Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp gợi mở vấn đáp giúp học sinh lớp 4 hình thành kiến thức mới trong dạy học nội dung phân số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.52 KB, 84 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS.
DƢƠNG THỊ HÀ đã tận tình hƣớng dẫn trong suốt quá trình viết khóa luận
tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Giáo dục Tiểu học, trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tận tình truyền đạt kiến thức trong 4 năm học
tập. Với vốn kiến thức đƣợc tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền
tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em
bƣớc vào đời một cách vững chắc và tự tin.

1


Lời cam đoan.
Em xin cam đoan khoá luận là công trình nghiên cứu của bản thân.
Các số liệu, kết quả trong khoá luận là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng

2


MỤC LỤC
Danh mục

Trang

MỞ ĐẦU

2

1. Lý do chọn đề tài



2

2. Mục đích nghiên cứu.

3

3. Phạm vi nghiên cứu.

3

4. Các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể.

4

5. Cấu trúc khoá luận

4

NỘI DUNG

5

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

5

1.1. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học toán ở Tiểu học

5


1.2. Phƣơng pháp trực quan

8

1.3. Phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp

12

1.4. Sự phối hợp giữa hai phƣơng pháp này trong các giờ dạy học 15
hình thành kiến thức mới nội dung phân số lớp 4.
1.5. Nội dung phân số trong chƣơng trình tiểu học

20

1.6. Kết luận

25

CHƢƠNG 2. ĐỀ XUẤT RA CÁCH SỬ DỤNG PHƢƠNG PHÁP 26
TRỰC QUAN KẾT HỢP PHƢƠNG PHÁP GỢI MỞ - VẤN
ĐÁP TRONG DẠY HỌC HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI
NỘI DUNG PHÂN SỐ LỚP 4.
2.1. Cách sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp phƣơng pháp 26
gợi mở - vấn đáp trong dạy học nội dung phân số
2.2. Kết luận.

80
3



KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định "Phát triển giáo dục đào
tạo là những động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
điều kiện phát huy nguồn lực con ngƣời – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững".
Chính vì vậy, giáo dục tiểu học đã có những thay đổi mạnh mẽ để phù
hợp với sự phát triển của xã hội: Nội dung ngày càng hiện đại, thiết thực,
tinh giản, cập nhập đƣợc các vấn đề mới, tính hệ thống ngày càng sâu rộng,
còn phƣơng pháp dạy học ngày càng phong phú, đa dạng theo hƣớng tích
cực hoá hoạt động của học sinh.
Ở trƣờng Tiểu học, môn toán cung cấp những kiến thức mở đầu cho Toán
học, tuy sơ giản nhƣng lại là kiến thức cơ bản và nền tảng cho quá trình tiếp
tục học tập sau này cần có đối với mỗi học sinh. Căn cứ vào kết quả nghiên
cứu thử nghiệm về khả năng học tập toán của học sinh Tiểu học Việt Nam
đầu thế kỉ XXI, việc dạy Toán ở Tiểu học theo chƣơng trình Tiểu học mới
đƣợc phân chia làm hai giai đoạn: Nếu gọi giai đoạn 1 gồm các lớp 1, 2, 3 là
giai đoạn học tập cơ bản thì giai đoạn 2 gồm các lớp 4, 5 là giai đoạn học tập
sâu. Và toán 4 mở đầu cho giai đoạn học tập sâu hơn với ý nghĩa vẫn dạy
học các kiến thức và kĩ năng cơ bản của môn Toán nhƣng ở mức độ sâu hơn,
khái quát hơn, tƣờng minh hơn. Toán 4 còn bổ sung, tổng kết quá trình dạy

học số tự nhiên và chính thức dạy học phân số. Trong chƣơng trình môn toán
của lớp 4, môn Toán chủ yếu tập trung vào bổ sung, hoàn thiện, tổng kết, hệ
thống hoá, khái quát hoá về số tự nhiên, hệ đếm thập phân, bốn phép tính
4


cộng, trừ, nhân, chia và một số tính chất của chúng. Giải toán có lời văn, một
số quan hệ toán học và ứng dụng của chúng trong thực tế cũng đƣợc giới
thiệu. Gắn với dạy học về biểu đồ, giải toán liên quan đến việc tìm số trung
bình cộng của nhiều số. Với các mối quan hệ trong phân số hoặc tính toán
thực hiện trên các phân số. Trong đó vấn đề dạy học trong phân số trong nội
dung Toán 4 cần đặc biệt coi trọng và lƣu tâm. Phân số đƣợc sử dụng hàng
ngày trong hầu hết các hoạt động thực tiễn và có thể coi là "chia khoá vàng"
về mặt quan niệm giữa Toán học và thực tiễn. Phân số góp phần vào việc
hoàn thiện hệ thống số ở Tiểu học. Vì vậy để học sinh nắm đƣợc mảng kiến
thức cơ bản này giáo viên cần có những phƣơng pháp dạy học thích hợp là
điều cần thiết và quan trọng. Một trong các phƣơng pháp vận dụng đem lại
hiệu quả cao đó là vận dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng
pháp gợi mở - vấn đáp giúp học sinh hình thành kiến thức trong phân số các phép tính phân số.
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trƣờng Tiểu học mà Bộ Giáo
dục – Đào tạo đã nhiều năm tiến hành cải cách chƣơng trình sách giáo khoa
và đổi mới phƣơng pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm tâm lý phát triển
nhân cách của học sinh cùng với lý do nêu trên, tôi quyết định chọn viết đề
tài:
"Sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp gợi mở vấn đáp giúp học sinh lớp 4 hình thành kiến thức mới trong dạy học nội
dung phân số"
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu việc sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng pháp
gợi mở vấn đáp trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số
Toán lớp 4. Trên cơ sở ấy đề xuất ra cách giảng dạy có hiệu quả, phù hợp


5


với khả năng nhận thức của học sinh, tạo cho học sinh có hứng thú học tập
trong nội dung phân số Toán 4
3. Phạm vi nghiên cứu.
Sách giáo khoa Toán 4 và thực tiễn giảng dạy đối với học sinh lớp 4
4. Các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể.
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng phƣơng pháp trực
quan
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng phƣơng pháp gợi
mở - vấn đáp
Đề xuất ra cách sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp phƣơng pháp
gợi mở vấn đáp trong dạy học nội dung phân số lớp 4 có hiệu quả, phù hợp
với khả năng nhận thức của học sinh
5. Cấu trúc khoá luận
Khoá luận gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận
Phần nội dung của khoá luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Đề xuất ra cách sử dụng phƣơng pháp trực quan kết
hợp phƣơng pháp gợi mở vấn đáp trong dạy học nội dung phân
số lớp 4.

6



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học toán ở Tiểu học
1.1.1. Thế nào là đổi mới phƣơng pháp dạy học?
Trƣớc hết ta cần hiểu đổi mới phƣơng pháp dạy học với các mức độ sau
đây:
+ Là sự cải tiến, hoàn thiện các phƣơng pháp dạy học đang sử dụng để
góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc dạy học.
+ Là việc bổ sung, phối hợp nhiều phƣơng pháp dạy học để khắc phục
hạn chế các phƣơng pháp dạy học đang sử dụng nhằm đạt đƣợc mục tiêu dạy
học đề ra.
+ Là sự thay đổi phƣơng pháp dạy học bằng phƣơng pháp dạy học mới
tối ƣu; từ đó hình thành nên các kiểu Dạy – Học mới với mong muốn đem
lại hiệu quả cao hơn.
Cho dù đổi mới ở mức độ nào thì việc dạy và học cũng phải hƣớng đến
"Dạy – Học lấy học sinh làm trung tâm" với các tiêu chí sau đây.
Thứ nhất: Ngƣời dạy phải luôn hƣớng đến ngƣời học, nắm đƣợc đặc
điểm kiểu tƣ duy của ngƣời học dạy cho ngƣời học cái họ cần, giáo dục cần,
xã hội cần.
Thứ hai: hoạt động hoá ngƣời học bằng nhiều phƣơng thức tạo điều kiện
buộc ngƣời học làm việc, ngƣời học phải chủ động chiếm lĩnh tri thức bằng
nhiều con đƣờng khác nhau.

7


Thứ ba: Hợp tác giữa các thành viên – Đảm bảo sự thống nhất biện
chứng giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể trong dạy học.
Thứ tƣ: Thực hiện có hiệu quả "học đi đôi với hành" "lý luận gắn liền
với thực tiễn", khai thác tối đa vốn kinh nghiệm của ngƣời học.

Thứ năm: Sử dụng hợp lý các phƣơng tiện dạy học, góp phần huy động
tối đa các giác quan của ngƣời học tham gia vào quá trình dạy học.
1.1.2. Sự cần thiết phải đổi mới phƣơng pháp dạy học Toán ở Tiểu học
Sự cần thiết phải đổi mới trong giáo dục đã đƣợc ghi trong nghị quyết
40/2000/QH10 về đổi mới chƣơng trình Giáo dục phổ thông và thể hiện
trong chỉ thị 14/2001/CT-TTG ngày 11/6/2001 của thủ tƣớng chính phủ về
thực hiện nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc Hội
Việc dạy học Toán ở các trƣờng Tiểu học của nƣớc ta đã có một quá
trình phát triển lâu dài. Trong những năm qua, với sự cố gắng chung của đội
ngũ giáo viên tâm huyết có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và
nhạy cảm trƣớc yêu cầu của xã hội, các phƣơng pháp dạy học đã vận dụng
và thƣờng xuyên cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nhà trƣờng
Tiểu học Việt Nam. Việc làm đó đã góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học
nói chung và bộ môn Toán nói riêng.
Trong thực tiễn ở Tiểu học những năm qua, phƣơng pháp dạy học Toán
về cơ bản

đƣợc đổi mới, đáp ứng đƣợc một phần những đổi mới về mục

tiêu, nội dung giáo dục. Tuy nhiên, để sự đổi mới diễn ra một cách toàn diện,
mạnh mẽ, sâu sắc thì cần sự nỗ lực rất lớn của cả thầy và trò trong một thời
gian dài. Hiện nay ở một số nơi, việc đổi mới phƣơng pháp dạy học vẫn
chƣa triệt để:
- Bên cạnh những giáo viên tâm huyết luôn tìm tòi để vận dụng các
phƣơng pháp dạy học trong giảng dạy nhằm phát huy đƣợc tính tích cực,
sáng tạo, chủ động của học sinh trong học tập thì vẫn còn một số giáo viên
8


ngại đổi mới vẫn thƣờng chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu có sẵn

trong sách giáo khoa, sách hƣớng dẫn giảng dạy khiến cho học sinh thụ động
trong giờ học. Sự hứng thú trong học tập của học sinh bị suy giảm.
- Dạy học Toán theo phƣơng pháp nhƣ vậy đang cản trở việc đào tạo
những ngƣời lao động năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích
ứng với những đổi mới diễn ra trong xã hội. Yêu cầu giáo dục mới đòi hỏi
phải chuyển sang phƣơng pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học
sinh tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đều tham gia tích cực vào hoạt
động dạy học.
1.1.3. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học toán ở tiểu học
Trong quá trình dạy học Toán, giáo viên là ngƣời tổ chức và hƣớng dẫn hoạt
động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển năng
lực cá nhân
Theo định hƣớng này:
- Giáo viên tổ chức hƣớng dẫn học sinh huy động vốn hiểu biết kinh
nghiệm của bản thân để tự học sinh chiếm lĩnh tri thức mới rồi mới vận dụng
tri thức mới vào thực hành.
- Mọi học sinh đều phải hoạt động, phải độc lập suy nghĩ và làm việc
tích cực. Tổ chức đƣợc cách nhƣ vậy thì không cần đặt ra các biện pháp để
giữ trất tự mà học sinh vẫn tập trung vào hoạt động học tập. Cách học mới
tạo ra cho học sinh thói quen làm việc tự giác, chủ động, không dập khuôn,
biết tự đánh giá và đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn, đặc biệt tạo
cho học sinh có niềm tin và niềm vui trong học tập.
- Mọi hoạt động của lớp học do học sinh thực hiện một cách chủ động,
tích cực theo sự hƣớng dẫn, tổ chức của giáo viên. Học sinh trở thành trung
tâm của quá trình dạy học

9


- Khi tổ chức và hƣớng dẫn các hoạt động của học sinh, giáo viên phải

vận dụng một cách hợp lý mặt tích cực của các phƣơng pháp dạy học truyền
thống để giúp học sinh huy động kiến thức của mình. Nhƣ vậy:
- Đổi mới phƣơng pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ các
phƣơng pháp truyền thống mà phải vận dụng các phƣơng pháp đó để tổ chức
cho học sinh hoạt động học tập theo kiểu mới (hoạt động cá nhân, hoạt động
theo nhóm…) tạo điều kiện cho từng học sinh đƣợc tham gia giải quyết vấn
đề. Từ đó mà thu nhận tri thức mới và rèn luyện kỹ năng mới.
- Kết quả của việc dạy học Toán không chỉ đem lại cho học sinh những
tri thức mới, kỹ năng cơ bản, cần thiết của môn Toán mà còn góp phần hình
thành phƣơng pháp học tập hiệu quả trong môn Toán nói riêng và các môn
học khác nói chung.
- Đổi mới phƣơng pháp dạy học toán là một quá trình lâu dài. Đối với
môn Toán trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số nói
riêng, sự đổi mới hai phƣơng pháp trực quan và gợi mở - vấn đáp có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Vậy để giờ học đem lại hiệu quả cao thì ngƣời giáo viên
cần phải hiểu rõ về hai phƣơng pháp này.
1.2. Phƣơng pháp trực quan.
1.2.1. Lịch sử vấn đề.
Trong dạy học, xƣa nay vấn đề trực quan đóng một vai trò hết sức quan
trọng. Lênin chỉ ra con đƣờng nhận thức chung của nhân loại là: “Từ trực
quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn
- đó là con đƣờng biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
thực tại khách quan”. Cùng với sự phát triển của khoa học, việc nhận thức
về trực quan theo công thức của Lênin một cách đúng đắn có một ý nghĩa
rất quan trọng.

10


Vậy để tìm hiểu yếu tố trực quan trong quá trình nhận thức của con

ngƣời trong dạy học cần phân biệt một số khái niệm liên quan đến trực quan
trong dạy học. Các khái niệm liên quan đến trực quan bao gồm: trực quan,
phƣơng tiện trực quan, phƣơng tiện dạy học và phƣơng tiện giáo dục. Theo
GS.TS KH Thái Duy Tuyên thì:
- Trực quan trong hoạt động dạy học, đƣợc hiểu là khái niệm dùng để
biểu thị tính chất của hoạt động nhận thức, trong đó thông tin thu đƣợc từ
các sự vật hiện tƣợng của thế giới bên ngoài nhờ sự cảm nhận trực tiếp của
các cơ quan cảm giác con ngƣời.
- Phƣơng tiện trực quan là những công cụ mà thầy giáo và học sinh sử
dụng trong quá trình dạy học nhằm tạo ra các biểu tƣợng, hình thành những
khái niệm cho học sinh thông qua sự tri giác trực tiếp thí dụ nhƣ các vật tự
nhiên cây, hoa quả, mô hình, biểu đồ,…
- Phƣơng tiện dạy học là những công cụ mà thầy giáo và học sinh sử
dụng trong quá trình dạy học nhằm đạt đƣợc mục đích dạy học đó là: các
vật thật, các vật tƣợng trƣng (bản đồ, sơ đồ, biểu đồ), các vật tạo hình (tranh
ảnh, mô hình, hình vẽ, phim). Thí nghiệm và các thiết bị thí nghiệm, các
phƣơng tiện mô tả đối tƣợng và hiện tƣợng bằng lời, bằng kí hiệu (sách giáo
khoa, sách hƣớng dẫn, tài liệu in, các công thức, phƣơng trình); các phƣơng
tiện kỹ thuật dạy học (phƣơng tiện nghe nhìn, computer, camera..)
- Phƣơng tiện giáo dục là khái niệm dùng để chỉ tất cả các dụng cụ,
phƣơng tiện mà giáo viên và học sinh trực tiếp sử dụng trong quá trình giáo
dục (dạy học, lao động, vui chơi, sinh hoạt tập thể....) và các điều kiện vật
chất cần thiết cho các hoạt động giáo dục.
Vậy bản chất của phƣơng pháp trực quan là phƣơng pháp huy động các
giác quan của học sinh tham gia vào quá trình nhận thức, làm cho việc tiếp
thu kiến thức trở nên dễ dàng và sự ghi nhớ trở nên bền vững và chính xác.
11


1.2.2. Cơ sở khoa học.

1.2.2.1. Cơ sở triết học.
Khi sử dụng phƣơng pháp này, giáo viên tổ chức cho học sinh độc lập
quan sát các sự vật, hiện tƣợng của tự nhiên hay xã hội để chứng minh hay
khẳng định một luận điểm khoa học nào đó.
1.2.2.2 Cơ sở tâm lý học
Theo các nhà tâm lý học, để phát triển óc quan sát và tƣ duy của HS, thật
cần thiết phải có trực quan vật thật. Việc làm này cung cấp cho HS những tri
thức cụ thể, xác thực về các sự vật, trên cơ sở đó so sánh các vật, nhận thức
chúng sâu sắc hơn.
1.2.2.3. Cơ sở giáo dục
Giáo viên cần kết hợp hài hoà thống nhất giữa dạy học với phƣơng tiện
trực quan, cần đảm bảo mục đích chủ yếu của dạy học trực quan là rèn luyện
óc quan sát, tính lôgic và kĩ năng diễn đạt chân thực bằng lời những điều mình
quan sát đƣợc và những kết luận lôgic rút ra từ những quan sát đó.
1.2.3. Nội dung
Quan niệm: Phƣơng pháp dạy học trực quan trong dạy học toán ở tiểu học
là một phƣơng pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức hƣớng dẫn cho học
sinh trực tiếp hoạt động trên các phƣơng tiện, đồ dùng dạy học, từ đó giúp học
sinh hình thành kiến thức và kĩ năng cần thiết của môn toán.
1.2.3.1. Tìm hiểu vai trò, tác dụng và phạm vi sử dụng của phƣơng pháp
trực quan trong dạy học
Phƣơng pháp trực quan cũng nhƣ các phƣơng pháp khác không thể sử
dụng tuỳ tiện mà khi sử dụng cần thoả mãn một số yêu cầu cơ bản sau:
- Một là: Sử dụng phƣơng phap trực quan trong dạy học toán ở tiểu học
không thể thiếu phƣơng tiện (đồ dùng) dạy học. Các phƣơng tiện (đồ dùng)
dạy học phù hợp với từng giai đoạn nhận thức của trẻ. ở giai đoạn 1, các
12


phƣơng tiện chủ yếu là các đồ vật thật hoặc hình ảnh của đồ vật thật, gần gũi

với cuộc sống của trẻ. Ở giai đoạn 2, các phƣơng tiện trực quan thƣờng ở
dạng sơ đồ, mô hình có tính chất tƣợng trƣng, trừu tƣợng và khái quát hơn.
Các đồ dùng trực quan với mục đích chủ yếu là tạo chỗ dựa ban đầu cho
hoạt động nhận thức của trẻ, vì vậy phƣơng tiện (đồ dùng) cần phải tập trung
bộc lộ rõ những dấu hiệu bản chất của các mối quan hệ Toán học, giúp học
sinh dễ thấy, dễ cảm nhận đƣợc các nội dung kiến thức toán học.
Các đồ dùng (phƣơng tiện) phù hợp với nội dung yêu cầu của các bài
học, dễ làm, dễ kiếm, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phƣơng, phù hợp
với điều kiện kinh tế của giáo viên và phụ huynh học sinh. Tránh dùng các
phƣơng tiện quá máy móc.
Đồ dùng (phƣơng tiện) cần đảm bảo tính thẩm mỹ nhƣng không quá cầu
kỳ về hình thức, và không quá loè loẹt về màu sắc, gây phân tán sự chú ý
của học sinh vào những dấu hiệu không bản chất.
- Hai là: Cần sử dụng đúng lúc, đúng mức độ phƣơng tiện trực quan. Khi
cần tạo điểm tựa trực quan để hình thành kiến thức mới thì dùng các phƣơng
tiện, khi học sinh đã hình thành đƣợc kiến thức thì phải hạn chế bớt việc
dùng các phƣơng tiện, thậm chí cấm sử dụng phƣơng tiện trực quan, giúp
học sinh tƣ duy trừu tƣợng.
- Ba là: Các phƣơng tiện trực quan phải tăng dần mức độ trừu tƣợng.
Mức độ trừu tƣợng của phƣơng tiện phụ thuộc vào khả năng nhận thức của
trẻ. Đối với trẻ nhỏ(ở giai đoạn các lớp 1,2,3) thì các phƣơng tiện mang tính
cụ thể hơn. Các tác giả sách giáo khoa môn Toán cũng đã thể hiện rõ yêu
cầu nàytrong việc thể hiện nội dung các bài học và hƣớng dẫn giảng dạy.
- Bốn là: Không quá đề cao và tuyệt đối hoá phƣơng pháp trực quan.
Phƣơng pháp trực quan có nhiều ƣu điểm và có vai trò quan trọng trong dạy
học toán ở tiểu học, tuy nhiên, nếu tuyệt đối hoá phƣơng pháp trực quan,
13


dùng quá mức cần thiết sẽ gây phản tác dụng, làm cho học sinh lệ thuộc vào

phƣơng tiện trực quan, tƣ duy máy móc, kém phát triển tƣ duy trừu tƣợng, vì
vậy cần sử dụng linh hoạt, đúng mức phƣơng pháp dạy học trực quan, trên
cơ sở phối hợp hợp lý với các phƣơng pháp dạy học khác.
Phƣơng pháp trực quan thƣờng đƣợc đƣợc sử dụng trong các giờ dạy
Toán ở Tiểu học. Phƣơng pháp này có thể kết hợp với phƣơng pháp gợi mở vấn đáp trong dạy học.
1.3. Phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp
1.3.1. Lịch sử vấn đề.
Trong lịch sử lý luận dạy học, phƣơng pháp dạy học gợi mở - vấn đáp gắn
liền với tên tuổi của các nhà hiền triết Hy Lạp nổi tiếng Socrat (khoảng 470399 TCN). Socrat chống đối mọi kiểu dạy học giáo điều và xây dựng đƣợc
một

phƣơng

pháp

độc

đáo



sự

đàm

thoại

tranh

luận.


Theo ông, ngƣời dạy đặt ra cho ngƣời học nhữnh câu hỏi bẫy, dựa vào
mâu thuẫn chứa đựng trong lời đáp của họ, ngƣời dạy dẫn dắt họ tới chỗ tìm
ra mâu thuẫn của chính bản than ngƣời học và từ đó ngƣời học có vẻ nhƣ tự
lực tìm ra chân lý. Có thể nêu lên bản chất của phƣơng pháp: ngừoi dạy khéo
léo đãn dắt ngƣời học bằng một hệ thống câu hỏi và câu trả lời tự lực tìm ra
chân



chính

họ

mang

trong

mình



không

hay

biết.

Thuật ngữ “Orixtic” hay còn gọi là phƣơng pháp phát kiến tìm tòi. Điều
này đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu nhƣ S.Ja Ghecđơ, B.E Raicôp,…

vào những năm 70 của thế kỉ XIX. Các nhà khoa học này đã nêu lên phƣơng
án tìm tòi, phát kiến teong dạy học nhằm hình thành năng lực nhận thức của
học sinh bằng cách đƣa học sinh vào hoạt động tìm kiếm ra tri thức, học sinh
là chủ thể của hoạt động học, là ngƣời sáng tạo ra hoạt động học. Đây có thể
là một trong những cơ sở lý luận của phƣơng pháp dạy học này.
Gợi mở - vấn đáp thực chất là phƣơng pháp mà trong đó thầy đặt ra một
14


hệ thống câu hỏi để trò lần lƣợt trả lời, đồng thời để trao đổi qua lại với nhau
hay với thầy. Qua hệ thống câu hỏi, câu trả lời trò lĩnh hội đƣợc nội dung bài
học.
Bản chất của gợi mở vấn đáp là phƣơng pháp trong đó thầy tổ chức trao
đổi kể cả là tranh luận, giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với nhau, thông
qua đó mà đạt đƣợc mục đích dạy học. Hệ thống câu hỏi của thầy mang tính
nêu vấn đề để buộc trò luôn luôn ở trạng thái có vấn đề, căng thẳng trí tuệ và
tự lực tìm lời giải đáp.
1.3.2. Cơ sở khoa học.
1.3.2.1. Cơ sở triết học.
Khi sử dụng phƣơng pháp này, GV đƣa ra các câu hỏi liên quan đến bài
học và tổ chức trao đổi giữa giáo viên và cả lớp, có khi giữa học sinh với
nhau, qua đó học sinh học hỏi đƣợc kiến thức khi kết thúc trao đổi.
1.3.2.2 Cơ sở tâm lý học
Theo các nhà tâm lý học, việc tiếp thu kiến thức có hiệu quả cao nhất khi
HS hoạt động tự nguyện, huy động đƣợc hêt các kinh nghiệm sẵn có của bản
thân để nắm đựoc tri thức mới
1.3.2.3. Cơ sở giáo dục
Một trong sáu nguyên tắc dạy học là đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự
giác, tích cực, độc lập nhận thức của học sinh thể hiện ở việc học sinh phải
động não, huy động kinh nghiệm sẵn có của bản thân tìm ra chân lí mới.

1.3.3. Nội dung
Quan niệm: Phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp là phƣơng pháp dạy học không
trực tiếp đƣa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng hệ thống câu hỏi để
hƣớng dẫn học sinh suy nghĩ và lần lƣợt trả lời từng câu hỏi, từng bƣớc tiến
đến kết luận cần thiết, giúp học sinh tự tìm ra kiến thức mới.

15


1.3.3.1. Phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp rất cần thiết với các bài toán ở
Tiểu học.
Sử dụng phƣơng pháp này sẽ góp phần làm cho học sinh học toán ở lớp
sôi nổi, gây hứng thú học tập, tạo niềm tin vào khả năng học tập của mình, rèn
luyện cho học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, làm cho kết quả học
tập vững chắc.
- Khi dạy học kiến thức mới, thực hành luyện tập, kiểm tra đánh giá, ôn
tập củng cố kiến thức… đều có thể sử dụng phƣơng pháp gợi mở - vấn
đáp.có" hoặc "không" hoặc câu hỏi mà chỉ có một câu trả lời đúng duy nhất.
Dạng câu hỏi này để gợi nhớ thông tin và gợi nhớ kiến thức cần thiết đòi hỏi
rất ít tƣ duy, câu trả lời mang tính chính xác.
- Muốn đảm bảo kết quả việc sử dụng phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp thì
cần chú ý tới việc thiết kế hệ thống câu hỏi. Trong dạy học câu hỏi đƣợc chia
làm 3 loại: câu hỏi đóng, câu hỏi mở, câu hỏi có vấn đề.
+ Câu hỏi đóng là câu hỏi mà câu trả lời là "Phƣơng pháp này tạo điều
kiện cho HS tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ trong học tập để tìm
ra kiến thức mới.
+ Câu hỏi mở là câu hỏi mà học sinh có thể đƣa ra nhiều câu trả lời và
câu trả lời chi tiết hơn, yêu cầu học sinh đƣa ra quan điểm, ý kiến của
mình, đòi hỏi tƣ duy nhiều. Dạng câu hỏi có chức năng hƣớng dẫn, gợi
mở, kích thích và mở rộng tƣ duy, giúp HS phát triển ngôn ngữ nói, làm

rõ và phát triển, mamg tính chất dạy nhiều hơn đánh giá, rất hữu ích
trong việc giới thiệu và phát triển bài.
+ Câu hỏi có vấn đề là câu hỏi dùng để tạo tình huống gợi vấn đề có tính
chất toán học. Có thể gợi ý cho học sinh dự đoán nhờ nhận xét trực
quan và thực nghiệm,lật ngƣợc vấn đề, xem xét tƣơng tự, khái quát hoá.

16


- Khi sử dụng phƣơng pháp này, giáo viên cần đƣa ra câu hỏi theo hƣớng
mở, tránh câu trả lời có hoặc không. Giáo viên nêu câu hỏi với giọng ôn tồn,
nhẹ nhàng, khuyến khích, cần thu hút sự chú ý của học sinh (bằng phƣơng tiện
trực quan ) trƣớc khi nêu câu hỏi, và dành thời gian cho học sinh suy nghĩ.
Giáo viên cần chú ý phân bố hợp lý số học sinh đƣợc chỉ định trả lời.
- Khi học sinh trả lời cả giáo viên và học sinh cần theo dõi và nhận xét, bổ
sung ngắn gọn (nếu cần thiết). Giáo viên thƣờng xuyên khuyến khích học sinh
khi học sinh trả lời. Giáo viên có thể mở rộng câu hỏi đã cho bằng cách đƣa
thêm các câu hỏi phụ, gợi ý học sinh nếu học sinh gặp khó khăn trong trả lời.
- Phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp có thể đƣợc tiến hành trong mọi giờ học
và có thể kết hợp với phƣơng pháp trực quan trong dạy học
1.4. Sự phối hợp giữa hai phƣơng pháp này trong các giờ dạy học hình
thành kiến thức mới nội dung phân số lớp 4.
1.4.1. Mối liên hệ giữa phƣơng pháp trực quan với phƣơng pháp gợi mở
vấn đáp trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số.
Phƣơng pháp trực quan và phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp là những
phƣơng pháp thƣờng đƣợc sử dụng trong dạy học Toán ở Tiểu học. Phƣơng
pháp trực quan là phƣơng pháp mà ngƣời giáo viên đóng vai trò chủ đạo,
phối hợp nhịp nhàng giữa việc hƣớng dẫn học sinh quan sát và trình bày trực
quan một cách có khoa học, giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, hình thành
kỹ năng, kỹ xảo. Phƣơng pháp trực quan phù hợp với con đƣờng nhận thức

của học sinh Tiểu học. Nó giúp học sinh gần gũi với thực tiễn, dễ gây cho
các em ấn tƣợng sâu sắc, hứng thú tìm tòi học tập. Phƣơng pháp trực quan
có rất nhiều ƣu điểm nhƣng giáo viên không đƣợc lạm dụng khi sử dụng.
Bởi không có phƣơng pháp nào là vạn năng, là tuyệt đối. Còn phƣơng pháp
gợi mở - vấn đáp là phƣơng pháp giáo viên lựa chọn sử dụng hệ thống câu
hỏi để dẫn dắt, gợi mở, giúp học sinh sáng tỏ những vấn đề mới, chiếm lĩnh
17


tri thức, rút ra những kết luận cần thiết từ những tài liệu đã học cũng nhƣ
kinh nghiệm đƣợc tích luỹ trong đời sống. Sử dụng phƣơng pháp này kích
thích học sinh tính tích cực, độc lập tƣ duy, tìm ra những câu trả lời chính
xác, đầy đủ và gọn gàng nhất, nhanh nhất. Bồi dƣỡng năng lực diễn đạt bằng
lời nói và hứng thú học tập cho học sinh qua kết quả trả lời. Giúp giáo viên
thu tín hiệu ngƣợc từ học sinh một cách nhanh gọn, kịp thời để điều chỉnh
hoạt động của mình và học sinh. Mặt khác, có đƣợc là để quan tâm, chú ý
đến từng học sinh nhất là học sinh giỏi và học sinh yếu. Tạo không khí học
tập sôi nổi, sinh động trong giờ học. Vậy để giúp học sinh nắm kiến thức
mới tốt nhất trong Dạy – Học nội dung phân số, giáo viên cần phải biết kết
hợp phƣơng pháp trực quan với phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp một cách
linh hoạt, sáng tạo. Có nhƣ vậy giờ học mới đảm bảo nhẹ nhàng, sinh động
mà hiệu quả lại cao.
Sự kết hợp hai phƣơng pháp, phƣơng pháp trực quan với phƣơng pháp gợi
mở - vấn đáp trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số
Toán 4 sẽ tạo điều kiện cho hai phƣơng pháp cùng phát huy đƣợc hết các ƣu
điểm vốn có.
Việc hình thành kiến thức mới trong nội dung phân số bằng cách giáo viên
đƣa ra phƣơng tiện trực quan kết hợp với các câu hỏi gợi mở - vấn đáp sẽ giúp
học sinh định hƣớng đƣợc nội dung bài học, chú ý tập trung vào dấu hiệu cơ
bản của bài học để đi đến tri thức cần lĩnh hội, quy tắc, khái niệm… Giúp học

sinh tránh đƣợc quan sát thụ động, quan sát vì giáo viên yêu cầu chứ không
phải quan sát vì muốn nắm đƣợc kiến thức mới trong bài. Đặc biệt, đối với
môn Toán đòi hỏi học sinh phải vận dụng tƣ duy lôgíc, những kinh nghiệm có
sẵn để có thể nắm đƣợc nội dung bài học thì việc nắm đƣợc yêu cầu, mục đích
quan sát là rất quan trọng.

18


Ví dụ: Hình thành kiến thức mới trong bài "Phân số", giáo viên đƣa ra mô
hình bánh đồng thời đƣa ra các câu hỏi để hƣớng học sinh quan sát đúng mục
đích. Thông qua việc trả lời câu hỏi, học sinh nắm đƣợc kiến thức cần ghi
nhớ.

Câu hỏi:
+ Giáo viên: Các phần của bánh nhƣ thế nào với nhau?
Học sinh: Bằng nhau
+ Giáo viên gắn mô hình bánh lên bảng để học sinh quan sát.
+ Giáo viên: Có mấy phần bánh phủ màu vàng?
Học sinh: 6 phần bằng nhau.
+ Giáo viên: Cô chia bánh thành 6 phần bằng nhau, phủ màu 5 phần
bánh. Vậy có bao nhiêu phần trên 6 phần bánh đƣợc phủ màu?
Học sinh: 5 phần
Để học sinh nắm đƣợc yêu cầu quan sát, sáng tỏ kiến thức mới thì cách tốt
nhất là đƣa ra các câu hỏi gợi mở - dẫn dắt để học sinh thấy mình chủ động
chiếm lĩnh tri thức. Học sinh nhớ kiến thức sẽ lâu hơn và áp dụng làm đúng
các bài tập về nội dung phân số từ cơ bản; đơn giản đối với học sinh yếu, bài
tập khó; phức tạp; nâng cao với học sinh khá; giỏi. Từ đó bồi dƣỡng cho các
em có niềm yêu thích học nội dung phân số nói riêng và yêu thích môn Toán
nói chung.

Sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng pháp gợi mở vấn đáp
trong hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số lớp 4 sẽ giúp học sinh
nắm, nhớ bài tốt nhất.

19


1.4.2. Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng phƣơng pháp trực quan
kết hợp với phƣơng pháp gợi mở vấn đáp trong dạy học nội dung phân
số.
1.4.2.1. Thuận lợi
- Sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng gợi mở - vấn đáp sẽ
tránh đƣợc sự căng thẳng, nhàm chán trong dạy học hình thành kiến thức mới
ở nội dung phân số Toán 4.
- Sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng gợi mở - vấn đáp
trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số Toán 4 làm giảm
sự thụ động tiếp thu kiến thức mà phát huy đƣợc vai trò chủ đạo của học sinh
trong chiếm lĩnh tri thức.
- Trong lớp học không có học sinh ngồi chơi, tất cả học sinh đều phải làm
việc để chiếm lĩnh tri thức mới (Câu hỏi dễ giáo viên đƣa ra dành cho học sinh
trung bình; yếu, câu hỏi khó dành cho học sinh khá, giỏi).
- Học sinh yếu không mặc cảm, chán nản không học tập mà cố gắng để
bằng các bạn khá, giỏi.
- Giáo viên chú ý đến tất cả các đối tƣợng học sinh trong lớp, không có
học sinh "dự thính".
- Giáo viên thu đƣợc tín hiệu ngƣợc của học sinh một cách nhanh chóng,
để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
- Sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng gợi mở - vấn đáp
bồi dƣỡng kỹ năng diễn đạt bằng lời nói trƣớc một vấn đề đƣợc đƣa ra.
- Giúp học sinh tự tin vào khả năng của bản thân, bồi dƣỡng tính tích cực;

độc lập tƣ duy của mình.
- Sử dụng phƣơng pháp trực quan kết hợp với phƣơng pháp gợi mở vấn
đáp trong dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số giúp học sinh
cảm thấy nhẹ nhàng trong việc chiếm lĩnh tri thức mới.
20


- Khi kết hợp hai phƣơng pháp trên, học sinh đã có giờ học thoải mái,
không có sự căng thẳng, mệt mỏi nhàm chán khi chỉ ngồi nghe cô giáo giảng
một cách thụ động.
- Kết hợp đƣợc chặt chẽ và phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy của
cô và hoạt động học của trò.
- Kết hợp phƣơng pháp trực quan với phƣơng pháp gợi mở - vấn đáp trong
dạy học hình thành kiến thức mới ở nội dung phân số tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ kiến thức.
1.4.2.2. Khó khăn.
- Khi sử dụng hai phƣơng pháp này trong dạy học hình thành kiến thức
mới ở nội dung phân số nếu giáo viên không khéo léo rất dễ dẫn tới hết giờ
mà vẫn chƣa hoàn thành bài.
- Giáo viên phải chuẩn bị kỹ tiết dạy để tránh tình trạng đối thoại kéo dài
giữa cô và trò không thu hút đƣợc toàn bộ lớp tập trung vào hoạt động học
tập.
- Giáo viên mất nhiều thời gian trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi gợi
mở - vấn đáp, đồ dùng trực quan ở từng bài.
- Giáo viên mất công sức trong việc dự kiến các câu trả lời của học sinh, dự
kiến đƣợc đối tƣợng học sinh sẽ trả lời câu hỏi đó, để đƣa ra các câu hỏi cho
phù hợp.
- Giáo viên phải tổ chức giờ học của lớp sao cho thu hút đƣợc toàn bộ đối
tƣợng học sinh.
- Giáo viên phải tạo không khí giờ học thoải mái, phát huy đƣợc tính tích

cực của học sinh. Tránh thời gian nhàn rỗi trong lớp học khiến học sinh mất
trật tự.
- Bên cạnh những học sinh hăng hái phát biểu còn học sinh nhát, thụ động,
ít giơ tay, giáo viên cần phải nghiên cứu đƣa ra cách khắc phục.
21


1.4.3. Cách khắc phục những hạn chế khi sử dụng phƣơng pháp trực
quan kết hợp phƣơng pháp gợi mở vấn đáp
- Lựa chọn các đồ dùng trực quan trong dạy học phù hợp tránh mầu mè
làm phân tán sự chú ý của học sinh. Giáo viên trình bày bảng hợp lý, đẹp mắt.
- Câu hỏi gắn với đồ dùng trực quan phải hợp lý.
- Hệ thống câu hỏi giáo viên đƣa ra cần rõ ràng, với những câu hỏi khó
cần có câu hỏi phụ để hƣớng dẫn học sinh trả lời tìm đƣợc đáp án cần thiết.
- Giáo viên dự kiến các tình huống sƣ phạm có thể xảy ra trong khi soạn
giáo án.
- Giáo viên cần sử lý các tình huống sƣ phạm khéo léo trong những trƣờng
hợp học sinh trả lời sai hoặc chƣa sát ý, để tránh tình trạng đối thoại kéo dài
giữa cô và trò không thu hút đƣợc toàn bộ lớp tập trung vào hoạt động học.
- Giáo viên cần linh hoạt trong việc nhận xét câu trả lời của học sinh và
gọi học sinh khác nhận xét, tránh nhận xét rƣờm rà mất nhiều thời gian.
- Giáo viên cần khen ngợi học sinh khi học sinh trả lời đúng, tránh chê bai
khi học sinh trả lời sai để kích thích sự hăng hái xây dựng bài.
- Những câu hỏi giáo viên đƣa ra có tính chất gợi ý, rõ ràng, dễ hiểu, thống
nhất, sát với trình độ của học sinh.
1.5. Nội dung phân số trong chƣơng trình tiểu học
1.5.1. Tập số hữu tỉ:
Khái niệm số hữu tỉ: "Các phân số bằng nhau đƣợc xem là có cùng giá
trị, giá trị đó gọi là một số hữu tỉ". Về kí hiệu số hữu tỉ: lúc đầu là dạng
a

a
; a, b Z , b 0 nhƣng sau đó chỉ cần dạng ; a, b Z , b 0 và sau đó nữa
b
b

chỉ cần dạng

a
hay
b

a
với a, b N , b 0 .
b

22


Tập số hữu tỉ Q có thể đƣợc xây dựng theo hai con đƣờng: Con đƣờng
thứ nhất là từ tập số tự nhiên N xây dựng tập số nguyên Z . Từ đó mở rộng
ra tập số hữu tỉ Q : N

Z

Q . Con đƣờng thứ hai là tập số hữu tỉ Q đƣợc

xây dựng dựa trên tập hợp số hữu tỉ không âm Q , tức là từ
tập N

Q


Q.

Trong chƣơng trình Toán Tiểu học giới thiệu về số hữu tỉ trƣớc khi đƣa ra
khái niệm về số âm là phù hợp với nhận thức của học sinh Tiểu học.
Ví dụ: Với bài toán: Có 3 cái bánh, chia đều cho 6 em. Hỏi mỗi em đƣợc
bao nhiêu phần cái của bánh? Để biểu diễn chia đều 3 cái bánh cho 6 em, có
thể sử dụng đồ dùng trực quan nhƣ sau:

Nhƣng cách này mất thời gian, không tiện lợi. Do không còn cách biểu
diễn nào khác nên việc giới thiệu về phân số là hợp lý: Mỗi em đƣợc cái bánh
hay cái bánh.
Nhƣ vậy ở chƣơng trình Toán Tiểu học, học sinh đƣợc làm quen với số
hữu tỉ theo con đƣờng thứ hai là phù hợp với đặc điểm nhận thức, tâm sinh
lứa tuổi.
Tập hợp số biểu diễn bởi phân số Q đƣợc xây dựng qua hai bƣớc: Đƣa
ra khái niệm phân số và xây dựng sự bằng nhau của các phân số. Trong cả
hai bƣớc này, ta cần phối hợp giữa các yếu tố Toán học mang tính hình thức
với các yếu tố trực quan thực tế. Chẳng hạn, ở Tiểu học phân số đƣợc nêu
khái quát: "Mỗi phân số có tử số và mẫu số. Tử số là số tự nhiên viết trên
dấu gạch ngang. Mẫu số là số tự nhiên khác 0 viết dƣới gạch ngang", ta cần

23


lấy ví dụ về sự chia cắt các vật (hình tròn đƣợc chia thành 6 phần bằng nhau,
ta tô màu 5 phần…). Các ví dụ đó có tác dụng lý giải ý nghĩa thực tế của
phân số để biểu thị các lƣợng vật chất chia cắt theo một lƣợng nào đó đƣợc
quy ƣớc là đơn vị.
Cũng vậy, sự bằng nhau của hai phân số đƣợc dẫn dắt từ lƣợng vật chất

mà các phân số có biểu thị nhƣ nhau

a
b

c
. Ví dụ: Có hai băng giấy bằng
d

nhau. Băng giấy thứ nhất đƣợc chia làm 4 phần bằng nhau và tô màu 3 phần,
băng giấy thứ hai chia thành 8 phần bằng nhau và tô màu 6 phần. Ta nhận
thấy: Phần tô màu của hai băng giấy bằng nhau, từ đó ta có phân số chỉ số
phần tô màu của hai băng giấy là bằng nhau:

3
4

6
8

Một số biểu diễn bởi phân số là một lớp tất cả các phân số bằng nhau. Mỗi
phân số thuộc một lớp có thể thay thế cho cả lớp, phân số
một phân số nhƣng sau đó khi ta nói hay viết số
phân số bằng

a
lúc dầu chỉ là
b

a

là ta đã nói đến tất cả các
b

a
a
, tức nói đến số biểu diễn bởi phân số .
b
b

Nhƣ vậy để mở rộng lớp nghiệm phƣơng trình mx n 0; m, n Z đƣợc
đƣa thêm tập các số hữu tỉ Q :
Q:

x/x

m
; n 0, m, n Z ; m, n chỉ có ước chung là 1
n

1.5.2. Nội dung phân số trong chƣơng trình tiểu học
Nội dung phân số chính thức đƣợc dạy ở lớp 4, nhƣng ngay ở lớp 2, 3
phân số đƣợc giới thiệu ẩn tàng qua các bài học một cách sơ giản. Sau mỗi lần
dạy học một bảng chia 2;3;4;5;6;7;8;9 học sinh đƣợc làm quen với

24


1 1 1 1 1 1 1 1
; ; ; ; ; ; ; chủ yếu qua hình thức trực quan. Học sinh đƣợc giới
2 3 4 5 6 7 8 9

thiệu về cách viết phân số và cách đọc phân số là: một phần hai; một phần
ba;…, nhƣng chƣa đƣợc giới thiệu tên gọi chung là phân số, đâu là " tử số ", "
mẫu số ".
Sau khi dạy bài "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số" (Trang
26 – Toán 3), học sinh đƣợc sử dụng kiến thức này trong thực hành tính, giải
toán có lời văn.
Đến lớp 4, nội dung phân số mới chính thức đƣợc dạy. Kiến thức chủ yếu
của học kỳ II lớp 4 là phân số và các phép tính phân số. Đầu học kỳ I của lớp
5 có bổ sung thêm phân số thập phân, hỗn số, … để chuẩn bị cho dạy học số
thập phân
1.5.3 Dạy học nội dung phân số trong chƣơng trình toán 4
Một trong trọng tâm của dạy học số học trong học kì II của Toán lớp 4 là
dạy học nội dung phân số và các phép tính về phân số. Thời lƣợng dạy học nội
dung phân số và các kiến thức có liên quan đến phân số là 34 tiết (không tính
tiết luyện tâp) chiếm 40% tổng thời lƣợng dạy học Toán ở học kì II.
1.5.3.1. Nội dung dạy học phân số trong Toán 4 sắp xếp thành hai nhóm
bài
- Nhóm bài thứ nhất gồm các bài học về:
+ Giới thiệu khái niệm ban đầu về phân số. Phân số và phép chia số tự
nhiên.
+ Phân số bằng nhau. Tính chất cơ bản của phân số.
+ Rút gọn phân số.
+ Quy đồng mẫu số các phân số.
+ So sánh phân số (trƣờng hợp có cùng mẫu số và trƣờng hợp mẫu số khác
nhau).
25


×