Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Truyện cổ tích và vai trò của truyện cổ tích đối với việc giáo dục học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.15 KB, 64 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nói đến văn học dân gian cùng với những giá trị vĩnh hằng của nó
không thể không nhắc đến truyện cổ tích. Ra đời trong xã hội có sự phân hóa
giai cấp truyện cổ tích không chỉ là những câu chuyện giải thích hiện tượng tự
nhiên, xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mối quan hệ
giữa con người với con người mà còn là tiếng lòng của những cảnh đời,
những nhân vật bất hạnh bị áp bức, bóc lột trong xã hội. Bước vào thế giới
truyện cổ tích người đọc như bước vào một thế giới vừa lung linh, huyền ảo
vừa thấm đẫm bao niềm thương cảm.
Học sinh Tiểu học được các nhà tâm lí học gọi bằng cái tên khác đầy ý
nghĩa: “lứa tuổi cổ tích”. Sở dĩ có tên gọi như thế là vì ở lứa tuổi này các em
nhìn đời bằng đôi mắt trong veo và tin cậy. Trước mắt trẻ luôn là cuộc sống
đẹp, lung linh, huyền ảo, trẻ cũng rất yêu thích sự phiêu lưu để khám phá
những bí mật của cuộc sống. Tất cả những điều đó đã đưa các em đến gần
truyện cổ tích để các em thả mình, bay bổng cùng với các nhân vật của truyện
để tâm hồn và trí tưởng tượng của trẻ được bay cao, bay xa hơn đến những xứ
sở thần kì. Chính vì thế V.A.Xukhomlinxki- nhà giáo dục nổi tiếng người Nga
đã cho rằng: “Truyện cổ tích là môi trường nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, là ngọn
gió tươi mát thổi bừng ngọn lửa tư duy và ngôn ngữ của trẻ”. Ngay từ lúc còn
bé thơ, các em rất thích được nghe kể những câu chuyện cổ tích. Thông qua
lời kể của cô giáo, của bà, mẹ, anh, chị... trẻ được thả mình trong thế giới của
truyện cổ tích như mơ được gặp ông bụt, bà tiên, được sống cùng với các
công chúa, hoàng tử. Nhờ có truyện cổ tích mà trẻ có cơ hội nuôi dưỡng, phát
triển cảm xúc thẩm mĩ và phát huy trí tưởng tượng đồng thời giúp trẻ tìm tòi
lẽ sống, làm phong phú tình cảm, đem đến cho ta niềm vui giúp cuộc sống tốt


Vũ Thị Phượng

1

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hơn, nhân ái hơn. Như thế chính là trẻ đã được phát triển về mặt tâm hồn- một
trong hai mục đích chính của giáo dục trẻ ở bậc Tiểu học.
Đây cũng là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách, cần được hưởng thụ những giá trị văn hóa, xây dựng những hình tượng
đẹp, tốt và tích cực.Chính vì vậy các soạn giả chương trình SGK Tiểu học đã
đưa vào chương trình Tiếng Việt ở bậc Tiểu học một số lượng đáng kể các
câu chuyện cổ tích không chỉ trong nước mà còn có cả truyện nước ngoài để
không chỉ thỏa mãn nhu cầu của các em mà còn nhằm hình thành và phát triển
nhân cách cho trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường Tiểu học. Mặt
khác, trong thời đại ngày nay với sự phát triển và sự bùng nổ mạnh mẽ của
công nghệ thông tin và khoa học kĩ thuật cùng với sự phát triển của rất nhiều
loại hình văn hóa hiện đại thì niềm đam mê của các em đối với truyện cổ tích
không còn mạnh mẽ như trước nữa. Các em có xu hướng thiên về các loại
truyện tranh với nhiều hình ảnh sinh động nhưng trên thực tế một số tác phẩm
mang tính thực dụng nên giá trị văn học chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển trí tuệ của trẻ.
Là một giáo viên Tiểu học trong tương lai, với ý thức rõ được vai trò của
bản thân là người không chỉ mang lại cho các em những kiến thức cần thiết
mà còn giáo dục nhân cách để các em trở thành những chủ nhân tương lai của

đất nước. Với mong muốn giúp mọi người thấy rõ được tầm quan trọng của
truyện cổ tích đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học để từ đó có biện pháp giáo
dục tốt, vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài: “Truyện cổ tích và vai trò của
truyện cổ tích đối với việc giáo dục học sinh Tiểu học”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Truyện cổ tích là một thể loại chiếm dung lượng lớn trong văn học dân
gian Việt Nam. Nó hơn mọi thể loại khác ở sức hấp dẫn lạ kì và sớm hơn rất
nhiều so với một số thể loại khác.
Vũ Thị Phượng

2

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Vì thế từ lâu truyện cổ tích đã trở thành một đề tài hấp dẫn đối với các
nhà nghiên cứu trên thế giới với các công trình nghiên cứu, các bài viết trên
báo, tạp chí về truyện cổ tích trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đầu tiên phải kể
đến những tên tuối lớn như: Mác, Ăngghen, Gorki... Hay như nhà văn Nga
Puskin đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc nghiên cứu truyện cổ tích
và tìm cho mình một hướng đi mới qua những sáng tác truyện cô tích bằng
thơ.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 50, đầu những năm 60 nhiều nhà
nghiên cứu văn học dân gian đã đưa ra những ý kiến xác đáng về truyện cổ
dân gian Việt Nam. Truyện cổ tích trên cơ sở những quan điểm Mác xít như
nhà nghiên cứu lão thành đầu tiên Trần Thanh Mại với “Tìm hiểu và phân tích

truyện cổ Việt Nam”, (1955).
Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” (5 tập) (1958-1982) do
Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu về 200 cốt truyện của
người Kinh đồng thời đưa ra 3 đặc điểm để nhìn nhận truyện cổ tích, đó là:
tính chất cổ của sự việc, trong sự việc được kể đừng có yếu tố quá xa lạ với
bản sắc dân tộc, truyện cổ tích ít nhất phải thể hiện tính tư duy trong tính nghệ
thuật.
Hoàng Trọng Miên trong “Văn học toàn thư”, (1959) phân loại truyện cổ
dân gian thành 5 loại: truyện cổ tích phong tục, truyện cổ tích thế sự, truyện
cổ tích hoang đường, truyện cổ tích tôn giáo. Mặc dù cách phân loại này chưa
hợp lí lắm nhưng nó đã góp phần mở đầu cho các công trình nghiên cứu khác
đi sâu tìm hiểu thể loại truyện cổ tích.
Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh cũng có công trình mang tính chất mở
đầu quý giá trong việc nghiên cứu truyện cổ tích qua công trình “Tìm hiểu sơ
bộ những vấn đề của truyện cổ tích Tấm Cám”, (1968), tác phẩm đã tổng hợp

Vũ Thị Phượng

3

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

các kiểu truyện cổ tích Tấm Cám trên thế giới đồng thời đề cập đến tính dân
tộc, tính quốc tế, tính địa phương và tính nhân dân trong truyện cổ tích.
Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đã cho ra đời các công trình nghiên cứu

về truyện cổ tích như: “Người anh hùng làng Gióng”, (1969) và “Tìm hiểu trữ
tình văn học dân gian Việt Nam”, (1974). Trong đó, ông đưa ra việc phân tích
và khảo sát cụ thể một tác phẩm truyện cổ dân gian trên một diện rộng từ điền
dã, diễn xướng, truyện kể đến các thư tịch cổ ghi chép sử ca, sách sử để thấy
được đặc trưng của loại truyện cổ tích - Anh hùng cao cả.
Đồng tác giả Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên trong cuốn giáo trình
“Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Đại học Tổng hợp, 1990 nêu ra khái
niệm, phân loại, đặc điểm truyện cổ tích.
Bài viết thế kỉ XX và việc nghiên cứu “Truyện cổ dân gian Việt Nam”,
Tạp chí Văn học số 6, 2001 của tác giả Nguyễn Thị Huế đã sưu tầm những
nghiên cứu về truyện cổ dân gian trên cơ sở đó nêu ra những cách phân loại
truyện cổ tích về thế kỉ XX”.
Giáo trình “Từ điển thuật ngữ Tiếng Việt", 2006, NXB Giáo dục của
đồng tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cũng đưa ra khái
niệm truyện cổ tích và phân loại truyện cổ tích thành 3 loại: Truyện cổ tích
thần kì về loài vật, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích sinh hoạt dựa trên tiêu
chí đề tài và phương diện sáng tác. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu,
các bài viết trên các tạp chí, sách xuất bản, các cuốn giáo trình trong các
trường đại học, cao đẳng... thường thiên về những khuynh hướng quen thuộc
như: giải thích cốt truyện, phân loại truyện, bình giảng truyện hay bình giảng
những hình tượng được xây dựng trong truyện... Từ đó, đưa ra các khái niệm
truyện cổ tích, phân loại truyện cổ tích với thể loại khác nhau.
Tuy nhiên, những năm gần đây, khi ngành giáo dục Tiểu học phát triển
và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong nền giáo dục nước nhà thì trẻ em
Vũ Thị Phượng

4

K35A - Giáo dục Tiểu học



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

được đặt lên làm mối quan tâm hàng đầu, dẫn tới nhiều lí luận văn học, các
nhà khoa học đã bước đầu đi tìm hiểu tác động của truyện cổ tích đối với trẻ
thơ như:
 Bài viết “Truyện cổ tích với trẻ em” – Tạp chí Văn học số 7-1994 của
tác giả Tăng Kim Ngân nêu khái quát vị trí cũng như tầm quan trọng
của truyện cổ tích đối với trẻ em.
 Đặng Thu Quỳnh, Phạm Thị Sửu, Tuyển chọn truyện kể cho trẻ, NXB
GD, 2003 đề cập đến những câu chuyện cổ tích đã được sưu tầm và
tuyển chọn để kể cho trẻ nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ.
 Truyện đời xưa (1967) Sách dùng cho học sinh cấp 1, NXB GD
Một số khóa luận nghiên cứu về truyện cổ tích như:
 Vũ Thị Thúy, Truyện cổ tích thần kì với việc giáo dục học sinh Tiểu
học, Khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Như vậy hầu hết các công trình nghiên cứu đều đi nghiên cứu về khái
niệm, đặc điểm, phân loại truyện cổ tích và tác động của truyện cổ tích đối
với trẻ thơ. Nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về vai trò của
truyện cổ tích đối với việc giáo dục học sinh Tiểu học. Dường như người
ta vẫn coi truyện cổ tích như một món ăn tinh thần để giải trí cho trẻ em
mà chưa thấy hết được ý nghĩa giáo dục của nó.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài : “Truyện cổ tích và vai trò của truyện cổ tích đối với việc giáo
dục học sinh Tiểu học” nhằm góp một cái nhìn, một tiếng nói thú vị về truyện
cổ tích, đặc biệt giúp trẻ em hiểu truyện cổ tích một cách thật sâu sắc và toàn
diện hơn về giá trị nhân văn của nó. Qua đó góp phần giáo dục toàn diện cho
trẻ.

4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

Vũ Thị Phượng

5

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Đề tài nghiên cứu ở đây rất rộng và mới mẻ, do điều kiện và khả năng còn
hạn chế, ở khóa luận này người viết không thể trình bày mọi khía cạnh của
truyện cổ tích mà chỉ dừng lại ở những vấn đề của “truyện cổ tích” với “vai
trò của truyện cổ tích đối với việc giáo dục học sinh Tiểu học”.
Để hoàn thành khóa luận này, trong phạm vi tư liệu có thể, người viết đã
lựa chọn, nghiên cứu những truyện cổ tích trong chương trình SGK Tiếng
Việt mới ở Tiểu học. Bên cạnh đó có sử dụng những thành tựu nghiên cứu
của các tác giả khác có liên quan đến nội dung khóa luận để lí giải những vấn
đề sâu sắc hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vì thời gian và trình độ có hạn nên đề tài của tôi chỉ hướng tới 2 nhiệm vụ
chính:
- Tìm hiểu khái quát về truyện cổ tích
- Phân tích, khẳng định vai trò của truyện cổ tích đối với việc giáo dục học
sinh Tiểu học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên

cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, tổng hợp
7. Cấu trúc khóa luận
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1:Cơ sở lí luận
Chương 2: Vai trò của truyện cổ tích đối với việc giáo dục học sinh Tiểu
học.
Vũ Thị Phượng

6

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Phần 3: Kết luận
Tài liệu tham khảo

Vũ Thị Phượng

7

K35A - Giáo dục Tiểu học



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Khái quát về truyện cổ tích
1.1.1 Khái niệm truyện cổ tích
Cho đến nay, truyện cổ tích đã có rất nhiều khái niệm, song nhìn chung là
giống nhau về cơ bản. Mỗi một khái niệm mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra
bổ sung, làm phong phú thêm những hiểu biết của chúng ta về thể loại truyện
cổ tích.
Theo tác giả Lê Bá Hán trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học thì: “Truyện
cổ tích là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội có giai cấp với chức
năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề về xã hội, những số phận
khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu, muôn vẻ khi đã có chế
độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền) cái mâu
thuẫn và đấu tranh xã hội quyết liệt”.
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê (chủ biên), khái niệm truyện
cổ tích được diễn đạt ngắn gọn như sau: “Truyện cổ tích là truyện cổ dân gian
phản ánh cuộc sống đấu tranh trong xã hội, thể hiện tình cảm, đạo đức, ước
mơ của nhân dân, về hình thức thường mang yếu tố thần kì, tượng trưng và
ước lệ”.
Giáo trình “Văn học dân gian” của tác giả Hoàng Tiến Tựu thì cho rằng:
“Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ khi cổ đại, gắn liền
với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy hình thành của gia đình
phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội, nó hướng vào những vấn đề cơ
bản, những hình tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là
xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và

xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là tưởng

Vũ Thị Phượng

8

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tượng và hư cấu cổ tích), kết hợp với thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để
phản ánh đời sống và ước mơ của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức,
thẩm mĩ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kì, những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau của xã hội phong kiến)”.
“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” – Nguyễn Đổng Chi có nêu: “Khi
nói đến mấy tiếng “Truyện cổ tích” hay “Truyện đời xưa” thì chúng ta đều
sẵn có quan niệm rằng đấy là một danh từ chung bao gồm hết thảy các loại
truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại”.
Từ các ý kiến trên của các tác giả ta thấy các tác giả trên đều gặp gỡ nhau
ở một số điểm:
- Về nguồn gốc: Truyện cổ tích ra đời từ xã hội nguyên thủy và phát triển
chủ yếu trong xã hội phong kiến.
- Về nội dung phản ánh: Truyện cổ tích không phản ánh mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên như thần thoại mà nó phản ánh các mâu thuẫn gia đình
và các mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Truyện cổ tích nói về mơ ước của
những người bình dị, nhỏ bé. Đó là những ước mơ được giàu sang, được hạnh
phúc, ước mơ hoàn thiện con người, ước mơ về một xã hội công bằng, bác ái.

- Về nghệ thuật: Truyện cổ tích nổi bật như một thể loại mang tính hư cấu, là
hư cấu nghệ thuật.
Những đặc trưng trên giúp chúng ta có thể phân biệt được truyện cổ tích
với các thể loại truyện cổ khác trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam
(như thần thoại, truyện ngụ ngôn).
1.1.2. Phân loại truyện cổ tích
Có nhiều cách phân loại truyện cổ tích Việt Nam được nêu lên nhưng
chưa có bản phân loại nào được thuyết giải đầy đủ trên cơ sở những tiêu chí
rõ ràng và nhất quán.

Vũ Thị Phượng

9

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Một trong những cách phân loại được nhiều người tán thành và vận dụng
hiện nay là phân chia truyện cổ tích thành ba loại chính:
+ Truyện cổ tích thần kì.
+ Truyện cổ tích loài vật.
+ Truyện cổ tích sinh hoạt.
Đây cũng là cách phân loại được tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi áp dụng phân loại truyện cổ tích trong cuốn “Từ điển thuật
ngữ Văn học”. Cách phân loại này kết hợp vận dụng những tiêu chí và căn cứ
khác nhau. Trong đó, nổi bật lên hai tiêu chí quan trọng là đề tài và phương

pháp sáng tác. Phân biệt truyện cổ tích về người với truyện cổ tích về loài vật
chủ yếu dựa vào đề tài (đối tượng phản ánh). Còn khi tách bộ phận truyện cổ
tích về người thành hai loại (truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt)
thì chủ yếu dựa vào mức độ sử dụng yếu tố thần kì mà thực chất dựa vào
phương pháp sáng tác. Cách phân chia này phù hợp với tiến trình lịch sử của
truyện cổ tích các dân tộc.
Ranh giới giữa các truyện cổ tích nói trên không phải lúc nào cũng rõ
ràng, dứt khoát. Những yếu tố thần kì vẫn rải rác trong truyện cổ tích sinh
hoạt, những môtíp đời sống xã hội với mức độ đậm nhạt khác nhau vẫn
thường xuyên có mặt trong truyện cổ tích thần kì. Và tương tự như thế, những
loại vật thuộc nhiều loại khác nhau vẫn hay được nói tới trong các truyện cổ
tích về người. Nói tóm lại, cách phân loại truyện cổ tích như trên có tính
tương đối.
Trong thể loại truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kì là nhóm truyện tiêu
biểu nhất và quan trọng. Nó ra đời sớm và đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích
đều có thể tìm thấy trong nhóm truyện này. Khuynh hướng nổi bật của truyện
cổ tích thần kì không phải là nhấn mạnh hiện thực (điều đang có) mà là trình
bày mơ ước, nguyện vọng và lí tưởng xã hội của nhân dân (điều nên có),
Vũ Thị Phượng

10

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp và cái thiện hoàn hảo. Yếu tố kì ảo

rất đậm và tham gia như một phần không thể thiếu trong sự phát triển cốt
truyện , nó đề cao trí tưởng tượng phong phú và lãng mạn của các tác giả dân
gian. Kết thúc truyện cổ tích thần kì thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc
quan, thỏa mãn ước mơ cho nhân dân.
Truyện cổ tích loài vật là nhóm truyện mà nhân vật là các con vật trong
thế giới loài vật. Các con vật đó có thể hoang dã hoặc là những vật nuôi.
Thông qua mối quan hệ của các con vật đó mà tác giả dân gian gián tiếp phản
ánh mối quan hệ giữa con người. Do vậy, truyện cổ tích loài vật có những yếu
tố gắn liền với truyện ngụ ngôn. Tuy nhiên, chúng có những nét khác nhau
đặc trưng. Truyện cổ tích loài vật có lẽ có nguồn gốc từ thờ cúng vật tổ khi
nghi lễ đó mất thiêng dần. Trong truyện cổ tích loài vật của các dân tộc Việt
Nam thì những con vật nhỏ bé và những vật nuôi chiếm được thiện cảm của
tác giả dân gian nhiều hơn những con vật to lớn và những con vật hoang dã.
Truyện cổ tích sinh hoạt là nhóm truyện ra đời muộn, khi mâu thuẫn và
đấu tranh xã hội trở nên gay gắt, nhân dân không còn ảo tưởng giải quyết các
vấn đề xã hội bằng yếu tố kì ảo. Tinh thần thực tế đã chi phối những sáng tác
nghệ thuật của nhóm truyện này, những sinh hoạt đời thường, những quan hệ
gia đình và xã hội cụ thể phong phú, khiến cho yếu tố hiện thực đậm hơn yếu
tố hoang đường. Mơ ước công bằng, dân chủ phản ánh tập chung trong nhóm
truyện ca ngợi tình nghĩa và phê phán thói vô đạo. Yếu tố kì ảo ít hơn truyện
cổ tích thần kì và thường tập trung ở cuối truyện, nhằm tô đậm hiện thực hơn
là phản ánh mơ ước.
1.1.3 Thời điểm ra đời của truyện cổ tích
Về mặt văn học, khi thần thoại trên bước đường tan rã thì cổ tích dần
dần được hình thành. Cùng với sử thi, những truyện cổ tích đầu tiên nảy sinh
từ thần thoại. Nói cách khác, những truyện thần thoại ra đời muộn đã bị “cổ
Vũ Thị Phượng

11


K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tích hóa” cho phù hợp với tư duy và hoàn cảnh lịch sử của thời đại mới. Như
vậy, thần thoại đã bị tan rã, một hướng bị sử thi, truyền thuyết hóa còn hướng
kia cổ tích hóa. Đây là một sự biến đổi khá phức tạp mà cho đến nay chưa
được nghiên cứu đầy đủ. Ở nhiều nước, nhiều dân tộc, những truyện cổ tích
đầu nguồn rất gần gũi với thần thoại. Đó là những câu chuyện kể về dũng sĩ
diệt quái vật (dũng sĩ đánh rắn, dũng sĩ diệt chim đại bàng...). Những câu
chuyện này có gốc tích từ cuộc đấu tranh với thiên nhiên trong Thần thoại.
Truyện cổ tích đầu nguồn chịu ảnh hưởng trực tiếp, nảy sinh trên cơ sở
kế thừa thần thoại nhưng lại phủ định thần thoại. Quả vậy, hàng loạt mô típ
thần thoại được cổ tích tiếp nhận để tạo nên thế giới hình tượng của mình.
Nhưng trong truyện cổ tích ta không còn thấy tính chất ngây thơ, hồn nhiên
của thần thoại nữa. Cổ tích “già dặn” hơn nhiều trong việc giải thích thế giới
khách quan. Rõ ràng, về phương diện tư duy nghệ thuật, truyện cổ tích đã ở
thế đối lập với thần thoại. Cổ tích là nghệ thuật ngôn từ tự giác, có ý thức chứ
không phải “vô thức” như thần thoại.
Về mặt xã hội, như đã biết truyện cổ tích được ra đời từ khi cổ đại, gắn
liền với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành của gia
đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội. Có thể nói rằng, giai đoạn
hoàng kim của truyện cổ tích chỉ trùng lặp với lịch sử chế độ phong kiến, khi
xã hội loài người có sự phân chia giai cấp thì mối quan hệ giữa người với
người ngày càng phức tạp, tất yếu mâu thuẫn xã hội nảy sinh.
Về mặt nhận thức, truyện cổ tích ra đời khi tư duy con người đã được
hoàn thiện lên một trình độ mới. Con người có khả năng phân tích sâu sắc hơn

về những vấn đề xã hội, về những mối quan hệ và mâu thuẫn trong gia đình,
ngoài xã hội. Đó là những mâu thuẫn giữa anh (chị) và em, mâu thuẫn dì ghẻ
(cha dượng) với người con riêng, mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo,
v.v...
Vũ Thị Phượng

12

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.4 Khái quát về nội dung của truyện cổ tích
1.1.4.1 Truyện cổ tích - bức tranh hiện thực về cuộc sống
Truyện cổ tích đã thể hiện được những mâu thuẫn, những xung đột
trong gia đình. Mâu thuẫn gia đình nảy sinh trong quá trình hình thành những
quan hệ mới giữa các thành viên. Mâu thuẫn này càng trở nên sâu sắc vì
những lí do kinh tế, làm cho các thành viên trong gia đình phân hóa thành hai
lực lượng đối lập: một bên là các thành viên lớn tuổi (người anh, người chị,
người mẹ ghẻ...); còn một bên là những thành viên nhỏ tuổi (người em, người
mồ côi, người con riêng...). Những truyện cổ tích tiêu biểu nhất cho chủ đề
này là Tấm Cám, Cây khế, Sự tích chim đa đa. Mâu thuẫn dì ghẻ con
chồng là mâu thuẫn khá phổ biến trong truyện cổ tích các dân tộc (kể cả
phương Đông lẫn phương Tây). Vì thế, Tấm Cám thành một kiểu truyện cổ
tích vào loại tiêu biểu nhất và nhiều dị bản nhất. Cùng loại với mâu thuẫn dì
ghẻ con chồng là mâu thuẫn giữa cha dượng và người con riêng của vợ. Sự
tích chim đa đa là tiếng kêu ai oán cái chết của đứa trẻ mồ côi bị bỏ lạc trong

rừng do người cha dượng gây ra.
Loại mâu thuẫn thứ hai cũng khá phổ biến trong cổ tích là mâu thuẫn
anh em hoặc chị em trong gia đình (các truyện Cây khế, Thạch Sanh, Sọ
Dừa đều đề cập đến mâu thuẫn này. Song ở đây mâu thuẫn không còn trong
phạm vi tình cảm nữa (như giữa Tân và Lang trong truyện Sự tích Trầu cau)
mà trên phạm vi quyền lợi, trên phạm vi đời sống vật chất và địa vị của cá
nhân trong gia đình. Vì vậy mâu thuẫn này cũng rất gay gắt.
Ở cả hai loại mâu thuẫn này, các lực lượng đối lập trong gia đình đã tham
gia vào những cuộc xung đột kéo dài gay gắt, thậm chí một mất một còn. Qua
quá trình xung đột, bản chất của các lực lượng đối lập được phơi bày, Các
thành viên lớn tuổi thường là những kẻ tham lam, xảo quyệt, độc ác và ngu
ngốc. Mụ gì ghẻ trong Tấm Cám luôn nuôi tham vọng giành quyền làm
Vũ Thị Phượng

13

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hoàng hậu cho cô con gái riêng của mình. Người anh trong Cây khế tham lam
đến tột cùng để được giàu sang, phú quý. Họ sẵn sàng hi sinh thậm chí tự tay
giết chết người khác trong gia đình để thực hiện ý đồ đen tối của mình. Trong
mối quan hệ với các thành viên lớn tuổi, các thành viên nhỏ tuổi trong gia
đình bao giờ cũng là nạn nhân của sự áp bức. Họ chịu đủ mọi thiệt thòi về đời
sống vật chất cũng như tinh thần. Mặc dù vậy trong con người họ luôn sáng
ngời những phẩm chất cao đẹp: hiền lành, trung thực. Họ luôn bị động trước

mọi tình thế và dường như là những con người ngốc nghếch vì lòng cả tin,
thật thà của mình. Nhưng đằng sau cái vẻ ngốc nghếch bề ngoài là trí thông
minh của người lao động.
Mâu thuẫn gia đình về bản chất là mâu thuẫn xã hội phạm vi hẹp. Ở
những giai đoạn lịch sử này, mâu thuẫn trong gia đình trở thành mâu thuẫn xã
hội. Màu sắc bao cấp đã bao trùm lên các lực lượng đối lập trong gia đình.
Người anh cả không chỉ là người anh nữa mà đã mang tính chất của một lão
nhà giàu hay một tên chủ nô; người em út cũng vậy, anh ta được mô tả như
một người nông dân đi ở hay như một tá điền. Dần dần trong truyện cổ tích,
hình thành những nhân vật hoàn toàn mang tính chất xã hội, họ là những đại
diện cho các giai cấp đối lập nhau. Nhờ vậy mâu thuẫn gia đình đã chuyển
thành mâu thuẫn xã hội. Các giai cấp luôn ở tình trạng thù địch lẫn nhau. Hiện
thực xã hội được truyện cổ tích phơi bày trên những nét cơ bản.
Trước hết là mâu thuẫn về lợi ích. Giai cấp bóc lột chủ trương lợi ích
vật chất, trong đó người nông dân chỉ yêu cầu lợi ích tinh thần. Trong truyện
Cây tre trăm đốt, người chủ rõ ràng có ý thức bóc lột sức lao động của anh
trai cày, đương nhiên với mục đích làm giàu. Thế nhưng anh trai cày lại chỉ
có một yêu cầu là được làm chồng cô con gái xinh đẹp của nhà chủ. Phân tích
bản chất của mối mâu thuẫn này, chúng ta mới hiểu được rằng, trong truyện
cổ tích chưa thể có cuộc đấu tranh đòi cơm áo. Đương nhiên mâu thuẫn sẽ dẫn
Vũ Thị Phượng

14

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


tới xung đột nhưng sự xung đột giữa các lực lượng đối kháng không được
diễn tả theo kiểu cổ tích, nghĩa là thông qua sự kì ảo hóa.
Trong truyện cổ tích, ta không chỉ thấy những xung đột mà còn thấy
những cảnh đời: cuộc sống giàu sang của giai cấp thượng lưu và sự nghèo khổ
của người dân lành. Từ đó gợi lên trong lòng người nghe, người đọc những
tình cảm mãnh liệt. Trước hết là sự đồng cảm với các nhân vật khổ đau, bị
đày đọa trong gia đình cũng như ngoài xã hội; sau nữa là sự căm thù với các
thế lực hắc ám - nguyên nhân của những nỗi bất hạnh trong thế giới loài
người.
Tuy nhiên, khi đánh giá về khả năng phản ánh hiện thực của truyện cổ
tích, ta cần nhận ra rằng: Truyện cổ tích luôn luôn thiên về những vấn đề đạo
đức. Để thực hiện chức năng giáo huấn của mình, truyện cổ tích không thể
vượt qua khỏi ranh giới của phạm trù đạo đức để bước sang lĩnh vực “chủ
nghĩa hiện thực”. Nói một cách khác, các tác giả của truyện cổ tích dân gian
nhìn hiện thực cuộc sống từ góc độ đạo đức. Vì vậy xung đột trong truyện cổ
tích về cơ bản là xung đột của những phạm trù đạo đức đối lập nhau: trung
thực - xảo quyệt; hiền lành - tàn ác; ích kỉ - vị tha......Hơn thế, truyện cổ tích
là những sáng tác dân gian nhằm giáo dục trẻ em. Bởi vậy, đối với thiếu nhi
trước khi nhận thức về xã hội, trẻ em cần nhận thức về những nguyên tắc, đạo
lí làm người.
1.1.4.2 Truyện cổ tích trình bày lí tưởng xã hội và phản ánh ước mơ của nhân
dân
Truyện cổ tích phản ánh hiện thực đời sống nhưng cũng thể hiện ước mơ,
khao khát của nhân dân. Đó là ước mơ về sự hoàn thiện con người (hoàn thiện
về sức khỏe, tài năng và đạo đức), ước mơ về sự đổi đời (mong được giàu
sang, được sống hạnh phúc, sống trong xã hội có sự công bằng, bác ái...). Như
vậy, có thể nói rằng truyện cổ tích là thế giới của những ước mơ. Thế giới này
Vũ Thị Phượng


15

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hoàn toàn phù hợp với tâm lí thiếu nhi- một lứa tuổi mà trí tưởng tượng đang
hình thành và phát triển.
a. Ước mơ về sự hoàn thiện con người
Nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích là những con người “nhỏ bé”,
bình dị, đời thường. Trước tiên là sự nhỏ bé về thể lực. Họ luôn bị người đời
coi thường, khinh bạc về hình dạng và khả năng lao động. Tiêu biểu cho ước
mơ này chính là nhân vật Sọ Dừa với hình thù kì quái, không có chân tay
nhưng lại có thể làm việc nhà giúp bố mẹ. Sọ Dừa chính là câu chuyện thể
hiện khát vọng của nhân dân về sự hoàn thiện của con người, hoàn thiện về
sức khỏe và hình hài.
Các nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích cũng thường bộc lộ rõ tài
năng của mình, thể hiện sự thông minh tài trí, có khả năng làm thay đổi tình
thế. Thời gian đầu của truyện cổ tích, khi gặp phải việc khó khăn, nhân vật
trung tâm thường nhận được sự hỗ trợ của thế giới thần linh như: Tấm được
Bụt giúp tìm cá bống, tìm sương cá, sai đàn sẻ xuống nhặt thóc giúp... Hay
như anh nông dân trong truyện Cây tre trăm đốt khi không thể tìm được cây
tre một trăm đốt đã ngồi khóc và phải cần đến sự giúp đỡ của Bụt. Nhưng
càng về sau, hành động của các nhân vật trung tâm câu chuyện càng trở nên
thực tế hơn, họ giám đối mặt với khó khăn, thử thách nhiều hơn. Và chính
khó khăn thử thách, tài năng của con người được phát huy nhiều hơn. Tiêu
biểu là thể loại truyện cổ tích về đời sống sinh hoạt. Một cậu bé nhỏ tuổi mà

thông minh, dám đối đáp với Vua khi Vua hạ lệnh cả dân làng phải nuôi được
con gà trống mà đẻ được trứng. Cậu bé đã đưa nhà Vua vào một tình huống
tương tự mà nhà Vua đã đặt ra. Để rồi ông Vua đó tự hóa giải mệnh lệnh của
mình.
Ước mơ của nhân dân không chỉ mong có được sức khỏe vô song mà
còn mong muốn có được tài năng về võ thuật. Thạch Sanh không chỉ được
Vũ Thị Phượng

16

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

biết đến là một người có sức khỏe sung mãn mà còn là một chàng trai mưu trí
đánh thắng được mãng xà, giết được đại bàng cứu công chúa.
Về đạo đức, các nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện trong truyện cổ
tích đều là những người trung thực. Đây dường như được coi là yếu tố đạo
đức đặc biệt, mà nhân dân ta hướng tới. Tuy nhiên, nhiều khi sự trung thực
này bị đẩy tới chỗ cực đoan làm cho nhân vật có phần xa lạ với đời thường,
đứng cao hơn cuộc đời trở thành một phẩm chất lí tưởng để con người hướng
tới nhằm hoàn thiện nhân cách của bản thân mình. Các nhân vật chính diện
trong truyện cổ tích nhiều khi vì lòng trung thực mà rơi vào hoàn cảnh éo le
(như Thạch Sanh), nhưng cũng chính lòng trung thực đã cứu họ thoát khỏi
mọi hiểm nguy và là người chiến thắng. Lòng trung thực như một thứ vũ khí
cứu dân lành tự bảo vệ mình trước sự tấn công của cái ác. Thạch Sanh dù bị
Lý Thông lừa đảo, cướp công, chàng vẫn không hay biết. Chỉ đến khi bị giam

trong ngục, chàng đem đàn ra gẩy, lúc này Thạch Sanh mới hiểu được bộ mặt
thật của hắn, tiếng đàn chính là tiếng lòng than thở của chàng với mọi người.
Như vậy, lòng trung thực của Thạch Sanh cũng như các nhân vật cổ tích khác
chính là sự ngay thẳng, thật thà. Đó cũng chính là nguyên tắc sống của nhân
dân lao động.
Đi liền với lòng trung thực là tình thương, đó là một trong những cái
đích mà truyện cổ tích phản ánh nhằm giáo dục trẻ em. Hầu hết các nhân vật
chính diện trong truyện cổ tích đều biết yêu thương, có lòng vị tha vô hạn.
Song ở đây, tác giả dân gian đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình về tình
thương. Đó là một thứ tình cảm dành riêng cho những con người cùng cảnh
ngộ. Ta có thể hiểu vì sao chàng Sọ Dừa đầu thai trong một gia đình nghèo
khổ? Vì sao cô Tấm chỉ đến với bà hàng nước cô đơn? Trong truyện cổ tích
có một quá trình thường diễn ra: Nhờ có tình thương và lòng vị tha mà con
người có thể đi đến những bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, ở đó nhân
Vũ Thị Phượng

17

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

vật chính diện luôn phải thử thách với tình thương, lòng vị tha của mình. Cô
gái nhờ giấu cơm cho ông lão qua đường mà được tặng sắc đẹp (Sự tích con
khỉ), chàng nông dân nhờ cứu chó, mèo mà được giúp đỡ, trở nên giàu có
(Con chó, con mèo và anh nông dân nghèo khổ).
b. Ước mơ về sự đổi đời

Truyện cổ tích là “đứa con tinh thần” của nhân dân lao động. Như đã
biết, nhân vật trung tâm của truyện thường là những con người “nhỏ bé” bị áp
bức, sống trong nghèo khổ, địa vị thấp kém cả trong gia đình và ngoài xã hội.
Họ luôn có khát khao được đổi đời.
Trước tiên, đó là ước mơ giàu sang, có nhiều tiền, nhiều vàng bạc. Chính
trong cuộc sống lam lũ cực khổ, con người đã nghiệm ra rằng giàu thì mới có
địa vị xã hội, có tiếng nói trong gia đình. Tuy nhiên, đó không phải là ước mơ
giàu có của một anh nông dân được trở thành một phú nông mà đó chỉ đơn
giản có nhiều của cải để bớt đi nỗi nhọc nhằn và sự lam lũ. Có thể nói, sau
mỗi gian truân, thử thách nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích thường được
nhận rất nhiều bạc vàng. Ước mơ về sự giàu có, có nhiều vàng, nhiều của cải
đã thể hiện ý thức của con người về việc “ san bằng” giàu nghèo trong xã hội.
Người em trong truyện Cây khế đã được chim phượng hoàng đưa ra đảo lấy
vàng; mẹ con Sọ Dừa sau một đêm thức dậy đã thấy mình trong một tòa lâu
đài lộng lẫy, kẻ hầu người hạ tấp nập.
Truyện cổ tích còn hướng vào sự công bằng xã hội: chính phải thắng tà,
người hiền tất sẽ gặp lành, người yếu đuối cần bênh vực. Ngược lại, cái xấu
cần phải bị trừng trị thích đáng. Mụ hoàng hậu trong truyện Bầy chim thiên
nga cuối cùng phải bỏ đi, còn công chúa Lidơ xinh đẹp đã cùng các anh trai
của mình trở về hoàng cung trước sự chào đón hân hoan của nhân dân. Con
sói trong truyện Cô bé trùm khăn đỏ chính là hiện thân của sự xấu xa, quỷ
quyệt, độc ác cuối cùng đã bị giết chết, còn cô bé trùm khăn đỏ đã được sống
Vũ Thị Phượng

18

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

bên người bà thân yêu của mình. Về một phương diện khác, truyện cổ tích
còn hướng tới mơ ước hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc có khi chỉ là được
sống suốt đời bên cạnh người mình yêu như nàng tiên cá (Andecxen); có khi
là sự giàu có được tặng nhiều bạc vàng... Và hạnh phúc chính là sự đầy đủ cả
về vật chất và tinh thần. Hạnh phúc của nàng Bạch Tuyết chính là nàng đã
vượt qua biết bao khó khăn thử thách, đối mặt với bàn tay ác độc của hoàng
hậu - một mụ phù thủy, cuối cùng nàng đã trở về cung điện cùng với chàng
hoàng tử của mình.
Để có được những kết quả tốt đẹp đó, nhân vật chính diện phải đấu tranh
quyết liệt mới giành được thắng lợi. Bởi vậy, có thể nói rằng hạnh phúc gắn
liền với cuộc đấu tranh và giữ gìn lấy hạnh phúc của nhân vật trung tâm trong
câu chuyện cổ tích: Cô Tấm phải chết đi sống lại nhiều lần, Thạch Sanh phải
bao phen chìm nổi. Điều đó đã khẳng định ý nghĩa tích cực của truyện cổ tích,
đó chính là: Con người không phải lúc nào cũng thụ động, sống trông chờ vào
số phận, vào sự may mắn mà cuộc đời đem đến cho họ. Con người đạt được
thành công bởi chính hành động phản kháng của mình. Đó cũng là một quan
niệm, một lí tưởng sống của nhân dân lao động trong suốt quá trình lịch sử.
Lí tưởng công bằng trong truyện cổ tích đã thể hiện tinh thần dân chủ
của nhân dân ở mức độ cao hơn so với ước mơ về đời sống vật chất. Nó ít
nhiều đã mang ý nghĩa chính trị. Truyện cổ tích đã đề cập đến sự đổi đời về
phương diện chính trị: Thạch Sanh lên làm Vua, cô Tấm trở thành hoàng hậu.
Đây không chỉ là ước mơ cao sang, quyền quý mà đây chính là khát vọng làm
thay đổi xã hội. Xã hội lí tưởng trong tương lai phải là Vua sáng, tôi hiền, xã
hội công bằng. Tuy nhiên, lí tưởng về một xã hội công bằng trong truyện cổ
tích là xã hội nằm trong khuôn khổ xã hội phong kiến. Xã hội đích thực mà
nhân dân ta mơ ước cũng chính là xã hội ngày nay mà chúng ta đang hướng
tới.

Vũ Thị Phượng

19

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.4.3 Truyện cổ tích ca ngợi tình cảm đạo đức xã hội theo quan điểm của
nhân dân.
Truyện cổ tích dù phản ánh hiện thực hay trình bày mơ ước thì cũng
mang nội dung giáo dục tình cảm, nêu những bài học đạo đức của người lao
động. Đó là tình nghĩa vợ chồng chung thủy, vượt qua mọi khó khăn cách trở,
bền vững cùng không gian và thời gian. Nàng Tô Thị (Sự tích đá vọng phu)
chờ chồng đến hóa đá; người vợ (Sự tích con sam) không thể tin nổi chồng
mình đã chết, lang thang bao nhiêu ngày trên đường tìm chồng cho đến khi
gặp lại chồng giữa đảo hoang... Đó là tình bạn keo sơn giữa Nhân và Quốc
(Sự tích chim quốc) một người không muốn làm phiền bạn đã bí mật ra đi,
người kia quyết tìm được bạn mới về. Nhân chết trong rừng hóa thành chim
vẫn luôn miệng gọi “Quốc, Quốc”; người bạn làm quan vẫn không quên tình
bạn thưở hàn vi (Ba người bạn)... Đó là tình anh em, vợ chồng gắn bó thắm
thiết ( Sự tích trầu, cau, vôi). Người anh tìm em cho đến chết, hóa thành cây
vẫn vươn mãi lên cao để có thể theo dõi thật xa tìm em, còn người vợ vẫn
quấn quýt bên chồng. Sự hiện diện của ba người trong miếng trầu đằm thắm
mang ý nghĩa hạnh phúc trọn vẹn, thể hiện mong ước anh em hòa hợp, gia
đình hạnh phúc của nhân dân. Đó cũng là tình người nhân hậu đã che chở cho
Tấm (Tấm Cám), người đi đường mua mía đã trả lại tiền cho người trồng

vắng mặt, còn người trồng mía lại tìm mọi cách trả lại tiền thừa cho người kia
(Người trồng mía và người đi đường), người học trò vượt bao khó khăn đến
tìm Ngọc Hoàng để hỏi về nỗi uất ức của mình, nhưng anh đã quên mình dành
cả ba câu hỏi cho những người nhờ anh. Những nhân vật đó chính là những
tấm gương về đạo đức, luân lí theo quan niệm truyền thống của nhân dân.
Truyện cổ tích của dân tộc nào cũng đề cao đạo đức, nhân nghĩa. Nó là
một môi trường đắc địa để những bài học đạo đức, luân lí đưa đến cho mọi
người một cách tự nhiên. Không phải dân tộc nào cũng đề cao đạo đức như là
Vũ Thị Phượng

20

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

yếu tố thứ nhất của phẩm chất con người như dân tộc Việt Nam. Có những
dân tộc rất đề cao yếu tố trí tuệ và tài năng, dân tộc khác lại coi trọng sức
mạnh thể lực và trí tuệ của nhân vật. Dường như theo quan niệm của người
Việt Nam, đạo đức là cái gốc của mọi sự tốt xấu trên đời. Muốn thay đổi trật
tự xã hội, muốn bảo vệ cộng đồng hay muốn duy trì quan hệ bền vững giữa
người với người trước hết phải thi hành nhân nghĩa, tu chỉnh đạo đức. Vì vậy,
triết lí lòng tốt, triết lí ở hiền gặp lành luôn được đề cao. Nhân vật chính của
câu chuyện cổ tích Việt Nam cũng có thể lao động giỏi (bắt đầy giỏ tép, trồng
hành lớn như thổi, chăn dê béo...), có thể dũng cảm chiến đấu vì công bằng
chính nghĩa hoặc bênh vực người khác... nhưng họ trước hết là những người
hiền lành, tốt bụng, vị tha, nhân hậu.. Trong truyện cổ tích yếu tố đạo đức

được tập trung ca ngợi nhiều nhất là “ở hiền” . Nhân vật tốt bụng, hiền lành,
cả tin đến mức như những người ngốc nghếch, bị lừa gạt, bị bắt nạt bao nhiêu
lần vẫn không thể tỉnh ngộ, không biết cách tự vệ hoặc phản ứng (Thạch
Sanh, Cây tre trăm đốt...). Thực ra cách đặc tả như vậy chính là đề cao đạo
đức một cách cực đoan, nhằm khẳng định ý nghĩa tất thắng của đạo đức trong
những tương quan khác như nhân dân ta từng tổng kết: “thật thà là cha quỷ
quái”, “khôn ngoan chẳng lọ thật thà”.
Cũng một khuynh hướng đề cao tình cảm đạo đức người lao động, một
bộ phận truyện cổ tích lại hướng vào sự phê phán thói vô đạo, coi đó như
những bài học bổ ích, một loại “thuốc đắng dã tật” cho những ai lãng quên
tình nghĩa anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái, hàng xóm láng giềng. Phần lớn
những truyện này là truyện cổ tích sinh hoạt. Có những truyện nhằm nhắc
nhở, có tính chất vun đắp, xây dựng tình nghĩa gia đình và cộng đồng ấm
cúng như Giết chó khuyên chồng, Đồng Tiền Vạn Lịch, Cha mẹ nuôi con
bể hồ lai láng...Nhưng trong những truyện phê phán thói vô đạo đức cũng có
một nhóm truyện mang ý nghĩa loại trừ, tiêu diệt những kẻ độc ác, vô đạo
Vũ Thị Phượng

21

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

nhằm bảo vệ cộng đồng trong sạch, tình nghĩa như Tiếc gà chôn mẹ, Của
thiên trả địa, Cứu vật vật trả ân, cứu nhân nhân trả oán...
Quan niệm đạo đức được phản ánh trong truyện cổ tích vừa chắt lọc kinh

nghiệm ứng xử trong thực tế, vừa là đạo đức lí tưởng mà người lao động
mong muốn xây dựng. Vì thế, nó vừa gần gũi vừa cao cả,vừa cụ thể vừa lấp
lánh màu sắc thánh thiện. Nó không chỉ là cái vốn có trong cộng đồng mà còn
là cái nên có, cần có cho cuộc đời tốt đẹp hơn.
1.2 Đặc điểm của học sinh Tiểu học
1.2.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học
Ở học sinh Tiểu học, tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào chi
tiết nhất là đối với học sinh lớp 1,2, tuy nhiên trẻ cũng bắt đầu có khả năng
phân tích tách dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một nội dung nào đó. Tri giác và
đánh giá không gian, thời gian còn hạn chế, tri giác chưa chính xác độ lớn của
những vật quá lớn hoặc quá nhỏ. Tri giác thời gian còn hạn chế hơn.
Tư duy của học sinh đầu cấp Tiểu học (lớp 1, 2, 3) là tư duy cụ thể,
mang tính hình thức, dựa vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ hoạt động học tập, tư
duy dần dần mang tính khái quát. Khi khái quát, học sinh Tiểu học thường
dựa vào chức năng và công dụng của sự vật,hiện tượng, trên cơ sở này chúng
tiến hành phân loại. Hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ đẳng. Việc học
Tiếng Việt và Toán sẽ giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Tuy nhiên trẻ
thường gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả.
Tưởng tưởng của học sinh Tiểu học còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh
tưởng tượng thì đơn giản, hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn
thiện. Ngoài ra, “nói dối” là hiện tượng gắn liền với sự phát triển tưởng tưởng
của trẻ. Chú ý không chủ định vẫn phát triển, chú ý có chủ định vẫn còn yếu
và thiếu bền vững. Sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của hoạt động
học tập.
Vũ Thị Phượng

22

K35A - Giáo dục Tiểu học



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Học sinh Tiểu học trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ
ngữ logic. Nhiều học sinh Tiểu học còn chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý
nghĩa mà có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc. Ghi nhớ gắn với mục
đích đã giúp trẻ nhớ nhanh hơn, lâu hơn và chính xác hơn. Tuy nhiên trí nhớ
trừu tượng đang hình thành và phát triển mạnh.
1.2.2 Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học
Bước sang độ tuổi học sinh Tiểu học, nhân cách của học sinh được hình
thành một cách rõ nét. Từ môi trường sinh hoạt chủ yếu là gia đình, các em
bước vào môi trường hoạt động hoàn toàn mới với thầy cô, bạn bè; được sống
trong tập thể lớp, sinh hoạt Sao Nhi Đồng , đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh, từ trong môi trường và các mối quan hệ ấy, đã hình thành phẩm chất ý
chí, tính cách hành vi đạo đức của học sinh Tiểu học.
1.2.2.1. Tính cách của học sinh Tiểu học
Tính cách của học sinh Tiểu học hình thành khá sớm từ trước độ tuổi đi
học, song chưa ổn định và có thể thay đổi dưới sự tác động của giáo dục. Một
đứa trẻ nhút nhát hay bạo dạn, sôi nổi hay trầm tính không hoàn toàn do bản
tính của em đó quy định, nó có thể thay đổi khi các em thực sự tham gia vào
các hoạt động tập thể.
Ở lứa tuổi này, tính cách của học sinh còn mang tính tự phát, các em dễ
bị kích thích bởi yếu tố bên trong hoặc bên ngoài. Điều này có thể thấy khi
các em tiếp cận với một câu chuyện cổ tích, các em dễ tỏ thái độ bằng lời nói
với nhân vật mình yêu hay ghét.
Phần lớn học sinh Tiểu học có tính cách tốt như: tính ham hiểu biết, tính
trung thực, hồn nhiên,có lòng vị tha, lòng thương người... Các em hồn nhiên
trong mối quan hệ với người lớn, với thầy cô, với bạn bè. Hồn nhiên nên các

em rất cả tin: tin vào người lớn, tin vào sách vở, tin vào khả năng của bản
thân. Bởi vậy, khi được tiếp xúc với truyện cổ tích, những nét tính cách tốt đó
Vũ Thị Phượng

23

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

của học sinh sẽ được bồi đắp. Truyện cổ tích đã đưa các em đến một niềm tin
“ở hiền gặp lành” , niềm tin của khả năng của con người... Niềm tin ấy còn
mang tính cảm tính, chưa có lí trí dẫn đường nên nhà trường, gia đình, xã hội
cần xây dựng niềm tin cho các em .
Tính hay bắt chước cũng là một đặc điểm quan trọng của mọi lứa tuổi
này. Học sinh Tiểu học thích bắt chước những hành vi, cử chỉ của nhân vật
trong truyện , trong phim. Tuy nhiên đây cũng là một “con dao hai lưỡi”, trẻ
có thể bắt chước cả cái tốt lẫn cái xấu. Bởi vậy, với vai trò của mình, truyện
cổ tích cần được hướng vào học sinh bằng cách nêu bật những cái tốt, chỉ rõ
những cái ác, cái xấu.
Học sinh Tiểu học của nước ta sớm có thái độ và thói quen tốt với lao
động. Lao động rèn luyện cho các em những phẩm chất tốt đẹp như tính kỉ
luật, sự cần cù, thông minh tìm tòi, khả năng sáng tạo.
1.2.2.2. Nhu cầu nhận thức
Ở học sinh Tiểu học, nhu cầu nhận thức gắn liền với nhu cầu được tìm
hiểu, khám phá thế giới xung quanh mình. Đầu tiên là nhu cầu tìm hiểu những
sự vật còn riêng lẻ, những hiện tượng riêng biệt (lớp 1,2,3). Sau đó đến nhu

cầu gắn liền với sự phát hiện nguyên nhân, quy luật, các mối quan hệ và quan
hệ phụ thuộc giữa các hiện tượng (lớp 4,5 ). Nếu như học sinh lớp 1 có nhu
cầu tìm hiểu “Cái đó là cái gì” thì ở học sinh các lớp cuối bậc học lại có nhu
cầu giải quyết câu hỏi: “Vì sao” và “Như thế nào”. Điều này có thể thấy
truyện cổ tích đến với các em một cách tự nhiên, nó thỏa mãn yêu cầu của học
sinh, các em rất quan tâm đến li kì, kì ảo...
Nhu cầu nhận thức là một nhu cầu tinh thần lớn của con người. Đối với
học sinh Tiểu học nhận thức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển của trí tuệ. Khi các em có nhu cầu nhận thức nhưng vì một lí do nào
đó mà không được thỏa mãn thì các em sẽ thấy bứt dứt khó chịu. Nhưng khi
Vũ Thị Phượng

24

K35A - Giáo dục Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

các em đã được thỏa mãn thì các em tiếp tục muốn thỏa mãn hơn. Đó là tính
không ngừng của nhu cầu. Để hình thành nhu cầu nhận thức của học sinh, ta
cần tổ chức các hoạt động học tập cho các em. Khi có nhu cầu nhận thức, các
em sẽ khám phá khó khăn để tự mình chiếm lĩnh tri thức, tự học suốt đời.
Trẻ em cần hướng niềm tin vào khả năng nhận thức của mình. Việc
khích lệ, động viên học sinh tin vào khả năng làm được của mình sẽ giúp các
em vững tin hơn.
1.2.2.3. Tình cảm
Tình cảm là một mặt rất quan trọng của đời sống tâm lí nói chung và

nhân cách nói riêng. Đối với học sinh Tiểu học, tình cảm có một vị trí đặc biệt
vì nó là khâu trọng yếu gắn liền nhận thức với hoạt động của các em. Tình
cảm tích cực không chỉ kích thích các em nhận thức mà còn thúc đẩy các em
hành động.
Đối tượng gây tình cảm, cảm xúc của học sinh Tiểu học thường là những
sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh động. Bởi vậy nếu chỉ có thuyết giảng một vấn
đề thì các em rất chóng chán, mệt mỏi và căng thẳng. Giáo viên cần có những
biện pháp thích hợp giúp học sinh bộc lộ cảm xúc.
Do dễ xúc động nên các em yêu mến một cách chân thực cây cối, chim
muông, vật cảnh. Điều này rất thuận lợi khi các em đến với truyện cổ tích.
Tình cảm của các em phải luôn được củng cố trong những điều kiện cụ
thể: học tập, vui chơi, thể thao, văn nghệ. Vì vậy, trong quá trình dạy học và
giáo dục, giáo viên phải tổ chức học sinh tham gia vào nhiều hoạt động.
Giáo dục tình cảm cho học sinh là công việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi
nhiều công sức và là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường, gia đình và xã hội.
Đối với học sinh Tiểu học công việc này càng có ý nghĩa, bởi lẽ lứa tuổi các
em đang là “tuổi hoa”, tuổi sống nhiều về tình cảm. Và khi được tiếp xúc với
truyện cổ tích thì tình cảm yêu, ghét, quý mến,... được thể hiện rất rõ nét.
Vũ Thị Phượng

25

K35A - Giáo dục Tiểu học


×