rèn luyện cho HS những kĩ năng thực hành cần thiết
cho cuộc sống của các em trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Đây là
môn học góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế, tổ chức dạy học Tự nhiên và Xã hội vẫn còn
những tồn tại như: GV thường giảng giải theo các tài liệu, sách tham khảo;
HS thụ động nghe, ghi nhớ nội dung bài học hay làm theo hướng dẫn của GV;
2
nội dung dạy học phần lớn phụ thuộc vào SGK, SGV môn học; các hoạt động
thường đơn điệu, không kích thích được hứng thú và nhu cầu khám phá của
HS;... Những hạn chế này dẫn tới hiệu quả dạy học môn học còn chưa cao,
chưa đáp ứng được các yêu cầu của đổi mới dạy học hiện nay.
Những lí do kể trên chính là căn cứ để người nghiên cứu lựa chọn đề
tài: "Tổ chức dạy học Tự nhiên và xã hội ở lớp 2 theo cách tiếp cận học
sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tâp”.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đổi mới dạy học bài TN&XH ở lớp 2
theo tiếp cận mỗi HS tham gia vào quá trình học tập như một chủ thể tích cực
và chủ động, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn học.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy hoc TN&XH ở lớp 2 theo
tiếp cận học sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
- Tìm hiểu cơ sở thực tiễn của việc tổ chức dạy học môn TN&XH ở lớp
2 theo tiếp cận học sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
- Đề xuất một số giải pháp tổ chức dạy học TN&XH ở lớp 2 theo tiếp
cận học sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
- Thiết kế một số giáo án minh họa các giải pháp đã đề xuất.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : các giải pháp tổ chức dạy học TN&XH ở lớp 2
theo tiếp cận HS là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
- Khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy học môn TN&Xh ở lớp 2.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài giới hạn nghiên cứu đề xuất các giải pháp tổ chức dạy học theo
tiếp cận học sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tập trong dạy học môn
Tự nhiên và xã hội ở lớp 2.
- Phạm vi nghiên cứu thực trạng ở các trường Tiểu học: Trưng Nhị,
Lưu Quý An và Hùng Vương.
6. Phương pháp nghiên cứu.
3
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn
6.3. Phương pháp thống kê toán học
7. Giả thuyết khoa học.
Nếu vận dụng cách tổ chức dạy học Tự nhiên và xã hội ở lớp 2 theo tiếp
cận học sinh là chủ thể tích cực của quá trình học tập sẽ góp phần nâng cao
việc dạy và học môn TN&XH lớp 2.
8.Cấu trúc đề tài.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của đề tài gồm ba chương
sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy học TN&XH ở lớp 2 theo
tiếp cận người học là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
Chương 2: cơ sở thực tiễn của việc tổ chức dạy học TN&XH ở lớp 2 theo
tiếp cận người học là chủ thể của quá trình học tập.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả dạy học TN&XH ở
lớp 2 theo tiếp cận người học là chủ thể tích cực của quá trình học tập.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
DẠY HỌC TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở LỚP 2 THEO TIẾP CẬN
HỌC SINH LÀ CHỦ THỂ TÍCH CỰC CỦA QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
1.1. Quá trình học tập
1.1.1. Bản chất của việc học
Khái niệm “học” được dùng với những ý nghĩa khác nhau. Nhận thức
luận coi quá trình con người nhận biết, hiểu về thế giới khác quan là kết quả
phản ánh hiện thực khách quan vào trong tư duy người. Sự phản ánh đó của
con người về hiện thực khách quan được hình thành qua nhiều con đường
khác nhau về mức độ, từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Quá trình
phát triển nhận thức về thế giới khách quan là quá trình tiếp cận chân lý và
làm phát triển sức mạnh của con người, của nhân loại. Nói tóm lại, học là một
quá trình nhận thức của cá nhân về thế giới khách quan.
Theo từ điển giáo dục Greenwood (2003) học được xác định là một quá
trình tâm lí diễn ra những thay đổi ở kiến thức hay ở hành vi của cá nhân nhờ
kinh nghiệm của chính người học thông qua tương tác với môi trường xung
quanh. Định nghĩa này chỉ ra rằng, học là một quá trình hoạt động, diễn ra
những thay đổi ở chủ thể. Hơn nữa, tương tác của người học với môi trường
xung quanh được coi là nguyên nhân làm thay đổi kinh nghiệm của người
học. Điều đó có nghĩa là tương tác giữa chủ thể và môi trường là điều kiện co
quá trình thay đổi của chủ thể.
Từ điển bách khoa về nghiên cứu giáo dục “1982” đã giải thích rõ hơn
về quá trình thay đổi bên trong của chủ thể học khi xác định rằng “học” là sự
chiếm lĩnh tri thức hoặc hành vi và dẫn đến kết quả là sự thay đổi tương đối
bền vững ở kiến thức, ở hành vi của cá nhân nhờ kinh nghiệm của chủ thể. Từ
định nghĩa này ta thấy: học là sự giành lấy tri thức, giữ lấy nó, sở hữu nó của
chủ thể học; kết quả của việc học là sự thay đổi ở nội dung và cấu trúc của
kiến thức trong bộ nhớ hay ở hành vi của cá nhân, tức là học gắn với quá trình
thay đổi bên trong của chủ thể. Hơn nữa, sự thay đổi đó của chủ thể không
phai chỉ diễn ra trong chốc lát mà tương đối bền vững, ổn định.
5
Cả hai định nghĩa trên đã xem xét học như một quá trình. Xét tứ góc
độ tâm lý hoạt động có nguồn gốc từ lý thuyết văn hóa lịch sử-xã hội của
Vưgotsky, Luria, Lenonchiep, ‘học’ được xem là dạng hoạt động đặc biệt của
con người, hướng vào việc chiếm lĩnh những kiến thức và năng lực xã hội
bằng việc cá nhân tái sản sinh những năng lực đó. Định nghĩa này nhấn mạnh
rằng hoạt động học gắn liền với việc tái sản sinh ra năng lực của cá nhân. Như
vậy, học là một hoạt động sản sinh (hay sáng tạo) ra kiến thức và năng lực ở
chính người học.
Giáo sư Hà Thế Ngữ (1984) đã viết “Hoạt động học (hoạt động của
người được giáo dục) thực chất là việc lĩnh hội và biến đổi (bởi cá nhân) nền
văn hóa (một bộ phận) của loài người, nhờ đó mà hình thành và phát triển
những năng lực và những nhu cầu của mỗi người (theo những phương hướng
mà xã hội đã quy định)”(tr.125-126). Định nghĩa này trước hết, chỉ ra tính
hoạt động, tính thay đổi của việc học nữa. Sau nữa, nó làm rõ hơn đối tượng
của hoạt động học tập - đó là các kinh nghiệm xã hội, các giá trị của nền văn
hóa nhân loại, là thế giới khách quan bên ngoài. Và cuối cùng, định nghĩa chỉ
rõ kết quả của “sự thay đổi bên trong” của chủ thể là ở năng lực, nhu cầu của
người học.
Hoạt động học tập là hoạt động trực tiếp hướng vào việc lĩnh hội tri
thức và kĩ năng, do đó làm thay đổi chủ thể của hoạt động. Nó là hoạt động tự
lực của chủ thể, mang đến sự thay đổi năng lực và nhu cầu của chủ thể học.
Người ta chỉ có thể học được một cái gì đó, học làm được cái gì đó bằng
chính sự nỗ lực của bản thân để chiếm lĩnh và thực hiện nó. Nói cách khác,
người học quyết định sự hình thành năng lực của chính bản thân mình.
1.1.2. Cơ sở tâm lý học dạy học
Các mô hình lí thuyết học tập với tư cách là đối tượng nghiên cứu của
tâm lí học dạy học chủ yếu nhằm mô tả và giải thích cơ chế tâm lí của việc
học tập, trên cơ sở đó mà vận dụng tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động
học có hiệu quả.
6
Thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov
Năm 1889, nhà sinh lí học người Nga Pavlov thông qua nghiên cứu
thực nghiệm phản xạ tiết nước bọt của chó khi có các kích thích khác nhau đã
xây dựng nên lí thuyết phản xạ có điều kiện. Với lí thuyết này, lần đầu tiên
người ta có thể giải thích một cách khách quan cơ chế của việc học tập, đó là
cơ chế “kích thích - phản ứng”. Mặc dù chỉ là những giải thích về mặt sinh lí
cơ chế của việc học tập, chưa phải là một lí thuyết tâm lí học dạy học song
thuyết phản xạ được xem là căn cứ để phát triển lí thuyết hành vi.
Thuyết hành vi (behaviorism): học tập là sự thay đổi hành vi
Thuyết hành vi được phát triển dựa trên lí thuyết phản xạ của Pavlov
nhằm giải thích cơ chế tâm lí của việc học tập mà trọng tâm là sự tác động
qua lại giữa kích thích và phản ứng. Lí thuyết này gắn với các tên tuổi như
Watson (thuyết hành vi cổ điển), Skinner (1904 - 1990), Thorndike (1864 1949),…
Lí thuyết này chỉ ra rằng thông qua những kích thích về nội dung,
phương pháp dạy học, người học có những phản ứng tạo ra những hành vi học
tập và nhờ đó thay đổi hành vi của mình. Vì vậy, quá trình học tập được hiểu
là quá trình thay đổi hành vi của người học. Mô hình học tập theo thuyết hành
vi tuân theo cơ chế:
Thông tin đầu vào
(kích thích)
Học sinh
GV kiểm tra kết quả đầu ra
(phản ứng của HS)
Hình 1.1. Mô hình cơ chế học tập theo thuyết hành vi
Tuy nhiên, thuyết hành vi chỉ quan tâm đến các kích thích bên ngoài,
các hành vi có thể quan sát được. Nó không chú ý đến quá trình nhận thức bên
trong của chủ thể (như cảm giác, tri giác, ý thức…), đặc biệt là tư duy với vai
7
trò rất quan trọng trong hoạt động học tập của HS. Đây là hạn chế chủ yếu của
lí thuyết này.
Thuyết nhận thức (cognition): học tập là quá trình xử lí thông tin
Lí thuyết này ra đời ở nửa đầu thế kỉ XX và phát triển mạnh ở nửa sau
với đại diện là các nhà tâm lí học tên tuổi như Piagiê (Áo), Vưgôtxki (Liên
Xô),…
Thuyết nhận thức nghiên cứu quá trình nhận thức bên trong với tư cách
là một quá trình xử lí thông tin, nhấn mạnh đến vai trò của bộ não. Quá trình
nhận thức ảnh hưởng đến hành vi, nghĩa là con người tiếp nhận thông tin bên
ngoài, xử lí và đánh giá bằng các hoạt động trí tuệ (bên trong) rồi quyết định
các hành vi ứng xử (bên ngoài). Mô hình học tập theo thuyết nhận thức là:
Thông tin đầu vào
Học sinh
(quá trình nhận thức)
Kết quả đầu ra
Hình 1.2. Mô hình cơ chế học tập theo thuyết nhận thức
Như vậy, trung tâm của quá trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ bên
trong (phân tích, hệ thống, phát hiện, giải quyết vấn đề…). Mỗi người có cấu
trúc nhận thức riêng và có thể tự điều chỉnh quá trình nhận thức của mình. Lí
thuyết này chỉ ra rằng nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập
thuận lợi, thường xuyên khuyến khích các quá trình tư duy. Trong dạy học
cần có sự cân bằng giữa những nội dung do GV truyền đạt và các nhiệm vụ tự
lực của HS. Lí thuyết này cũng khẳng định không chỉ kết quả học tập (sản
phẩm) mà quá trình học tập, quá trình tư duy của HS cũng là điều quan trọng.
Thuyết nhận thức được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi trong dạy học
(dạy học giải quyết vấn đề, dạy học khám phá, làm việc nhóm…). Tuy nhiên,
việc vận dụng lí thuyết này là có giới hạn bởi vì dạy học nhằm phát triển tư
duy, trí tuệ cần nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều ở năng lực của GV. Ngoài ra,
8
cấu trúc của quá trình tư duy không trực tiếp quan sát được nên việc tối ưu
hóa nhận thức trong dạy học chỉ mang tính giả thuyết.
Thuyết kiến tạo (constructionalism): học tập là tự kiến tạo tri thức
Thuyết kiến tạo có thể coi là bước phát triển tiếp theo của thuyết nhận
thức với các đại diện như Piagiê, Vưgôtxki…
Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là đặt vai trò chủ thể nhận thức lên
vị trí hàng đầu của quá trình nhận thức. Khi học tập, tri thức được lĩnh hội
thông qua việc chủ thể nhận thức tự cấu trúc vào hệ thống bên trong của mình
(do chủ thể tự kiến tạo). Do đó, cần tổ chức sự tương tác giữa người học và
đối tượng học tập, tạo điều kiện cho HS tự tìm hiểu, từ đó mà cấu trúc mới tư
duy của mình. Mô hình học tập theo thuyết kiến tạo như sau:
GV tạo môi trường học
tập và nội dung phức hợp
Học sinh
(cá nhân và nhóm)
Tương tác
Nội dung
học tập
Môi trường học tập
Hình 1.3. Mô hình cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo
Nguyên tắc của thuyết kiến tạo là việc học tập chỉ có thể được thực
hiện qua hoạt động tích cực của người học. Và học tập trong nhóm có ý nghĩa
quan trọng, góp phần cho người học tự điều chỉnh việc học tập của bản thân.
Thuyết kiến tạo được xem là sự thách thức với tư duy truyền thống về dạy học
ở chỗ nó nêu ra vấn đề: không phải người dạy mà chính người học trong sự
tương tác với các nội dung học tập là trọng tâm của quá trình dạy học. Song lí
thuyết này cũng tồn tại một số hạn chế như thuyết nhận thức. Ngoài ra, việc
9
nhấn mạnh đơn phương sự hợp tác của nhóm trong thuyết kiến tạo cần được
xem xét kĩ bởi năng lực học tập cá nhân vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong
quá trình học tập.
Kết luận:
Mỗi lí thuyết học tập trong tâm lí học dạy học có ưu điểm và hạn chế
riêng. Nghiên cứu những lí thuyết này nhằm mục đích giải thích cơ chế của
việc học. Vì thế, trong quá trình tổ chức dạy học hàng ngày và trong cải cách
giáo dục thì các lí thuyết trên cần được vận dụng kết hợp một cách phù hợp.
Tổng hợp những lí thuyết kể trên chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý về việc học
tập như sau:
- Việc học tập chỉ có thể được thực hiện qua hoạt động tích cực của
người học. Tổ chức dạy học cần quan tâm đúng mức tới vai trò của HS.
- Nội dung, lĩnh vực học tập cần hướng vào hứng thú của người học với
mức độ phức hợp khác nhau. Vì người học dễ tự nhận thức (chủ động khám
phá, tư duy) với những vấn đề gây được hứng thú và có tính thách thức.
- GV cần tạo sự tương tác giữa người học và nội dung học tập, sự hợp lí
giữa vai trò cố vấn của GV với vai trò tự giác, tự lực và tích cực của HS.
Trong dạy học, cần có niềm tin vào khả năng của HS, tạo cho HS cơ hội để
được tự giải quyết các vấn đề, qua đó mà phát triển năng lực của bản thân.
- Học tập hợp tác là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng.
1.1.3. Mối quan hệ giữa dạy và học
Khái niệm dạy học:
- Dạy học được hiểu là việc thế hệ đi trước truyền lại những kinh nghiệm xã
hội cho thế hệ sau, và thế hệ đi sau lĩnh hội những kinh nghiệm đó để tham
gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất và các lao động xã hội khác”
[Đặng Vũ Hoạt (chủ biên) (1997), Giáo dục học đại cương I, nhà xuất bản
giáo dục, tr 40]. Ở đây, hiện tượng dạy và hiện tượng học được gộp chung với
nhau.
10
Theo từ điển Tiếng Việt “Dạy học (đgt): Dạy để nâng cao trình độ văn
hóa và phẩm chất đạo đức theo chương trình nhất định” [12, tr 244]. Theo đó,
dạy học được hiểu là quá trình truyền lại tri thức hoặc kĩ năng một cách có hệ
thống, có phương pháp. Cách hiểu này quan tâm đến vai trò của người dạy,
đến quá trình truyền đạt của người dạy hơn là quá trình tiếp nhận của người
học.
Dạy học được xác định như một nỗ lực để giúp một người nào đó có được
hoặc thay đổi kĩ năng, kiến thức và các ý tưởng. Nói cách khác nhiệm vụ của
người GV là tạo ra hoặc gây ảnh hưởng để có thể dẫn tới một sự thay đổi về
hành vi mong muốn của HS [13, tr 6]. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học cần
lựa ý xem xét những nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi hành vi của HS. Bởi vì
hoạt động học tập thực sự dẫn tới HS thay đổi hành vi không phải chỉ bởi
những kích thích bên ngoài. Sự thay đổi đó còn do sự chủ động bên trong của
HS, đặc biệt là ở hoạt đông tư duy.
Các tác giả Đặng Vũ Hoạt, Phó Đức Hòa thì định nghĩa: ‘‘Quá trình dạy
học tiểu học là một quá trình trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều
khiển, lãnh đạo) của thầy, HS tự giác tích cực tổ chức, điều khiển hoạt động
nhận thức, nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học’’ [9, tr143]. Định nghĩa
này nêu rõ vai trò của GV và HS trong hoạt động dạy và học, đồng thời có
nhấn mạnh tính tự lực của chủ thể nhận thức trong việc giải quyết các nhiệm
vụ dạy học.
Mối quan hệ giữa dạy và học
Cũng như quá trình dạy học nói chung, quá trình dạy học tiểu học với tư
cách là một hệ thống bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ biện chứng và thống
nhất với nhau [Đặng Vũ Hoạt, Phó Đức Hòa (2008), Giáo dục học Tiểu học I,
Nxb, ĐHSP, Hà Nội], [Bùi Văn Huệ (2008), Tâm lí học Tiểu học I, Nxb,
ĐHSP, Hà Nội]. Khi xem xét ở một thời điểm nhất định, quá trình dạy học
được cấu trúc bởi các thành tố gồm mục đích, nội dung dạy học, phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học, phương tiện dạy học, GV và hoạt động dạy của
GV, HS và hoạt động học của HS, kết quả dạy học. Mỗi thành tố có chức
11
năng riêng song lại phụ thuộc lẫn nhau, cùng vận động theo quy luật chung
của quá trình dạy học. Toàn bộ quá trình dạy học chịu sự ảnh hưởng của môi
trường kinh tế, xã hội.
Quá trình dạy học tuân theo những quy luật nhất định, trong đó có quy
luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học. Dạy và học là hai thành tố
cơ bản vì nếu thiếu một trong hai hoạt động thì quá trình dạy học sẽ không
diễn ra. GV và HS với vai trò tương ứng là chủ thể của các hoạt động dạy và
học được nhấn mạnh như những nhân tố trung tâm trong quá trình dạy học
[Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển GVTH (2007), Đổi mới phương
pháp dạy học ở Tiểu học, tài liệu đào tạo GVTH, Nxb GD, Hà Nội].
Tóm lại, dù cách thức diễn đạt khác nhau song các quan niệm
trên đều nhấn mạnh tính chất hai mặt của quá trình dạy học. Quá trình dạy
học nào cũng gồm hai hoạt động: hoạt động dạy và hoạt động học. Bằng hoạt
động dạy, GV tổ chức cho HS thực hiện các hoạt động học để chiếm lĩnh nội
dung bài học theo mục tiêu đã định. Bản chất mối quan hệ giữa hoạt động dạy
của GV và hoạt động học của HS là quan hệ “thầy tổ chức - trò hoạt động”,
chúng thống nhất với nhau trong cùng một cơ chế phân công và hợp tác,
hướng tới mục tiêu là sự phát triển nhân cách của HS.
Phân tích mối quan hệ giữa dạy và học, các tác giả cũng chỉ ra rằng bản
chất quá trình dạy học tiểu học là quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức
của HS và kết quả dạy học thể hiện ở kết quả nhận thức của HS [3]. Thực chất
quá trình dạy học là quá trình GV tổ chức cho HS tiến hành các hoạt động
nhận thức. Do đó, việc đánh giá hiệu quả dạy học phải xem xét cả những biến
đổi tâm lí bên trong người học (thể hiện ở cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng…). Nói cách khác, không chỉ kết quả học tập bên ngoài (sản phẩm) mà
quá trình HS “học” ra sao, tư duy thế nào để rút ra kết quả đó cũng rất quan
trọng.
12
Hoạt động học tập là hoạt động trực tiếp hướng vào việc lĩnh hội tri
thức và rèn luyện kĩ năng, từ đó làm thay đổi chủ thể hoạt động. Nó là hoạt
động tự lực của chủ thể, mang đến sự thay đổi năng lực và nhu cầu của chủ
thể học. Người ta chỉ có thể học được một cái gì đó, học làm được cái gì đó
bằng chính sự nỗ lực của bản thân để chiếm lĩnh và thực hiện nó. Nói cách
khác, người học quyết định sự hình thành năng lực của chính bản thân mình.
Như vậy, dạy học (hiểu theo nghĩa rộng) thực chất là tổ chức cho người
học “học” để đạt được những mục tiêu mong muốn. Vai trò của HS và chất
lượng hoạt động học của HS ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quá trình dạy
học. Làm thế nào để phát huy vai trò chủ thể tích cực của HS trong học tập?
Để tìm giải pháp tác động nhằm phát huy vai trò của HS thì việc xem xét các
lí thuyết cơ bản giải thích cơ chế của hoạt động học là cần thiết.
1.2. Đổi mới dạy học theo tiếp cận HS là chủ thể tích cực của QTHT
1.2.1. Định hướng đổi mới dạy học ở tiểu học hiện nay
Vấn đề đổi mới dạy học ở tiểu học không chỉ được cụ thể hóa trong
Chương trình Tiểu học mới (9/11/2001) mà còn được đề cập trong nhiều tài
liệu khác như: tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GVTH (chu kì 1997 2000), tài liệu bồi dưỡng GVTH (Dự án phát triển GVTH - Bộ GD&ĐT)…
Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đổi mới chương trình và PPDH được thể hiện
trong nhiều văn kiện, chủ trương của Đảng và Chính phủ. Sự cần thiết đổi
mới giáo dục đã được khẳng định trong Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông và Chỉ thị 14/2001/CT-TTG ngày 11/6/2001
của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 của
Quốc hội.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (năm 1993) đã đề ra nhiệm vụ đổi
mới PPDH ở tất cả các cấp học, bậc học và khẳng định cần thiết phải đổi mới
PPDH. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) cũng nhận định PPDH
13
chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng đổi
mới PPDH đã được quy định rõ trong Luật Giáo dục (2005): “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học…”. [điều 24.2, Luật Giáo dục].
Vấn đề đổi mới PPDH được miêu tả bằng thuật ngữ “phương pháp dạy
và học tích cực”. Thuật ngữ này cũng tương tự như “giáo dục lấy HS làm
trung tâm”, nó nhấn mạnh đến sự tham gia tích cực của từng cá nhân HS
trong giờ học. Ở tiểu học, điều này đã được đề cập trong chương trình mới
như sau: “Phương pháp giáo dục tiểu học là phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động và sáng tạo của HS”. Như vậy, định hướng đổi mới PPDH đã được
khẳng định rõ, không còn là vấn đề tranh luận. Việc đổi mới PPDH ở tiểu học
về cơ bản là nhằm giúp HS hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động.
1.2.2. Quan điểm HS là chủ thể tích cực của QTHT
Thực chất dạy học theo quan điểm HS là chủ thể tích cực của QTHT
cũng chính là dạy học theo quan điểm lấy HS làm trung tâm hay dạy học tích
cực, chúng không khác nhau về bản chất (dạy học lấy HS làm trung tâm, dạy
học tích cực và dạy học hiệu quả là những cách diễn đạt khác nhau của cùng một
ý). Dạy học phát huy tính tích cực của người học nhấn mạnh đến vai trò chủ
thể tích cực của người học trong QTHT. Vì thế, làm rõ “tính chủ thể” của
người học trong QTHT được coi là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tổ
chức QTHT cho người học phù hợp với quan điểm này.
Tính chủ thể của người học:
Thuật ngữ ‘tính chủ thể’ ở đây được dùng để nhấn mạnh cả 2 khía
cạnh: (1) tính chủ động, độc lập của người học trong QTHT; (2) tính độc đáo
(không trùng nhau), khác biệt của chủ thể này so với chủ thể khác trong
14
QTHT [36]. ”Tính chủ thể” của người học trong QTHT được biểu hiện một số
đặc điểm sau:
- Người học (là chủ thể thực hiện các thao tác, hành động học) nhất
định phải huy động trí tuệ, kinh nghiệm và tiêu hao năng lượng để giải quyết
các nhiệm vụ học tập, tạo ra sự thay đổi ở năng lực của bản thân. Như vậy, có
thể đo mức độ tích cực của chủ thể bằng sự thay đổi mà chủ thể có được sau
mỗi nhiệm vụ được hoàn thành.
- Người học tự xác định và tự giải quyết nhiệm vụ học tập theo cách mà
bản thân có kinh nghiệm và sở trường, không bị phụ thuộc vào người khác.
Điều đó nhấn mạnh người học học vì những động cơ và mục đích mà mình tự
lựa chọn theo hệ thống giá trị của bản thân (tác động của người khác chỉ có
tính chất kích thích, hỗ trợ thêm).
- Người học nào trong QTHT cũng phải tự xây dựng cấu trúc nhận thức
và điều chỉnh quá trình nhận thức của mình trên cơ sở sắp xếp kiến thức mới
vào cấu trúc vốn kinh nhiệm đã có của mình, đồng thời phải luôn làm mới cấu
trúc đó. Vì thế, học gắn liền với sự phát triển và làm mới người học.
- Mỗi người học là một chủ thể độc đáo với những đặc điểm tâm sinh lí
không giống nhau. Mỗi người có vốn hiểu biết, kinh nghiệm, nhu cầu và năng
lực khác nhau nên cũng có tốc độ và phong cách học khác nhau. Nói cách
khác, mỗi người học tham gia vào QTHT bằng cách riêng, phù hợp với phong
cách và khả năng của mình.
- Tính chủ thể của mỗi người được phát huy hơn trong học tập hợp tác.
Sự hợp tác giúp người học tự điều chỉnh và hỗ trợ lẫn nhau (cùng bổ sung
kiến thức, rèn kĩ năng và phát triển các năng lực). Vì vậy, học tập hợp tác là
cần thiết.
Quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm có nhiều khái niệm quan trọng.
Những khái niệm đặc thù liên quan đến cách nhìn nhận về kiến thức, về vai trò
15
của GV, HS và phong cách học tập của HS làm cho giáo dục lấy HS làm trung
tâm hoàn toàn khác biệt với giáo dục truyền thống [Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA) và Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT Bắc Giang (2007), sách bồi
dưỡng GV Tiểu học, dự án hợp tác kĩ thuật nhằm tăng cường bồi dưỡng GV
theo cụm và quản lí nhà trường tại Việt Nam]. Biểu hiện tính tích cực học tập
của HS kể trên là một trong những nội dung quan trọng của giáo dục lấy HS làm
trung tâm. Ngoài ra, để thấy rõ hơn đặc trưng khác biệt của quan điểm này, còn
phải kể đến 3 nội dung không thể thiếu, đó là:
Hứng thú của HS:
“Hứng thú” ở đây không chỉ là sự thích thú, vui vẻ mà ở đây còn có nghĩa
là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy học tập, làm cho HS háo hức tiếp thu kiến thức
mới. Khi HS có hứng thú thì thái độ học tập của các em lúc này hết sức tích cực
và chủ động. Những học sinh có hứng thú thường hỏi “tại sao?”, “như thế nào?”
hoặc “sao lại như vậy?”... Do đó, “hứng thú” không chỉ là sự cuốn hút mà là
nguồn động lực mạnh mẽ thúc đẩy HS suy nghĩ và khiến các em phải đào sâu
suy nghĩ. Đây mới là ý nghĩa thực sự của từ “hứng thú” trong giáo dục lấy HS
làm trung tâm. “Hứng thú” ở đây biểu thị mức độ cao của khái niệm này chứ
không phải ở mức độ thấp giống như sự hấp dẫn mang tính giải trí (chẳng hạn
như HS bị thu hút vì nhiều loại đồ dùng trực quan minh họa cho bài học hơn là
thấy thích thú vì tò mò muốn tìm hiểu thêm về nội dung bài học).
Giáo dục lấy HS làm trung tâm khuyến khích mạnh mẽ việc giáo dục nên
bắt nguồn từ sự hứng thú và mối quan tâm của trẻ. Nếu không có hứng thú và
động lực thì HS sẽ không thể học thực sự. Chỉ qua học tập thực sự HS mới có thể
học tập hết mình và khát khao mạnh mẽ để thu thập điều gì đó cần thiết cho bản
thân.
Kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày của HS:
16
Giáo dục lấy HS làm trung tâm nhấn mạnh mối liên hệ giữa nhà trường và
cuộc sống hàng ngày của trẻ, đặt mối quan tâm đầu tiên đến những kinh nghiệm
trẻ đã có và tận dụng chúng để đưa vào bài học trên lớp. Một khi kiến thức trên
lớp gắn với kinh nghiệm thực tế của HS, tiến trình và nội dung bài học sẽ trở nên
tự nhiên đối với các em. HS hứng thú hơn và có thể tiếp thu kiến thức mà không
gặp khó khăn gì. Những kiến thức học ở trường cũng trở nên ý nghĩa hơn với
cuộc sống của các em. Kết quả là kiến thức được khắc sâu hơn và HS cũng hiểu
rõ hơn về thực tế xung quanh.
Bức tranh toàn cảnh và nhiều mặt của mỗi vấn đề (sự toàn diện trong nhận
thức):
Trong giáo dục truyền thống, kiến thức được dạy thường được phân chia
ra thành nhiều phần nhỏ thuộc từng lĩnh vực riêng biệt và sắp xếp dựa trên mức
độ khó vừa phải để HS có thể hiểu được. Khi đã học xong phần này, HS sẽ bắt
đầu chuyển sang học phần khác. Quan điểm này chi phối cách biên soạn nhiều
sách giáo khoa. Tuy nhiên, giáo dục mới có những quan điểm khác về dạy học.
Theo giáo dục lấy HS làm trung tâm, chỉ dạy những kiến thức tách biệt tuy có
thể cung cấp cho trẻ những hiểu biết phong phú, đa dạng trong một thời gian
nhất định song sẽ khó hình thành ở HS quan điểm toàn diện về các vấn đề cũng
như phát triển các khả năng của trẻ. Giáo dục mới nhằm giúp HS học tập một
cách sâu rộng qua việc hiểu mọi khía cạnh của cùng một vấn đề.
Tóm lại, dạy học lấy HS làm trung tâm không chỉ là một phương pháp
giáo dục mà còn là một triết lý giáo dục hay định hướng để đạt giáo dục hiệu
quả. Dạy học lấy HS làm trung tâm có những khác biệt cơ bản so với dạy học
truyền thống cả về mục đích, nội dung, PPDH, người dạy, người học… Đặc
trưng của nó là nhấn mạnh vai trò chủ động, tích cực của người học, chú ý đến
sự hứng thú và vốn kinh nghiệm của HS, đến việc HS học thế nào hơn là việc
GV dạy thế nào.
17
Dạy học lấy HS làm trung tâm đòi hỏi người GV phải tư duy theo cách
nghĩ mới và tự trang bị những kỹ năng mới. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả ,
ngoài việc nắm được các kĩ thuật và PPDH tích cực, GV cần hiểu đúng quan
niệm dạy học lấy HS làm trung tâm để quán triệt nó trong mọi suy nghĩ và hành
động giáo dục.
1.2.3. Tổ chức dạy học theo cách tiếp cận HS là chủ thể tích cực của QTHT
“Tổ chức” (đgt): làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào
đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất [12, tr1007]. Theo đó, tổ chức dạy học là
những việc làm cụ thể của GV và HS để thực hiện hiệu quả các hoạt động dạy
học. Nói cách khác, tổ chức dạy học là việc tiến hành các hoạt động dạy học
(cách thức tổ chức hoạt động của GV và HS) theo một trình tự nhất định
nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Ở nhà trường, quá trình dạy học luôn gắn với các môn học cụ thể. Quá
trình đó có thể được tính trong phạm vi cả môn học hay thu hẹp ở phạm vi
mỗi bài học. Điều này thực ra không phải là vấn đề vì việc dạy học cả môn
học sẽ được thực hiện qua tổ chức dạy học từng bài cụ thể. Ở đây, đề tài tập
trung nghiên cứu việc tổ chức dạy học ở phạm vi mỗi bài học.
Để tổ chức dạy học một bài cụ thể, GV cần làm hai việc chủ yếu: thiết
kế bài học (soạn giáo án) và dựa vào thiết kế để tổ chức các hoạt động trên
lớp. Hai việc này thực ra không tách rời nhau bởi tiến hành bài lên lớp chỉ là
sự hiện thực hóa của thiết kế. Như vậy, đề tài xác định tổ chức dạy học (gồm
cả việc thiết kế bài học trước đó) là việc tiến hành các hoạt động dạy học trên
lớp nhằm đạt được mục tiêu bài học.
“Tiếp cận” (đgt): là từng bước, bằng những phương pháp nhất định tìm
hiểu một vấn đề. Ở đây, tiếp cận HS là sử dụng các phương pháp phù hợp để
sử dụng giảng dạy. Hay tiếp cận HS là chủ thể tích cực của QTHT là việc
soạn giáo án bài học phải có những phương pháp giảng dạy đảm bảo HS tham
18
gia tích cực vào bài, phát huy sự độc lập, sáng tạo và gây được hứng thú cho
HS.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người nghiên cứu xác định:
tổ chức dạy học theo cách tiếp cận HS là chủ thể tích cực của QTHT nghĩa là:
việc tiến hành các hoạt động dạy học (đã gồm việc soạn giáo án) trong đó
nhấn mạnh vai trò chủ thể tích cực của HS trong mọi hoạt động dạy học và
các bước tiến hành hoạt động.
1.3. Chương trình Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học
1.3.1. Khái quát chương trình môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, 2, 3)
Chương trình tiểu học đã có những thay đổi mạnh mẽ cả về mục tiêu, nội
dung và PPDH các môn học. Chương trình Tiểu học mới (còn gọi là chương
trình Tiểu học năm 2000) được Bộ GD&ĐT ban hành ngày 9/11/2001,và tiếp
tục được cụ thể hóa trong chương trình giáo dục phổ thông - cấp Tiểu học ban
hành theo Quyết định số 16/2006/QDD-BGDĐT ngày 05/5/2006 quy định rõ
về chuẩn kiến thức, kĩ năng và mục tiêu của từng môn học.
Mục tiêu môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, 2, 3):
i) Về kiến thức: HS có một số kiến thức cơ bản, ban đầu, thiết thực về:
- Con người và sức khoẻ (cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng
tránh bệnh tật, tai nạn).
- Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội xung quanh.
ii) Về kĩ năng: bước đầu hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng:
- Tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử và đưa ra quyết định hợp lí
trong đời sống để phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn.
- Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, diễn đạt những hiểu biết
của mình (bằng lời nói hoặc hình vẽ) về các sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên và xã hội.
iii) Về thái độ: hình thành và phát triển ở HS những thái độ và thói quen:
- Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia
đình và cộng đồng.
- Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương.
19
Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1, 2, 3):
Chương trình Tự nhiên và Xã hội 1, 2, 3 gồm 3 chủ đề lớn là: (1) Con
người và sức khỏe, (2) Tự nhiên và (3) Xã hội - được cấu trúc đồng tâm và
mở rộng dần theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu
tượng. Nội dung ba chủ đề là sự tích hợp của nhiều kiến thức giúp HS có cách
nhìn toàn diện về con người, thiên nhiên, và cuộc sống xung quanh. Cụ thể:
- Con người và sức khoẻ: các cơ quan trong cơ thể, cách giữ vệ sinh
thân thể, cách ăn, ở, nghỉ ngơi vui chơi điều độ và an toàn, phòng tránh bệnh
tật. Thực hành chăm sóc răng miệng, đầu tóc, rửa tay, chân …
- Xã hội: các thành viên và các mối quan hệ của các thành viên đó
trong gia đình,lớp học và nhà trường ; cảnh quan tự nhiên và hoạt động của
con người ở địa phương nơi HS sống. Cách giữ vệ sinh nhà ở, lớp học, trường
học, nơi công cộng; cách giữ an toàn cho bản thân…
- Tự nhiên: đặc điểm cấu tạo và môi trường sống của một số thực vật,
động vật phổ biến; ích lợi hoặc tác hại của chúng đối với con người. Một số
hiện tượng tự nhiên (thời tiết, ngày, đêm, các mùa …); sơ lược về Mặt Trời,
Mặt Trăng, sao và Trái Đất.
Cấu trúc nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, 2, 3 gồm các chủ đề
với số lượng các bài học được phân phối trong bảng sau:
Stt
Chủ đề
Lớp 1
Lớp 2
Lớp 3
1
Con người và sức khỏe
11
10
18
2
Xã hội
11
13
19
3
Tự nhiên
14
12
31
35 tiết
35 tiết
70 tiết
Tổng số
1.3.2. Mục tiêu, nội dung môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 2
Mục tiêu:
i) Về kiến thức: HS có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
Con người và sức khỏe:
- Nêu được ví dụ sự phối hợp cử động của cơ và xương.
20
- Nêu tên và chỉ được vị trí các bộ phận chính của cơ quan vận động trên
tranh vẽ hoặc mô hình.
- Nêu được tác dụng của các việc cần làm.
- Biết được buổi sáng nên ăn nhiều, buổi tối ăn ít, không nên bỏ bữa ăn.
- Nêu tác dụng của 3 sạch để cơ thể khỏe mạnh và chóng lớn.
Xã hội:
- Nêu tác dụng các việc làm của em đối với gia đình.
- Biết phân loại một số đồ dùng trong gia đình theo vật liệu làm ra chúng:
bằn gỗ, nhựa, sắt,…
- Biết được lợi ích của việc giữ vệ sinh môi trường.
- Nêu được một số lí do khiến bị ngộ độc qua đường ăn, uống như ôi, thiu,
ăn nhiều quả xanh, uống nhầm thuốc,…
- Nêu được cách tổ chức của bạn tham gia làm vệ sinh ở lớp một cách an
toàn.
- Biết được sự cần thiết phải có một số biển báo giao thông trên đường.
Tự Nhiên:
- Nêu được ví dụ cây sống trên mặt đất, trên núi cao, trên cây khác (tầm
gửi), dưới nước.
- Nêu được tên, lợi ích của một số cây sống trên cạn.
- Nêu được sự khác nhau về cách di chuyển trên cạn, trên không, dưới nước
của một số động vật.
- Nêu được một số điểm khác nhau giữa cây cối (thường đứng yên tại chỗ,
có rễ, thân, lá, hoa), và con vật (di chuyển được, có đầu, mình, chân, một số
loài có cánh).
- Nêu được hình dạng, đặc điểm và vai trò của Mặt Trời đối với sự sống
trên Trái Đất.
ii) Về kĩ năng: bước đầu hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng:
Con người và sức khỏe:
- Biết tên các khớp xương.
- Giải thích tại sao không nên mang vác vật quá nặng.
- Phân biệt được ống tiêu hóa và tuyến tiêu hóa.
21
- Giải thích tại sao cần ăn chậm nhai kĩ và không nên chạy nhảy sau khi ăn
no.
- Biết được tác hại của giun đối với sức khỏe.
Xã hội:
- Biết đưa ra lời khuyên trong một số tình huống có thể xảy ra tai nạn giao
thông khi đi xe máy, ô tô, thuyền bè, tàu hỏa.
- Mô tả được một số nghề nghiệp, cách sinh hoạt của dân vùng nông thôn
hay thành thị.
- So sánh về cảnh quan thiên nhiên, nghề nghiệp, cách sinh hoạt của người
dân vùng nông thôn và thành thị.
Tự nhiên:
- Kể được tên một số cây có rễ cắm sâu trong bùn.
- Kể được tên một số con vật hoang dã sống trên cạn và một số vật nuôi.
- Hình dung (tưởng tượng) được điều gì xảy ra nếu Trái Đất không có mặt
trời.
- Dựa vào Mặt Trời, biết xác định phương hướng ở bất cứ địa điểm nào.
iii) Về thái độ: hình thành và phát triển ở HS những thái độ và thói quen:
- Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia
đình và cộng đồng.
- Có ý thức yêu thiên nhiên và bảo vệ thiên nhiên.
1.3.2. Nội dung môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 2
Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội 2 gồm 3 chủ đề lớn là: Con
người và sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Nội dung và kế hoạch giảng dạy cụ thể
được thống kê theo bảng sau:
Bảng1.1: Bảng phân phối nội dung môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Chủ đề
Con người
và sức khỏe
Tên bài
Tuần
Bài 1: Cơ quan vận động
Tuần 1
Bài 2: Bộ xương
Tuần 2
Bài 3: Hệ cơ
Tuần 3
Bài 4: Làm gì để xương và cơ phát triển
Tuần 4
Bài 5:Cơ quan tiêu hóa
Tuần 5
22
Xã hội
Tự nhiên
Bài 6: Tiêu hóa thức ăn
Tuần 6
Bài 7: Ăn uống đầy đủ
Tuần 7
Bài 8: Ăn, uống sạch sẽ
Tuần 8
Bài 9: Đề phòng bệnh giun
Tuần 9
Bài 10: Ôn tập: Con người và sức khỏe
Tuần 10
Bài 11: Gia đình
Tuần 11
Bài 12: Đồ dùng trong gia đình
Tuần 12
Bài 13: Giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở
Tuần 13
Bài 14: Phòng tránh ngộ độc khi ở nhà
Tuần 14
Bài 15: Trường học
Tuần 15
Bài 16: Các thành viên trong nhà trường
Tuần 16
Bài 17: Phòng tránh ngã khi ở trường
Tuần 17
Bài 18: Thực hành: Giữ trường học sach đẹp
Tuần 18
Bài 19: Đường giao thông
Tuần 19
Bài 20: An toàn khi đi các phương tiện giao
thông
Tuần 20
Bài 21: Cuộc sống xung quanh
Tuần 21
Bài 22: Cuộc sống xung quanh (tiếp theo)
Tuần 22
Bài 23: Ôn tập: Xã hội
Tuần 23
Bài 24: Cây sống ở đâu?
Tuần 24
Bài 25: Một số loài cây sống trên cạn
Tuần 25
Bài 26: Một số loài cây sống dưới nước
Tuần 26
Bài 27: Loài vật sống ở đâu?
Tuần 27
Bài 28: Một số loài vật sống trên cạn
Tuần 28
Bài 29: Một số loài vật sống dưới nước
Tuần 29
Bài 30: Nhận biết cây cối và các con vật
Tuần 30
Bài 31: Mặt trời
Tuần 31
Bài 32: Mặt trời và phương hướng
Tuần 32
Bài 33: Mặt trăng và các vì sao
Tuần 33
Bài 34-35: Ôn tập: Tự nhiên
Tuần 34-35
23
Nhận xét
Môn TN & XH ở lớp 2 là một môn học giúp HS có một kiến thức cơ bản,
ban đầu về con người và sức khỏe, về một số sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên và xã hội. Môn học cũng rất chú trọng đến việc hình thành và
phát triển kĩ năng trong học tập như quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, đặt câu
hỏi và diễn đạt hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong
tự nhiên và trong xã hội. Ngoài việc hình thành những kiến thức, kĩ năng cần
thiết; môn học còn góp phần giáo dục thái độ, thói quen và hành vi đúng đắn
của HS với cuộc sống xung quanh.
Sự phong phú, đa dạng của các đối tượng trong các chủ đề tạo cho trẻ
hứng thú được tìm hiểu, khám phá đối tượng. Song những đối tượng đó cũng
là những sự vật, hiện tượng gần gũi, gắn với cuộc sống hàng ngày của trẻ, qua
đó giúp trẻ có cơ hội được liên hệ, vận dụng kiến thức với thực tiễn cuộc
sống. Mặt khác, quá trình nhận thức của HS lớp đầu tiểu học mang tính trực
quan cụ thể, tư duy gắn liền với hoạt động trực tiếp, hình ảnh cụ thể. Để tiếp
thu được kiến thức tổng hợp trên thì GV phải tổ chức cho HS được hoạt đông
trực tiếp sử dụng các giác quan trực tiếp sờ, mó, nghe, nhìn, ngửi, nếm…
Thông qua quá trình học tập chủ động, tích cực đó mà các năng lực cá nhân
HS được bộc lộ và phát triển.
24
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
DẠY HỌC TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở LỚP 2 THEO CÁCH TIẾP CẬN
HỌC SINH LÀ CHỦ THỂ TÍCH CỰC CỦA QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
2.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Tìm hiểu thực trạng dạy học TN&XH và dạy học TN&XH với việc đáp ứng
yêu cầu của đổi mới dạy học theo quan điểm HS là chủ thể tích cực của
QTHT.
2.2. Đối tượng khảo sát thực trạng
Người nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin qua điều tra giáo viên và học
sinh ở một số trường tiểu học thuộc thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2.3. Nội dung khảo sát thực trạng
Những thông tin cần thu thập qua điều tra có liên quan tới việc dạy học
môn TN&XH và việc tổ chức dạy học TN&XH theo quan điểm HS là chủ thể
tích cực của QTHT gồm:
- Việc tổ chức dạy học TN&XH ở tiểu học hiện nay (trình tự các hoạt
động dạy học, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động).
- Việc tổ chức dạy học TN&XH hiện nay với việc đáp ứng yêu cầu đổi
mới dạy học theo quan điểm HS là chủ thể tích cực của QTHT.
2.4. Phương pháp khảo sát thực trạng
Nghiên cứu tài liệu:
Ngiên cứu công văn, chỉ thị,… của Bộ GD&ĐT; sách giáo khoa, sách giáo
viên môn học; giáo án của GV;…
Điều tra:
Người nghiên cứu thiết kế phiếu điều tra, mỗi phiếu gồm 5 câu hỏi,
tổng số 105 phiếu và gửi cho GV ở các trường tiểu học theo danh sách sau:
Stt
1
Trường tiểu học
Tiểu học Trưng Nhị
Địa chỉ
Phúc Yên, Vĩnh Phúc
25
Số phiếu
40