Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Hình tượng nhân vật thị dân trong kim bình mai của tiếu tiếu sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.15 KB, 60 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp của mình, tơi đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo trong khoa Ngữ văn - Trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2, trong tổ bộ mơn văn học nước ngồi. Tơi xin bày
tỏ lịng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy cơ trong khoa, trong tổ, đặc biệt
là cơ Nguyễn Thị Bích Dung - người đã trực tiếp hướng dẫn tơi hồn thành
khóa luận này.
Tơi xin cảm ơn những đóng góp của các bạn sinh viên khoa Ngữ văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2011
Tác giả

SVTH: Vũ Thị Thúy

1

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi dưới
sự hướng dẫn của tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Dung.


Kết quả này khơng trùng với bất kỳ kết quả của tác giả nào đã được
cơng bố. Nếu sai, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2011
Tác giả

SVTH: Vũ Thị Thúy

2

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………...1
1.1. Lý do khoa học…………………………………………………………...1
1.2. Lý do sư phạm……………………………………………………………1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………...2
3. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………….3
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát………………………………...3
4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………….3
4.2. Phạm vi khảo sát………………………………………………………….3
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...3
6. Đóng góp của khóa luận……………………………………………………3
7. Bố cục của khóa luận………………………………………………………4

NỘI DUNG…………………………………………………………………...5
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT THỊ DÂN
TRONG KIM BÌNH MAI……………………………………………………5
1.1. Vài nét về tác giả của Kim Bình Mai…………………………………….5
1.2. Nguyên nhân xuất hiện hình tượng thị dân………………………………8
1.2.1. Nguyên nhân khách quan………………………………………………9
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan………………………………………………..10
1.3. Đặc điểm của nhân vật thị dân trong Kim Bình Mai……………….......12
1.3.1. Khái niệm thị dân……………………………………………………..12
1.3.2. Đặc điểm của nhân vật thị dân………………………………………..14
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT
THỊ DÂN TRONG KIM BÌNH MAI……………………………………….28
2.1. Khái niệm nhân vật văn học…………………………………… ………28

SVTH: Vũ Thị Thúy

3

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

2.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật thị dân trong Kim Bình
Mai…………………………………………………………………………..29
2.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình……………………………………......30
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách………………………………………..35
KẾT LUẬN………………………………………………………………….55

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...56

SVTH: Vũ Thị Thúy

4

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Trong q trình giao lưu văn hóa Việt – Trung, do nhiều nguyên nhân,
có những mảng văn hóa, những tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới mà
lại rất xa lạ với Việt Nam. Kim Bình Mai là một ví dụ. Ngay sau khi ra đời
tiểu thuyết này đã làm náo động văn đàn, đã có biết bao cuộc tranh luận về
“chủ ý” (ngày nay gọi là chủ đề tư tưởng) của cuốn truyện. Cuối những năm
80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX ở Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc
hội thảo quốc tế về Kim Bình Mai; các nhà nghiên cứu đã nhất trí đánh giá
“Đây là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa vĩ đại”. Vì thế, tìm hiểu tiểu thuyết
này sẽ đem đến cho chúng ta cái nhìn chân thực, sâu sắc và sinh động hơn về
một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Trung Quốc – giai đoạn Minh –
Thanh.
1.2. Lý do sư phạm
Việc tìm hiểu tiểu thuyết Kim Bình Mai sẽ giúp người giáo viên tương
lai có cái nhìn chân thực về văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung

Quốc để từ đó có thể liên hệ, mở rộng, giới thiệu cho học sinh những bông
hoa rực rỡ nhất trên cánh đồng tiểu thuyết Trung Hoa. Đồng thời cũng giúp
các em có cái nhìn đúng đắn trong học tập và trong cuộc sống, biết xây dựng
cho mình lối sống phù hợp, lành mạnh; trân trọng những giá trị tốt đẹp của
con người, nhất là khi Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển.
Tác phẩm văn chương hấp dẫn người đọc trước hết bởi tư tưởng, cõi
lòng nhà văn gửi gắm trong đó. Mỗi tác phẩm văn học ra đời là tâm huyết, là
kết quả của biết bao thể nghiệm, trăn trở, dằn vặt, hi vọng, đớn đau của người
nghệ sĩ về cuộc sống, về con người. Xuất phát từ suy nghĩ trên nên tôi chọn

SVTH: Vũ Thị Thúy

5

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

đề tài Hình tượng nhân vật thị dân trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh
với mong muốn sẽ khám phá được phần nào những điều mà tác giả muốn
nói và thể hiện trong tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ thế kỷ trước, Kim Bình Mai đã được dịch ra tiếng Pháp, tiếng
Anh rồi tiếng Đức cùng một lúc với các truyện Ngọc Kiều Lê, Bình Sơn
Lãnh Yến, Hảo Cầu truyện. Tác phẩm này từng xôn xao dư luận một thời, vì
thế đã có khơng ít bài nghiên cứu về nó:
Phương Lựu (1996), Kim Bình Mai – đơi điều mới lạ, Văn hóa văn học

Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội. Trong bài viết này,
tác giả đã chỉ ra những điểm “lạ” của Kim Bình Mai (nhan đề là do tên ba
người phụ nữ ghép lại, tên tác giả Tiếu Tiếu Sinh là một danh ngữ chung có
nghĩa là “thầy cười” hay “ơng bơng đùa”,…). Bên cạnh đó, Phương Lựu đề
cập đến những đóng góp mới mẻ của Kim Bình Mai trong lịch sử phát triển
tiểu thuyết Trung Quốc – Đây là tác phẩm đầu tiên do văn nhân sáng tạo viết
về những con người bình thường nhỏ bé thuộc tầng lớp thành thị trong xã hội
Minh.
Lương Duy Thứ (2000), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Ở đây, Lương Duy Thứ đề cập đến những
nguyên nhân dẫn đến sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết nói chung; khẳng
định Kim Bình Mai là tác phẩm tả chân hiện thực cuối Minh. Từ đó tác giả đi
đến kết luận Kim Bình Mai là tác phẩm đánh dấu sự mở đầu một khuynh
hướng văn học mới – khuynh hướng đời thường, trân trọng cái “nhân dục”,
chống lại những đạo đức phong kiến cũ của xã hội.
Lương Duy Thứ (1989), Kim Bình Mai – một tác phẩm hiện thực phê
phán có giá trị, Tạp chí văn học số 3. Trong bài viết này, Lương Duy Thứ đưa
ra quan niệm xoay quanh câu hỏi tác giả Kim Bình Mai là ai? Thêm vào đó,

SVTH: Vũ Thị Thúy

6

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2


tác giả cũng dẫn dắt những ý kiến để chứng minh Kim Bình Mai là một tác
phẩm mang tính hiện thực rõ nét, xây dựng được những nhân vật có tính cách
phức tạp, gần với con người đời thường.
Các bài viết trên tập trung vào một khía cạnh của Kim Bình Mai, tuy
nhiên đều mới ở dạng khái quát. Trong khóa luận này, người viết đi sâu tìm
hiểu hình tượng nhân vật thị dân, qua đó làm nổi bật nét đặc sắc, tài năng và
quan niệm của tác giả trong việc xây dựng các nhân vật.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Hình tượng nhân vật thị dân trong Kim Bình Mai của Tiếu
Tiếu Sinh người viết nhằm làm nổi bật những nét độc đáo trong quan niệm
thẩm mĩ của tác giả khi xây dựng nhân vật. Qua đó, thấy được tài năng và
những đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc Trung Hoa nói riêng và
văn học nhân loại nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hình tượng nhân vật thị dân trong Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh.
4.2. Phạm vi khảo sát
Kim Bình Mai do Hải Đăng – Ngọc Quang – Mạnh Linh dịch, giáo sư
Lê Đức Niệm hiệu đính và giới thiệu (2008), Nxb Văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát.
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.
Phương pháp tổng hợp và nâng cao vấn đề.
6. Đóng góp của khóa luận
Chỉ ra những nguyên nhân xuất hiện hình tượng nhân vật thị dân, những
đặc điểm của nhân vật thị dân. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân
vật thị dân. Từ đó thấy được tài năng cũng như những đóng góp mới mẻ của

SVTH: Vũ Thị Thúy


7

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

tác giả trong việc khám phá cuộc sống, khám phá con người.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Đặc điểm của hình tượng nhân vật thị dân trong Kim Bình
Mai.
Chương 2: Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật thị dân trong Kim
Bình Mai.

SVTH: Vũ Thị Thúy

8

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG NHÂN

VẬT THỊ DÂN TRONG KIM BÌNH MAI
1.1. Vài nét về tác giả của Kim Bình Mai
Thời Vạn Lịch (1573 - 1620) triều Minh ở Trung Quốc, vào năm 1610 tại
Tô Châu xuất hiện bộ tiểu thuyết chương hồi dài Kim Bình Mai đã làm cho
nhiều người xôn xao bàn luận. Giữa lúc vườn hoa tiểu thuyết nở rộ, biết bao
văn nhân đã lấy đề tài từ truyện kể dân gian, diễn nghĩa lịch sử, các triều đại
với biết bao giai nhân, tài tử, đế vương, khanh tướng… Kim Bình Mai ra đời
đánh dấu một bước ngoặt mới trong lịch sử tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
bởi đây là tác phẩm đã xây dựng được những nhân vật đặc trưng thời đại,
miêu tả được những hoạt động tất yếu của các nhân vật trong hồn cảnh điển
hình của xã hội phong kiến ruỗng nát. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên “lấy cái
chuyện một gia đình làm trung tâm, đề cập đến một môi trường xã hội rộng
lớn, mặt đối mặt với đời sống, thấm đượm mùi vị cuộc đời chứ không phải
siêu phàm xa lạ như trước kia” [10, 59].
Vấn đề tác giả của Kim Bình Mai là ai cho đến nay vẫn đang làm đau đầu
các nhà nghiên cứu. Có rất nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh câu hỏi này:
Căn cứ bản Kim Bình Mai từ thoại có bài tựa của Hân Hân Tử nói: tác
giả là Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh. Cũng có người cho rằng Hân Hân Tử là một
tên khác của Tiếu Tiếu Sinh (Tiếu là cười, còn Sinh là tiếng tự xưng hoặc
tiếng gọi người trẻ tuổi). Tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài
Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm
trận (Trại hoa trận gấm).
Từng có người đốn là Triệu Nam Trinh (1551 - 1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ

SVTH: Vũ Thị Thúy

9

Lớp K33C – Sp Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

(1550 - ?) nhưng chưa đưa ra được chứng cớ chính xác.
Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung
văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn khảo chứng của mình
xuất bản tháng 10 – 1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh
(1526 - 1590) đỗ tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ thượng
thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ
cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển… Thật ra, từ cuối thời
Minh đã có người đưa ra ý kiến này. Người ta cho rằng cha Vương Thế Trinh
bị cha con tể tướng Nghiêm Cao, Nghiêm Tung hãm hại, nên ông làm sách để
chửi ngầm. Nghiêm Tung hồi nhỏ tên là Khánh (cùng tên với Tây Mơn Khánh
– nhân vật chính) hiệu là Đơng Lâu (Tây Mơn đối với Đơng Lâu). “Có người
cịn viết hẳn một cuốn sách (Ngô Hàm: Độc sử hạp ký) khảo cứu tường tận
các nhân vật để đi đến cái thuyết gọi là “Khổ hiếu” (Gian khổ báo hiếu) nói
rằng cha Vương Thế Trinh bị tên nịnh thần Đường Thuận Chi dèm pha với
Nghiêm Tung mà bị hại. Để báo thù cho cha, Thế Trinh đóng cửa ba năm,
soạn ra truyện Kim Bình Mai đem dâng Thuận Chi. Tên này có thói quen
thấm nước miếng vào đầu ngón tay để giở sách. Thế Trinh ngầm tẩm thuốc
độc vào từng trang sách, Thuận Chi trúng độc mà chết” [10, 56].
Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài
nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lý Khai Tiên (1501 - 1568).
Đầu năm 1984, tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất
bản trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả
Tam Cận, nhà văn huyện Dịch đời Minh.
Tháng 7 – 1984, Phúc Đán học báo công bố liền hai bài: Tác giả Đồ Long
khảo và Tác giả Đồ Long khảo tục của Hoàng Lâm. Sau thời gian nghiên

cứu, tìm hiểu, Hồng Lâm đã phát hiện được Đồ Long – một người nguyên
quán huyện Ngân tỉnh Chiết Giang, từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là

SVTH: Vũ Thị Thúy

10

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Tiếu Tiếu Sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một
buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542 1605), tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy,
đỗ tiến sĩ dưới triều Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh
Thượng, và chủ sự bộ lễ.
Năm 1985, Nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu) của
Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ơng Đồng Văn đề
tựa có nhắc lại bài viết Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng
từng đề cập tới một Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương, mà
Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ơng lấy đó để khẳng định thêm khả
năng thừa nhận Đồ Long là tác giả.
Đối với một “câu đố” đặt ra gần bốn thế kỷ nay, việc khẳng định câu trả
lời nào hồn tồn chính xác là điều khơng dễ. Vì thế trong khóa luận này
người viết xin theo quan điểm của phần đa các nhà nghiên cứu – coi Tiếu
Tiếu Sinh là tác giả của Kim Bình Mai.
Tiếu Tiếu Sinh (? - ?) người huyện Dịch tỉnh Sơn Đơng. Lan Lăng chính
là tên cũ của huyện Dịch. Căn cứ vào lời lẽ trong tác phẩm có thể thấy tác giả

dùng tiếng Sơn Đông hết sức thành thạo. Chắc ông đã sống ở Bắc Kinh, quen
thuộc phong cảnh, đời sống Bắc Kinh. Từ cảnh vật bầu trời, cho đến vườn
tược, hồ ao, sự trang trí nội thất hầu như đều lấy Bắc Kinh làm bối cảnh. Tác
giả không những có trình độ văn hóa mà lại có khả năng sáng tác, nhờ thâm
nhập cuộc sống xã hội, sành sỏi các hình thức văn nghệ dân gian, chịu khó
tìm tòi học hỏi các sản phẩm lưu hành nơi thành thị hồi đó như hí kịch, tiểu
thuyết, ca khúc… cho nên ơng đã có vốn để viết bộ tiểu thuyết dài về nhân
tình thế thái.
Tiếu Tiếu Sinh đã dựa vào câu chuyện từ hồi 23 đến hồi 26 của Thủy Hử
truyện rồi mở rộng và sáng tạo thêm. Tuy dựa vào một số chi tiết của Thủy

SVTH: Vũ Thị Thúy

11

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Hử song tác giả đã dày công sáng tạo thành một cuốn tiểu thuyết hàng trăm
hồi. Cuốn tiểu thuyết này đã vượt qua sự sàng lọc của thời gian và dư luận,
khẳng định được vị trí của mình. Nhà Hán học Xô viết – viện sĩ Đông phương
học Ayđơlin đánh giá: “Qua 100 chương sách, trước mắt bạn đọc diễn ra lịch
sử cuộc đời nhàn dật và tội lỗi của Tây Mơn Khánh, một kẻ giàu có hãnh tiến
cùng với vợ y và các nhân tình của y. Cứ nhìn bề ngồi thì nhà văn kể một
cách thẳng thừng như nhau về tội ác đẫm máu của tên vô lại, những trị ăn
chơi…, những thú vui phóng đãng của nó và đôi khi trong những cảnh dâm

dật, nhà văn đã vượt ra ngoài giới hạn được chấp nhận. Tuy nhiên, khơng có
cơ sở để nghi ngờ sự thành thật của tác giả khi ơng nói rằng: cơng khai mơ tả
những điều xấu xa là cố gắng để ngăn ngừa bạn đọc sa vào con đường tội lỗi.
Không thể đồng ý với những người nhiệt thành bảo vệ đạo lý phong kiến cho
Kim Bình Mai là “dâm thư”, sự thực các đoạn miêu tả cảnh dâm dật ở đây
chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong khối lượng chung của cuốn sách. Sự đánh
giá này chỉ thích ứng với hàng loạt bộ tục Kim Bình Mai, phỏng Kim Bình
Mai ra đời sau nó” [9, 997 - 998].
1. 2. Nguyên nhân xuất hiện hình tượng thị dân
Hình tượng nhân vật thị dân đem đến một nét mới cho văn học Trung
Quốc bấy giờ - đưa con người đời thường vào trong tác phẩm văn chương
nghệ thuật. Tiểu thuyết này không miêu tả xã hội từ đời sống cung đình (như
Tam Quốc), từ sự vật lộn của những kẻ sống ngoài lề xã hội, không được sự
che chở của pháp luật (như Thủy Hử), từ đời sống tinh thần đổ vỡ của một
gia đình q tộc (như Hồng Lâu Mộng) mà nó tập trung sự chú ý vào cuộc
sống sinh hoạt đời thường của một con buôn hãnh tiến – sản phẩm của xã hội
tiền tư bản cuối Minh. Dù nhà Minh chủ trương áp dụng triệt để chính sách
“trọng nơng ức thương” để tập trung quyền binh thế lực, nhưng không ngăn
được xu thế thời đại “một khi nhân tố làm biến đổi xã hội được hình thành thì

SVTH: Vũ Thị Thúy

12

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2


tự nó có một sức mạnh khơng gì ức chế nổi”. Sự biến đổi đó đã đem lại cho
văn học những hình tượng thẩm mĩ mới như Biêlinxki nói: “Nghệ thuật cần
phải theo trình độ phát triển của lịch sử” [1, 139].
Trong Kim Bình Mai, hình tượng thị dân được tác giả chọn làm nhân vật
trung tâm bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
1.2.1. Nguyên nhân khách quan
Nhà Minh (1368 - 1644) là triều đại Hán tộc cuối cùng của Trung
Quốc. Trừ mấy chục năm đầu dựng nước, để loại trừ tình trạng hỗn loạn trong
xã hội do Mơng Ngun gây ra, Chu Nguyên Chương đã dần dần tập trung
mọi quyền bính vào tay mình, nhà Minh trở thành chế độ độc tài chuyên chế.
Đó là một chế độ phản động và lỗi thời khi mà trong lòng xã hội đã phát triển
những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa và cùng với nó, những tư tưởng
dân chủ chống phong kiến đang được truyền bá rộng rãi.
Nhà Thanh (1644 - 1911) là triều đại ngoại tộc thứ hai (sau Mông Cổ)
thống trị Trung Quốc. Khi người Mãn Thanh vào thống trị, chúng kế thừa tất
cả chế độ chuyên chế của triều cũ để lại. Mọi quyền hành về quân sự, tài
chính, ngoại giao đều tập trung vào tổ chức gọi là “Hội nghị vương đại thần
bàn về chính sự” của bọn quý tộc Mãn Thanh. Tổ chức này do vua Thanh
trực tiếp nắm giữ. Quan lại các cấp có người Mãn và người Hán nhưng không
phải là “Mãn Hán nhất thể” như chúng tuyên truyền mà chỉ là âm mưu lấy
Hán trị Hán, lấy Hán trị Di của bọn chiếm đóng. Khi các nước đế quốc nhảy
vào Trung Quốc, chính quyền Mãn Thanh liền quỳ gối đầu hàng và xã hội
Trung Quốc nhanh chóng biến thành kỳ hình qi dạng: nửa phong kiến, nửa
thuộc địa.
Bên cạnh một chế độ chính sách chun chế lỗi thời và phản động thì
sự hình thành và phát triển những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự ra đời của tầng lớp thị dân.

SVTH: Vũ Thị Thúy


13

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Kinh tế tư bản chủ nghĩa đã có mầm mống từ thời Tống – Nguyên,
sang Minh – Thanh thì phát triển khá mạnh. Một mặt, đó là sự phát triển cơng
thương nghiệp trong nước. Đời Minh đã có những xưởng dệt, xưởng nhuộm
có hàng nghìn thợ, đời Thanh có những mỏ như mỏ Mơng Tự (thời Kiền
Long) có hàng vạn thợ. Sự giao lưu hàng hóa, bn bán với nước ngoài cũng
rất phát đạt. Đến thời kỳ này, nhà Thanh đã có cả một đội thương thuyền rất
lớn đi các nước Đông Nam Á và cả Châu Phi. Mặt khác, sự xâm nhập của chủ
nghĩa tư bản phương Tây ngay từ thế kỷ XVI được coi là thời kỳ tích lũy của
chủ nghĩa tư bản; thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh…
lần lượt đến Trung Quốc để tiến hành giao lưu buôn bán. Sự phát triển đó đã
làm xuất hiện những đơ thị sầm uất với một tầng lớp thị dân đông đảo.
Mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển cũng tạo điều kiện cho
việc nảy sinh một ý thức hệ mới chống lại ý thức hệ phong kiến truyền thống.
Thời Thanh đã có cuộc “Vận động Khải mông” tuyên truyền tư tưởng dân
chủ chống phong kiến, nêu khẩu hiệu “ruộng đất là của chung” (Vương Phu
Chi), “nam nữ bình đẳng” (Đường Ngoa)… Điều này đã tạo nên màu sắc
mới mẻ cho hàng loạt các tác phẩm văn học.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Tên tác giả “Tiếu Tiếu Sinh” có nghĩa là “thầy cười” hay “ông bông
đùa”. Vẫn biết rằng trong xã hội phong kiến Trung Quốc, chỉ có các nhà thơ,

từ, phú mới được trọng vọng, cịn các tiểu thuyết gia nói chung đều bị rẻ rúng.
(Nghĩa gốc của hai chữ “tiểu thuyết” là “nói nhảm nhí”, tiểu thuyết bị khinh
rẻ như một loại “ngụy thư”, “nôm na mách qué”, “loại tạp nham”…) nhưng
La Quán Trung, Thi Nại Am, Ngô Thừa Ân vẫn công khai danh tính của mình
như thường. Kim Bình Mai đã từng bị người đời ghép vào loại “dâm thư”
nên người sáng tác nó cũng phải lánh mặt giấu tên dưới cái biệt hiệu “thầy
cười” hay “ông bông đùa”. Đây không phải khiêm nhường mà như trêu tức

SVTH: Vũ Thị Thúy

14

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

khiến độc giả phải phỏng đốn, khơng ngừng kiếm tìm…
Sau thời Gia Tĩnh, kinh tế có chiều phát triển, xã hội phồn vinh, khơng
khí đơ thị tấp nập, náo nhiệt, tầng lớp thị dân ngày càng thêm đông đảo, các
văn nhân có dịp gần gũi, khám phá đời sống xã hội. Theo cuốn Minh thực lục
(Q.361) ghi chép thì nghề dệt ở Tơ Châu bấy giờ đã có quy mơ lớn “xưởng
nhuộm khi tan tầm có hàng nghìn thợ ra về”, xã hội thịnh vượng, nhu cầu văn
hóa mới cũng phát triển. Thời Vạn Lịch, ngành xuất bản mở mang, nghề in
phát đạt, nhiều tiểu thuyết và hí khúc được in ra với những tập sách trình bày
rất đẹp. Kim Bình Mai đã trình làng sau khi trải qua nhiều thử thách, búa rìu
của dư luận.
Bằng ngịi bút tràn đầy hơi thở hiện thực cộng với sức sáng tạo độc

đáo, tác giả đã đem đến cho người đọc một cuốn sách đầy giá trị. “Sách này
mô tả quan phủ cấu kết với Tây Mơn Khánh hồnh hành bạo ngược, chà đạp
biết bao phụ nữ… bộ mặt đen tối của xã hội đời Minh, cùng với sự hoang dâm
tàn bạo của bọn quan lại ác bá cấu kết với thương nhân”. Hiện thực được
phản ánh trong Kim Bình Mai là bộ mặt thật của xã hội phong kiến thời Minh
từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch, là thời kỳ mà nàng Kiều đẹp người đẹp
nết phải lưu lạc giang hồ sống cuộc đời mấy thân phận. Đó là thời kỳ đồng
tiền tỏ rõ uy thế vạn năng của nó. Một kẻ có tiền như Tây Mơn Khánh có thể
thành ơng vua một vùng. Hắn giết Võ Đại cướp Phan Kim Liên mà vơ sự.
Hắn gian dâm với Lý Bình Nhi rồi vu oan giá họa đuổi chồng chị ta cướp đoạt
hết tài sản mà cả họ nhà chồng không ai dám hé răng. Hắn thu nạp côn đồ, vu
cáo Tưởng Trúc Sơn, đưa ra công đường đánh cho sống dở, chết dở. Hắn bức
hiếp Tống Huệ Liên, bày kế hãm hại Lai Vượng, cậy quyền đánh chết Tống
Nhân. Tội trạng chồng chất nhưng hắn vẫn ung dung vơ sự vì hắn đã khéo hối
lộ Thái Kinh mua được chức Đề hình Thiên hộ, lại biết cách bỏ vàng mua mĩ
nữ dâng Định Quản để kết giao quyền quý… Tác giả muốn thông qua nhân

SVTH: Vũ Thị Thúy

15

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

vật điển hình Tây Mơn Khánh để vạch trần sự xấu xa bì ổi của xã hội phong
kiến đương thời. Sự ruỗng nát nằm ngay ở chốn cung đình, bọn hoạn quan ỷ

thế làm điều xằng bậy ngay cạnh nhà vua, gian thần núp bóng lọng vàng để
tranh quyền đoạt vị, bọn thái sư chuyên quyền bạo ngược. Qua những hành vi
bạo tàn đầy tội ác của bấy nhiêu nhân vật, tác giả vẽ lên một thế giới quỷ sứ
tối tăm, tàn bạo – thế giới ấy chính là thời đại mà tác giả đang sống – thời đại
mà mối quan hệ giữa con người với con người hết sức kỳ quặc – quan hệ
được xây dựng trên tiền tài và thế lực. Điều này cũng được Nguyễn Du đề cập
đến trong Truyện Kiều:
“Trong tay sẵn có đồng tiền
Dẫu lịng đổi trắng thay đen khó gì”
Hay Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định:
“Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi”.
1.3. Đặc điểm của nhân vật thị dân trong Kim Bình Mai
Văn học là tấm gương phản ánh thời đại, thể hiện suy ngẫm, khám phá,
tìm tịi của người nghệ sĩ. Trước thực tại lịch sử xã hội, mỗi văn nhân lại chọn
cho mình một lối đi, một cách tiếp cận riêng. Điều này tạo nên sự phong phú,
đa dạng cho văn chương.
Trong thời kỳ lịch sử đặc biệt của xã hội Trung Quốc – khi mầm mống
kinh tế tư bản đã nảy mầm và phát triển, bên cạnh những tầng lớp cũ, trong xã
hội còn xuất hiện một loại người mới – tầng lớp thị dân – đem đến một diệm
mạo mới cho tiểu thuyết Trung Quốc.
1.3.1. Khái niệm thị dân
Theo Từ điển Bách khoa điện tử Wikipedia, Thị dân: là người dân
thành thị thời phong kiến chuyên sống bằng nghề thủ công hoặc buôn bán
nhỏ (tầng lớp thị dân, lối sống thị dân).

SVTH: Vũ Thị Thúy

16


Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Đọc Kim Bình Mai, người ta phát hiện được một loại “người hùng”
mới của xã hội Trung Quốc. Không phải là Tào Tháo lắm mưu mô thủ đoạn
để chèo lái giang sơn, khơng phải là Tơn Ngộ Khơng có 72 phép thần thông
trừ yêu diệt quái thực hiện lý tưởng mà là một nhà buôn đời thường – nhờ giỏi
buôn bán mà lắm tiền, nhờ có tiền mà có quyền thế xoay chuyển cả đời sống
xã hội. Đây là kiểu người hùng mới, con đẻ của các đô thị tư bản chủ nghĩa
mới hình thành ở Trung Quốc. Lỗ Tấn khẳng định đây là một tác phẩm “tả
chân đời sống hiện thực từ giữa đến cuối Minh khi mà cuộc sống phóng đãng
hưởng thụ trở thành thời thượng. Nó xứng đáng được gọi là tác phẩm hiện
thực phê phán có giá trị” [10, 57] bởi đã nắm đúng biểu tượng đột xuất của
xã hội phong kiến cuối Minh – nhà bn hãnh tiến, từ đó mơ tả một bức tranh
xã hội phức tạp, phong phú. Tiểu thuyết này cũng đánh dấu sự mở đầu một
khuynh hướng văn học, đó là khuynh hướng trân trọng cái “nhân dục”
(chống lại đạo đức phong kiến giả dối) do Vương Dương Minh đề xướng.
Tư tưởng dân chủ manh nha trong lòng xã hội phong kiến từ rất lâu
nhưng đến thời Tống mới có cơ hội nảy mầm và phát triển với những đòi hỏi
mới thách thức những tiêu chuẩn đạo đức, lễ giáo phong kiến. Đến thời Minh
- Thanh, khi Lý học càng được suy tơn, đạt đến đỉnh cao địa vị thì phong trào
địi giải phóng cá tính đã bùng lên mạnh mẽ, chống lại những luật lệ, giáo lý
hà khắc trói buộc con người. Các nhà tư tưởng cho rằng “Thiên lý ngụ ư
nhân dục”, các dục vọng về ăn uống, trai gái là chính đáng.
Trong Kim Bình Mai, Tiếu Tiếu Sinh thông qua mạch hoạt động xã
hội của nhân vật điển hình Tây Mơn Khánh để miêu tả trạng thái tinh thần của

đủ hạng người trong xã hội thành thị: xu phụ, bợ đỡ như Ứng Bá Tước, Tạ Hy
Đại; du côn mất dạy như Trương Thắng, Lưu Nhị; cậu nhỏ cô sen như Lai
Vượng, Thu Cúc; cô đầu, gái điếm như Lý Quế Thư, Vương Kinh; và đủ các
hạng người ăn bám: thái giám, môn quan, sư sãi, ni cô, đạo sĩ, bà mối… Tất

SVTH: Vũ Thị Thúy

17

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

cả đều được khắc họa một cách tỉ mỉ, tường tận tạo thành một bức tranh chi
tiết về xã hội thành thị lúc bấy giờ.
1.3.2. Đặc điểm của nhân vật thị dân
a. Ý thức cầu tài mạnh mẽ
Cầu tài nghĩa là cầu cho có được nhiều tiền của. Thế kỷ XVI, ở Trung
Quốc, khi chủ nghĩa tư bản từng bước khẳng định sức sống, vị thế của mình
thì tiền tệ, hàng hóa được đề cao nên kẻ có nó cũng được tơn kính. Tiền tệ,
hàng hóa là cái thiện tối cao, cho nên người có nó cũng là thiện.
Trước vận hội mới, mỗi người dân nói chung, và đặc biệt ở tầng lớp thị
dân, ý thức phát tài và tâm lý cầu lợi bùng lên mạnh mẽ, trở thành mục đích
sống của họ. Người thị dân trong Kim Bình Mai không hề quay lưng lại với
lợi lộc, họ đặt lợi ích lên hàng đầu; bất chấp cả đạo đức lễ nghĩa truyền thống.
Người ta làm gì cũng nghĩ đến mối lợi trước mắt, đến ngay lịng tin, chữ tín
cũng được đem ra mặc cả, đổi trao. Tất cả những điều đó chứng tỏ sức trỗi

dậy của những mầm mống chủ nghĩa tư bản khiến cho những chuẩn mực đạo
đức phong kiến phải thay đổi.
Tây Môn Khánh là người kinh doanh có kinh nghiệm với nhiều mánh
lới làm ăn. Người ta cho rằng đây là đại biểu cho thế lực phong kiến hợp nhất
trong mình cả ba vai quan liêu, ác bá, phú thương, đặc biệt là đã phản ánh đặc
trưng của thương nhân mới phất lên trong điều kiện kinh tế hàng hóa sau hai
triều vua Gia Tĩnh và Vạn Lịch vương triều nhà Minh. Xuất thân là một tên
tài chủ bị phá sản sau đó xoay sang mở hiệu thuốc trước cổng huyện, Tây
Môn Khánh không từ một thủ đoạn gian dối lừa đảo nào để buôn bán kiếm
lãi. Nhờ có của, hắn đã làm quen với bọn quan lại, xúi giục người ta đi kiện
đứng giữa kiếm tiền. Mặt khác, hắn lại khom lưng uốn gối, nịnh hót quan
trên, nhờ thế mỗi ngày một phất. Tây Môn Khánh cứ tiến từng bước vững
chắc trên con đường tài lộc đầy hanh thông.

SVTH: Vũ Thị Thúy

18

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Bản chất là một con buôn, với tâm lý thực dụng, Tây Môn Khánh tranh
thủ, tận dụng mọi cách để kiếm lời. Khi Hoa Tử Hư đánh Từ Thiên hộ, rồi bị
kiện, Tây Môn Khánh nhận lời giúp bạn và cũng là người anh em kết nghĩa
của mình. Y đưa cho Trầm đại quan hai đĩnh bạc để lo lót, nhưng khi gặp Hoa
Tử Hư, Tây Môn Khánh thản nhiên: “Hỏng rồi! Trầm đại quan cho biết họ

Từ tố cáo anh ỷ thế Hoa thái giám, giữa nhà kĩ nữ uống rượu, đánh người vô
cớ. Quan huyện giận lắm, lập tức ra lệnh bắt anh đó… Cũng may, Trầm đại
quan đã biết nhị ca là anh em kết nghĩa với tơi nên đã giấu trát gọi vào một
chỗ. Ơng ta nói vụ này gay đây, mà quan huyện tham tiền lắm, muốn xong
việc phải có hai trăm lạng” (tr 51, chương 3, tập 1). Với mưu lược, sự tính
tốn, Tây Môn Khánh đã lấy không được một trăm tám mươi lạng bạc, cùng
một trăm lạng Hoa Tử Hư cảm ơn, lại còn được thêm tiếng bạn tốt, người
huynh đệ hết lịng vì nghĩa. Tây Mơn Khánh kinh doanh ngay trên chính tình
bằng hữu. Hắn khơng ngần ngại biến bạn mình thành công cụ trong nước cờ
kiếm lời của bản thân.
Là một người giỏi tính tốn, Tây Mơn Khánh biết đầu tư, lợi dụng thời
cơ trong kinh doanh: “Ứng nhị gia cho biết có một thương gia muốn bán gấp
một số lụa quý với giá năm trăm lạng. Tôi trả bốn trăm năm chục lạng rồi
nhờ hắn thương lượng… Mình có nhà ở đường Sư Tử, tơi thấy ở đó bn bán
được thì tại sao khơng dùng nhà ấy mở tiệm bn tơ lụa vải vóc, cho gia
nhân trơng coi lấy lời, vừa khỏi cắt cử người coi nhà” (tr 296, chương 34, tập
1). Sự tính tốn của Tây Mơn Khánh là sự tính tốn của một người có đầu óc
biết tận dụng cơ hội sao cho kiếm lời nhiều nhất. Với Tây Mơn Khánh, đồng
tiền có sức hấp dẫn vơ biên. Chẳng thế mà khi vừa thoát khỏi rắc rối ở vụ
Miêu Thanh, Tây Mơn Khánh “đã tính ngay đến chuyện làm ăn kiếm lợi” (tr
493, chương 50, tập 1). Bởi vậy, nhân dịp tiếp đón Thái Ngự sử, hắn rào
trước đón sau, tỏ bày mong muốn, ý định của mình: “Thân gia của chúng tơi

SVTH: Vũ Thị Thúy

19

Lớp K33C – Sp Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

là Kiều đại hộ từ năm ngoái đã lo việc cung cấp lương thực, nay lại muốn xin
đại quan nhân giúp đỡ về việc buôn muối ở Dương Châu” (tr 499, chương
50, tập 1). Thái Ngự sử quyết định: “sẽ ưu tiên cho ngươi trước các thương
gia khác một tháng”. Thấy mục đích đạt được, Tây Mơn Khánh mừng rỡ:
“Thế thì may mắn q, chúng tơi chỉ dám xin mười ngày là đủ”. Nhờ khôn
ngoan, nhanh nhạy, mưu lược, Tây Mơn Khánh được độc quyền bn bán,
kiếm được món lời lớn, nhét đầy hầu bao của mình.
Đặt lợi ích lên hàng đầu, coi đồng tiền là mục đích, là lẽ sống; Tây Môn
Khánh dùng mọi thủ đoạn, mưu mô để kiếm tiền. Tiếu Tiếu Sinh khẳng định
cầu lợi không xấu. Cái mà tác giả lên án, phê phán là cách làm giàu bằng con
đường bất chính, chỉ nghĩ đến mối lợi trước mắt mà quên mất đạo đức, nhân
nghĩa. Ngay trong truyện, Trĩ Tiết từng cất lời “ca tụng, tôn vinh” đồng tiền:
“Bạc ơi, bạc hỡi, mày quả là quý nhất trên đời nên sáng lấp la lấp lánh thế
này” (tr 620, chương 57, tập 1). Ánh sáng của bạc trở thành thứ ma lực hấp
dẫn vô cùng khiến người ta mê muội. Trong Kim Bình Mai, tất cả mọi người
từ quan lại, dân đen đến sư sãi, người hầu, con hát… đều tìm mọi cách chuộc
lợi cho bản thân, mong sao nhét cho “đầy túi tham” của mình. Nhà văn đã xây
dựng một thế giới nhân vật, từ đó khái quát hiện thực cả một xã hội bị chi
phối bởi đồng tiền: “Ngẫm cho cùng thì xã hội điên đảo, mọi vật cũng đảo
điên, con người cũng chẳng biết tin ai được, ai ai cũng bằng mọi cách hòng
kiếm cho đầy túi” (tr 388, chương 41, tập 1). Tình bạn bè, nghĩa vợ chồng
cũng được xây dựng bằng đồng tiền, vì đồng tiền. Lúc cịn sống, Tây Mơn
Khánh đối đãi với Bá Tước khơng khác gì anh em ruột thịt, hết lòng giúp đỡ:
“Đã là huynh đệ với nhau rồi thì vay nợ vay nần làm gì” (tr 111, chương 68,
tập 2). Nhưng khi Tây Môn Khánh chết, Bá Tước tìm mọi cách lừa Nguyệt
nương mưu lợi cho bản thân. Với y, chỉ có tiền là đáng quý, người nào có tiền

là đáng trọng.

SVTH: Vũ Thị Thúy

20

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

Hay như Lý Kiều Nhi, chồng vừa chết, gia sự rối ren “Kiều Nhi tranh
thủ lấy năm đĩnh bạc loại tốt đem về phịng”. Tác giả cay đắng bóc trần bản
chất của Kiều Nhi: “Kiều Nhi vốn là ca nhi kĩ nữ chỉ biết bòn rút của khách
làng chơi. Kiều Nhi về ở với Tây Mơn Khánh chẳng qua vì tiền, nay danh lợi
đã hết thì bỏ đi chứ làm gì có tình nghĩa gì” (tr 336, chương 81, tập 2). Đúng
như lời Quế Thư nói với Kiều Nhi: “Cơ cháu mình là ca nữ thì người nào
giàu, có thế lực thì tìm đến” (tr 335, chương 81, tập 2). Như vậy, đồng tiền
có khả năng thao túng tất cả, khiến mọi giá trị đảo điên, trắng đen lẫn lộn,
ranh giới thật – giả bị xóa nhịa. Tiền chính là thước đo phẩm giá, góp phần
định lại thang giá trị, quyết định cách xử thế của tầng lớp thị dân nói riêng và
cả xã hội nói chung.
b. Coi nhẹ những giá trị đạo đức, lễ giáo phong kiến
Thời Minh – Thanh, để củng cố tôn ti trật tự phong kiến, thủ tiêu tinh
thần phản kháng của nhân dân, giai cấp thống trị đã thi hành chính sách văn
hóa vơ cùng tàn bạo: đề cao tam cương ngũ thường, khuyên răn con người
khép mình vào khn phép, đề cao chủ tĩnh, tránh suy nghĩ bậy bạ… Nhưng ở
Kim Bình Mai, ta bắt gặp cái nhìn hồn tồn mới mẻ, đi ngược lại với những

đạo đức phong kiến cũ. Tác phẩm này minh chứng cho một thời kỳ lịch sử vô
cùng đặc biệt – thời kỳ nảy mầm của kinh tế tư bản chủ nghĩa, thời kỳ rạn nứt
của những cương thường phong kiến truyền thống, thời kỳ con người đòi hỏi
cởi trói khỏi những ràng buộc phong kiến ngàn năm để được sống cho mình.
Tầng lớp thị dân, nhất là những gia đình thương nhân, trong cuộc sống
ít bị ràng buộc của lễ giáo. Người ta chẳng phải lo nghĩ nhiều đến đạo đức, lễ
nghĩa trước kia; họ sống và hưởng thụ vì con người cá nhân của mình. Với
khuynh hướng đời thường trân trọng cái “nhân dục”, Kim Bình Mai đã khám
phá đời sống, khám phá con người ở những gì thực nhất, đời nhất. Nhân vật
trong tiểu thuyết này không che giấu những ham muốn, họ sẵn sàng bộc lộ

SVTH: Vũ Thị Thúy

21

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

những khát khao, rung cảm sâu kín nhất của bản thân và tìm mọi cách để đạt
được mục đích. Những rào cản của đạo đức, lễ giáo bị phá tan, đạp bằng.
Trong Kim Bình Mai, Tiếu Tiếu Sinh đã xây dựng thành cơng hình
tượng Tây Mơn Khánh đại biểu cho q trình lịch sử phát tích của giai cấp
lưu manh hoặc thổ hào trong xã hội phong kiến Trung Quốc từ xưa đến nay.
Ở Tây Môn Khánh ta bắt gặp một lối sống phóng túng, một cuộc đời phóng
đãng, khơng chịu bó buộc của bất cứ luật lệ hà khắc nào. Khi nhìn thấy Kim
Liên, “sững sờ trước nhan sắc tuyệt trần”, Tây Mơn Khánh tìm mọi cách làm

quen, gặp gỡ mong chiếm được người đẹp, thỏa mãn ham muốn, bỏ qua mọi
lời bàn tán của dân chúng, bỏ qua thực tại Kim Liên đang sống với chồng.
Tuy bên cạnh có biết bao người đẹp nhưng Tây Mơn Khánh vẫn rắp
tâm chiếm Bình Nhi – vợ người anh em kết nghĩa của y. “Để thực hiện âm
mưu này, Tây Môn Khánh thường đưa tiền để bọn Bá Tước, Hy Đại rủ họ
Hoa đi chơi, mà thường đi qua đêm không về. Ở nhà Tây Mơn Khánh thường
tựa cửa nhìn sang nhà họ Hoa” (tr 135, chương 14, tập 1). Hắn còn dùng
mưu kế chia rẽ vợ chồng Huệ Liên, gây nên kết cục bi thảm cho một gia đình.
Khơng chỉ tìm mọi cách thỏa mãn sắc dục, Tây mơn Khánh cịn kiếm
tiền bằng nhiều thủ đoạn. Trong tình bạn, chữ tín, sự chân thành là quan
trọng, là tiêu chuẩn hàng đầu, nhưng đối với Tây Mơn Khánh, tình bạn cũng
được quy đổi ra vật chất – tiền bạc. Hắn sẵn sàng lừa bạn để chuộc lợi cho
bản thân, làm giàu cho mình.
Xã hội phong kiến đặt ra biết bao luật lệ hà khắc trói buộc con người,
nhất là người phụ nữ. Người ta bắt ne, bắt nét người phụ nữ, nào là: “không
đi giữa đường, không đứng giữa cửa, không ngồi giữa chiếu” (hành bất trung
đạo, lập bất trung môn, tọa bất trung tịch), thậm chí “cười khơng được hở
răng”. Với cách nhìn đó, người phụ nữ chỉ được phép cấm cung, bó chân, cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy, nam nữ trao nhau vật gì tuyệt đối khơng được chạm

SVTH: Vũ Thị Thúy

22

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2


tay (Nam nữ thụ thụ bất thân: chữ thụ thứ nhất là đưa, chữ thụ thứ hai là nhận,
thân là dụng chạm da thịt). Người phụ nữ không được phép sống cho riêng
mình bởi “tại gia tịng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cuộc sống
của họ cũng giống như cuộc sống ký sinh, hoàn toàn phụ thuộc vào người
khác. Họ không được phép thể hiện những rạo rực tâm hồn, tất nhiên địi hỏi
tình dục phải là điều cấm kị. Nhưng con người rút cục vẫn là con người và
văn học là nhân học. Mọi sự trói buộc đó chỉ là giả dối.
Trong Kim Bình Mai hầu hết các nhân vật nữ đều không tuân phục
theo đạo đức, lễ giáo phong kiến. Con người cá tính được đặt lên hàng đầu, họ
sẵn sàng phá rào để sống vì mình.
Kim Liên là người phụ nữ có nhan sắc, có tài nhưng lấy phải người
chồng xấu xí, q mùa, vì thế Kim Liên khơng an phận “thường hay kiếm cớ
cãi cọ, ả cho rằng xinh đẹp như mình thì phải lấy chồng giàu có, tài giỏi nên
chẳng chịu giúp chồng, suốt ngày chỉ lo trang điểm rồi than thân trách phận”
(tr 33, chương 1, tập 1). Chính vì thế khi gặp Võ Tòng – em trai Võ Đại –
một tráng sĩ hùng dũng, lẫm liệt, khôi ngô tuấn tú, Kim Liên đem lòng tơ
tưởng. Nàng đã phá bỏ mọi rào cản lễ giáo, bộc lộ tâm trạng thực của mình. Ả
tìm mọi cách để thỏa mãn dục vọng, ham muốn; thậm chí giết chồng để được
lấy chồng: “Kim Liên cho lập bàn thờ chồng trên lầu, giữa có bài vị ghi
“Vong phu Võ Đại lang chi linh”... Nhưng cũng từ đó, Kim Liên và Tây Mơn
Khánh khơng cần gặp nhau ở nhà mụ Vương nữa mà ngang nhiên vui thú với
nhau trước bàn thờ Võ Đại. Mới đầu còn giữ ý hàng xóm đàm tiếu, sau cơng
khai nghiễm nhiên sống như vợ chồng” (tr 87 - 88, chương 7, tập 1).
Những tưởng khi về làm vợ Tây Môn Khánh, đạt được mục đích của
mình, Kim Liên sẽ an phận, làm tròn nghĩa vụ của một người vợ, nhưng trái
lại, ả vẫn tìm mọi cách để thỏa mãn ham muốn. Ở Kim Liên, con người bản
năng chi phối tất cả. Ả sẵn sàng thông dâm, quyến rũ gia nhân trong nhà, bất

SVTH: Vũ Thị Thúy


23

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

chấp địa vị, danh dự của mình. Khn phép, đạo đức bị phá vỡ ngay từ trong
suy nghĩ.
Xã hội phong kiến quy định: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên
một chồng”, nhưng ở Kim Bình Mai lại khác. Bình Nhi vốn là vợ lẽ của Lương
Trung Thư, khi phủ Đại Danh bị các anh hùng Lương Sơn đánh phá, nhân lúc
hỗn loạn, ả cướp hết đồ đạc chạy trốn, lấy chồng là Hoa Tử Hư. Và trước sự
chinh phục của Tây Mơn Khánh, Bình Nhi xiêu lịng, để rồi khi chồng gặp nạn,
đã không đắn đo bày tỏ với Tây Mơn Khánh: “Trước sau gì tơi cũng là vợ
chàng” (tr 143, chương 15, tập 1). Bình Nhi bỏ qua liêm sỉ, không để tâm đến
khuôn phép, đạo lý: “Xin chàng rủ lịng thương, em góa bụa giờ đây khơng cịn
nơi nương tựa, chỉ biết trơng cậy vào chàng, xin chàng đừng chê, em nguyện
làm phận con ăn kẻ ở” (tr 153, chương 17, tập 1).
Xuân Mai là a hoàn thân tín của Kim Liên, khi cịn ở nhà Tây Mơn
Khánh tuy khơng có danh phận nhưng vì được Tây Môn Khánh yêu quý, bênh
vực nên ả quên mất địa vị tơi địi của mình, ln ức hiếp người khác. Về làm
vợ Chu Thủ Bị, sống trong nhung lụa, giàu sang, là phu nhân của một mệnh
quan lớn trong triều nhưng Xn Mai vẫn khơng thay đổi, ả tìm mọi cách gặp
gỡ, làm chuyện đồi bại với Kính Tế. Để che mắt mọi người, gạt chồng, Xuân
Mai nhận Kính Tế là em mình cho hắn được về sống trong phủ, hai người có
thể gặp gỡ nhau thường xuyên. Chồng chết, Xuân Mai bỏ mặc tang chồng, chỉ

quan tâm đến thú vui nhục thể, thỏa mãn ham muốn. Mọi việc làm của nàng
đều đi ngược khuôn phép, lễ giáo.
Hay Lâm thái thái, là mẹ của Vương Tam, ở phủ Vương Chiêu Tuyên –
địa vị cao quý, danh vọng tột đỉnh nhưng cũng quên mất danh phận của mình:
“Bà ta lấy cớ con trai chuyên la cà các nhà hát nên thường đi lễ phật tại các
am sư nữ, để nhờ người mai mối chuyện mây mưa” (tr 127, chương 69, tập
2). Nghe Văn tẩu tẩu kể về Tây Môn Khánh, Lâm thái thái thấy xốn xang bồi

SVTH: Vũ Thị Thúy

24

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường đại học sư phạm Hà Nội 2

hồi. Gặp Tây Môn Khánh thấy “tướng mạo khôi vĩ, mặc cực kỳ trang nhã”,
lịng vừa ý mười phần, nhìn mãi không chán mắt. Trong lần gặp mặt đầu tiên,
sau tiệc rượu linh đình, hai người “lả lơi âu yếm”. Lâm thái thái không màng
đến địa vị mà chỉ cốt sao thỏa mãn mình. Khi Vương Tam nhận Tây Mơn
Khánh làm nghĩa phụ, tác giả thốt lên câu hỏi “Nghĩa phụ hay nhân tình của
mẹ?”. Mọi giá trị đạo đức ở đây bị băng hoại, đảo lộn; bị đánh đổi bằng ham
muốn, bản năng.
Ái Thư cũng là một minh chứng rõ nét cho hình ảnh người phụ nữ
khơng chịu bó buộc bởi lễ giáo. Vốn ban đầu đến với Kính Tế khơng phải vì
tình u; nàng khơng để tâm đến thân phận nữ nhi, “dùng lời ngon ngọt, lấy
khóe mắt đưa tình mồi chài Kính Tế… chỉ một lát sau Ái Thư đã xích lại ngồi

sát vào Kính Tế”. Mọi quy định, lễ giáo bị phá bỏ. Sau này, khi Kính Tế chết,
dù khơng là vợ, cũng chưa là thiếp nhưng Ái Thư quyết một lòng một dạ cùng
Cát Thị để tang Kính Tế: “Tơi xin phu nhân và thư thư hãy thương mà cho tôi
theo về phủ để cùng được trông nom bài vị cho Trần lang, không về theo cha
mẹ nữa. Nay mai nếu tơi có chết đi thì cũng được coi như vợ bé của chàng”
(tr 589, chương 99, tập 2). Ái Thư đã bỏ mặc lễ giáo mà sống theo tiếng lịng,
sống theo con tim mình. Nàng nguyện làm vợ Kính Tế dù khơng bao giờ
được cưới hỏi.
Kính Tế là con rể của Tây Mơn Khánh nhưng lại thơng dâm với Kim
Liên, đóng vai “hiền tế kiêm nhân tình” của ả. Mọi chuyện vỡ lở, y không
ngần ngại: “Trước hết tôi phải bỏ Tây Môn đại thư rồi địi lại số tiền mà tơi
đã gửi nhà đó… sau đó tơi sẽ giả tên họ, cưới nàng về để hai ta sống mãi bên
nhau” (tr 394, chương 86, tập 2). Nếu như nàng Kiều trong Truyện Kiều
(Nguyễn Du) hi sinh chữ tình để làm trịn chữ hiếu, trọn đạo làm con, thì Kính
Tế lại khác. Khi về nhà, cha chết được ba hơm, mẹ nói: “Phải đem linh cữu
cha về quê mai táng cho trọn nghĩa” (tr 410, chương 88, tập 2), Kính Tế nghĩ

SVTH: Vũ Thị Thúy

25

Lớp K33C – Sp Ngữ văn


×