Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.49 KB, 71 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa giáo dục tiểu học
***************

NGUYễN THị HOA

PHƯƠNG PHáP TRựC QUAN TRONG
VIệC PHáT TRIểN VốN Từ CHO TRẻ
MẫU GIáO Bé

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Tiếng Việt

Hà NộI 2009

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
Khoa giáo dục tiểu học
***************



NGUYễN THị HOA

PHƯƠNG PHáP TRựC QUAN TRONG
VIệC PHáT TRIểN VốN Từ CHO TRẻ
MẫU GIáO Bé

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn thu hương

Hà nội 2009

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

Lời cảm ơn
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu khóa luận này tôi không khỏi lúng
túng và bỡ ngỡ. Nhưng dưới sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của ThS Nguyễn Thu
Hương, tôi đã từng bước tiến hành và hoàn thành khóa luận với đề tài:
phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS Nguyễn Thu Hương, các

thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học, các thầy cô trong khoa Ngữ văn và
các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2009
Sinh viên

Nguyễn Thị Hoa

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các căn
cứ, số liệu trong khoá luận là trung thực. Đề tài này chưa được công bố trong
bất kì công trình khoa học nào khác.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Khoa GDTH

Danh mục các kí hiệu viết tắt
CNTT

: Công nghệ thông tin

CTLQVMTXQ

: Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh

CTLQVTPVH

: Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học

Nxb

: Nhà xuất bản

VD

: Ví dụ

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Khoa GDTH

Mục lục
Mở đầu

Trang

1. Lý do chọn đề tài................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu............................................................................. 7
5. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 7
7. Cấu trúc khóa luận ................................................................................ 7
Nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận của phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn
từ cho trẻ mẫu giáo bé ..................................................................................... 8
1.1. Các khái niệm............................................................................. 8
1.1.1. khái niệm phương pháp trực quan ........................................... 8
1.1.2. Khái niệm từ ............................................................................ 9
1.1.3. Khái niệm các loại đồ dùng trực quan nhằm phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo bé................................................................ 9
1.1.4. Vị trí vai trò, vị trí của đồ dùng trực quan trong việc phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé .................................................. 10
1.1.5. Cơ sở tâm lý .......................................................................... 12
1.1.6. Cơ sở sinh lý ......................................................................... 15
Chương 2: Hướng dẫn sử dụng một số đồ dùng trực quan trong việc phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé ............................................................................ 16
2.1.


Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan ............................................... 16

2.2.

Nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan............................................... 19

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

2.3. Các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong việc phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo bé.23
Chương 3: Thể nghiệm một số giáo án..47
3.1 Giáo án môn Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ............................ 47
3.2 Giáo án môn Toán ................................................................................... 53
3.3 Giáo án môn Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh....58
Kết luận ........................................................................................................ 63
Tài liệu tham khảo....................................................................................... 65

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Khoa GDTH
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển.Vì
vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển, đảm bảo xây dựng một
thế hệ kế tiếp có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ đất nước. Ngay từ khi
thống nhất Đảng và Nhà nước ta đã xác định Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, từ đó đề ra những biện pháp giáo dục không chỉ đáp ứng yêu
cầu phổ cập đại trà mà nó trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Hơn thế
nữa trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão. Để theo kịp sự phát triển của thời đại và sánh vai với các cường quốc năm
châu đòi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam phải đủ bản lĩnh, tri thức, nhất là sự tự tin
trong giao tiếp. Thực tế cho thấy chất lượng giáo dục của ta phụ thuộc rất
nhiều vào các bậc học coi là nền tảng. Trong các bậc học thì bậc học mầm non
được coi là nền tảng, là sự khởi đầu cho quá trình giáo dục. Vì vậy, khi trẻ sử
dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, tự tin trong xã hội là rất quan trọng. Mặt khác,
tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao
lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học và bồi dưỡng
tâm hồn Gamzalôp - một nhà thơ nổi tiếng của Đaghextan đã nói: Khi
chết người cha để lại cho con cái của mình nhà cửa, ruộng vườn, thanh kiếm
và cây đàn pandua. Nhưng một thế hệ mất đi thì để lại cho thế hệ tiếp theo
tiếng nói. Ai có tiếng nói người ấy sẽ xây dựng nhà mình, sẽ cày được ruộng,
đúc được kiếm, lên được dây đàn pandua và gẩy được nó. Cho nên việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là rất quan trọng. ở giai đoạn 3 - 4 tuổi là
thời kì phát cảm ngôn ngữ của trẻ, trẻ lên ba cả nhà học nói, trẻ lên ba thích
nói và nói rất nhiều. Vì vậy, đây là thời điểm thích hợp để phát triển ngôn ngữ
cho trẻ. Trong hệ thống ngôn ngữ thì từ là đơn vị trung tâm, là vật liệu cơ bản


Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

của lời nói. ở lứa tuổi mẫu giáo nói chung, trẻ mẫu giáo bé nói riêng, trẻ phải
nắm được vốn từ cần thiết đủ để cho chúng giao tiếp với bạn bè, người lớn,
tiếp thu tri thức ban đầu trong trường mầm non và chuẩn bị học tập ở trường
phổ thông. Chính vì vậy mà giáo dục học mẫu giáo coi việc phát triển vốn từ
cho trẻ là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Để phát triển vốn từ cho trẻ 3 - 4
tuổi có nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế hiện
nay cho thấy việc sử dụng các phương pháp trực quan trong giờ học nhằm phát
triển vốn từ cho trẻ được sử dụng rất nhiều và đạt hiệu quả cao. Phương pháp
trực quan cần thay đổi sao cho phù hợp với nội dung dạy và mục tiêu đào tạo.
Ngoài ra, tất cả mọi người đều nhận thấy rằng phương pháp trực quan sử dụng
trong các giờ học cho trẻ mẫu giáo bé nhằm phát triển vốn từ rất quan trọng và
hợp lý. Vì vậy, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Bên cạnh đó, do
nhiều nguyên nhân khác nhau đồ dùng trực quan chưa đồng bộ, giáo viên
không đủ thời gian để chuẩn bị và khai thác hết giá trị của phương pháp trực
quan. Do yếu tố thuộc về quan niệm phương pháp trực quan có hay không
cũng ảnh hưởng đến chất lượng dạy học. Trong thực tế phương pháp trực quan
chưa đươc khai thác triệt để trong các giờ học của trẻ 3 - 4 tuổi.
Vì tất cả những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: Phương pháp
trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ giáo bé.
2. Lịch sử vấn đề
Phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ và phương pháp trực quan được rất

nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm và đi sâu nghiên cứu ở các khía cạnh
khác nhau.
a) Phương pháp triển vốn từ
Có rất nhiều các tác giả nghiên cứu về phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ:
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo, Nxb Đại học Sư phạm, 2004, đã nói về phương pháp phát
triển tiếng cho trẻ mẫu giáo rất chi tiết, cụ thể. Ngoài ra, ông cũng đã đưa ra

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

các cách sửa lỗi phát âm và một số trò chơi nhằm phát triển vốn từ cho trẻ
mẫu giáo.
Trong cuốn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi, Nxb
Đại học Quốc Gia, 2005, đồng tác giả Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt,
Nguyễn Kim Đức đã nói rất cụ thể về luyện phát âm cho trẻ ở các lứa tuổi.
Tác giả Đinh Hồng Thái trong cuốn Phương pháp phát triển lời nói trẻ
em, Nxb Đại học Sư phạm đã nói rất cụ thể về các phương pháp phát triển vốn
từ cho trẻ.
b) Phương pháp trực quan
Phương pháp trực quan được sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai nhất của
Xôcrat và Khổng Tử để con người nhận thức được thế giới. Bởi lẽ theo họ thế
giới hoà tan trong ta và con người có thể nhận thức được chính bản thân họ.
Mối quan tâm của Khổng Tử là tri thức kinh nghiệm không có sẵn trong mỗi

con người, nó được hình thành trong mỗi con người, nó được hình thành thông
qua học tập. Ông khẳng định Tính người ta vốn gần nhau, Khổng Tử rất coi
trọng nhận thức cảm tính, con người nhận thức được thế giới phải dựa vào kết
quả quan sát các sự vật trực quan. Từ những điều nghe thấy, nhìn thấy hai
ông đã rút ra được nội dung dạy học. Từ đó Phương pháp trực quan gắn liền
với dạy học.
Đầu thế kỉ XVII, nhà giáo dục nổi tiếng người Tiệp Khắc có tên là
Kômenski đã gây dựng nhà trường, coi trọng trường học. Ông đã đưa ra
nguyên tắc dạy học, lý luận dạy học và phương pháp dạy học của quá trình
nhận thức. ý nghĩa cơ bản và hợp lý của nguyên tắc này được coi là ở chỗ nó
độc lập với việc nó truyền thụ bằng lời (mà người ta vẫn gọi là dạy chay) một
cách giáo điều nguyên tắc này giúp học sinh bằng kinh nghiệm của bản thân
nhìn thấy được tri thức cụ thể, làm nền tảng cho tư duy.
Nguyên tắc này cho rằng ở giai đoạn thấp, trẻ mầm non tư duy cụ thể.
Tính minh hoạ ấy buộc giáo viên phải minh hoạ những khả năng gọi là trừu

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

tượng bằng những sự vật có thật trong cuộc sống, bằng những tranh ảnh, mô
hình, bằng cách mô tả rạch ròi chi tiết để gợi lại cho học sinh nhớ lại
những cái đã học hoặc tưởng tượng những cái chưa hề thấy. Về sau, do quá
trình học tập mà trình độ tư duy được nâng cao dần thì mức độ dùng những đồ
dùng trực quan càng ít vật thật, càng phát triển về lời nói, và nhiều lời mô tả

đến mức có thể xoá bỏ hoàn toàn tính trực quan và chỉ viện đến tư duy thuần
tuý. Do đó, dạy học ngày càng chú ý đến người học, tạo cơ hội cho người học
tiếp thu kiến thức cho nên phương pháp trực quan càng được ít quan tâm hơn.
Trước đây, đồ dùng trực quan dùng để quan sát bề ngoài, bước sang thế
kỉ XXI, quan niệm về phương pháp trực quan có thay đổi, trực quan để chứa
đựng tri thức bên ngoài trong khi quan niệm dạy học, người dạy, quá trình dạy
học đều thay đổi, cách thức sử dụng khai thác đồ dùng trực quan đáp ứng sự
tiến bộ của thế kỉ XXI, buộc phải tìm hiểu về phương pháp trực quan.
Ngoài những nghiên cứu của các nhà giáo dục học nước ngoài về phương
pháp trực quan thì trong cuốn Hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học môn Tiếng
Việt lớp Một, Nxb Giáo dục 1993, tác giả Đàm Hồng Quỳnh đã nêu lên cuộc
sống khoa học và thực tiễn trong sử dụng và tự làm thiết bị dạy học, tạo ra khả
năng tối ưu trong việc trình bày vấn đề một cách sâu sắc.
Như vậy, rất nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp trực quan và
phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về phương
pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé chưa sâu.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề chúng tôi mạnh dạn chọn và tìm
hiểu đề tài : Phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu
giáo bé. Chúng tôi có thể khẳng định đây là một đề tài hết sức mới mẻ và có
khả năng khơi nguồn cho những nghiên cứu mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Khoa GDTH

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích nghiên cứu
Tìm ra cách thức sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát triển vốn từ cho
trẻ một cách hiệu quả nhất.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận này chúng tôi đi giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp trực quan trong việc phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.
- Hướng dẫn sử dụng một số đồ dùng trực quan trong việc phát triển vốn
từ cho trẻ mẫu giáo bé.
- Thể nghiệm một số giáo án.
5. Giả thiết nghiên cứu
Nghiên cứu thành công khóa luận này sẽ góp phần giúp cho các giáo viên
mầm non biết sử dụng hợp lý đồ dùng trực quan đạt hiệu quả cao góp phần
phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận này sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thống kê
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 chương
Chương 1. Cơ sở lí luận của Phương pháp trực quan trong việc phát triển
vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.
Chương 2. Hướng dẫn sử dụng một số đồ dùng trực quan trong việc phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé.
Chương 3. Thể nghiệm một số giáo án


Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH
Nội dung

Chương 1. Cơ sở lý luận trong việc phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo bé

1.1. Các khái niệm
1.1.1. Phương pháp trực quan
Theo từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2004 Trực quan là những vật
dụng cụ thể hay ngôn ngữ cử chỉ làm cho học sinh có được những hình ảnh cụ
thể về những điều được học[13;1036].
Trong trực quan có phương tiện trực quan, đồ dùng dạy học và thiết bị
dạy học
Phương tiện trực quan là những đồ dùng trong dạy học để cho học sinh
quan sát tiếp thu bài học đạt mục đích dạy học [3; 10].
Đồ dùng dạy học được hiểu là những dụng cụ trực quan để giáo viên và
học sinh thực hiện trong quá trình dạy học hay những phương tiện và đồ dùng
phi kỹ thuật [3; 10]
Quan niệm về đồ dùng trực quan trước đây là nói đến các đồ dùng quen
thuộc như tranh ảnh, vật thật, mô hình Ngày nay, ngoài những đồ dùng
quen thuộc còn có thêm những đồ dùng trực quan mang tính chất hiện đại
như: máy chiếu, máy vi tính, đĩa mềm Người ta dùng cụm từ trực quan là
tên gọi chung chung trong đó bao gồm các đồ dùng trực quan, thiết bị dạy

học, phương tiện trực quan.
Quá trình dạy học gồm hoạt động học và hoạt động dạy, cũng như bất kỳ
quá trình sản xuất nào cũng cần những phương tiện nhất định. Trong giáo dục
lại có nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Tuy nhiên, trong đề tài này
chúng tôi đi nghiên cứu phương pháp trực quan nói chung, trong đó đi sâu vào

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

nghiên cứu việc sử dụng các đồ dùng theo quan điểm hiên đại. Từ đó đưa ra
quan điểm sau:
Trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự vật
bằng cách giải quyết mà là hành động tác động lên sự vật làm biến đổi các dấu
hiệu bề ngoài của chúng, làm cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có tính
quy luật của chúng được bộc lộ, được phơi bày một cách cảm tính mà nếu
không có những tác động đó thì chúng mãi bí ẩn đối với con người.
Quan điểm về trực quan như vậy có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động dạy
học. Nó là cơ sở để xác định rõ hơn về bản chất và vai trò trực quan trong dạy
học. Từ đó, phương pháp dạy học trực quan cần được hiểu lại:
Phương pháp dạy học trực quan theo đúng nghĩa của nó không phải là
giáo viên giới thiệu trình bày các phương tiện trực quan nhằm cung cấp cho
người học những hình ảnh cảm tính về sự vật. Dạy học trực quan là dạy học
phải bắt đầu từ việc hướng dẫn người học hành động cảm tính đối với đối
tượng học.

1.1.2. Khái niệm từ
Trong cuốn Cơ sở tiếng Việt, Hữu Đạt đã đưa ra định nghĩa về từ như sau:
Từ chính là hệ thống vốn từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác, từ vựng là tập
hợp tất cả các từ ngữ cố định trong một ngôn ngữ theo một hệ thống nhất định
[1; 85].
Từ tiếng Việt gồm một số âm tiết cố định bất biến mang theo những đặc
điểm ngữ pháp nhất định, ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định lớn nhất trong
hệ thống ngôn ngữ và nhỏ nhất để tạo thành câu.
1.1.3. Khái niệm các loại đồ dùng trực quan nhằm phát triển vốn từ cho
trẻ mẫu giáo bé
Tranh là những tác phẩm hội hoạ phản ánh hình thức đường nét, hình
mảng, hình vẽ.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

Mô hình là những hình dạng có thể thu nhỏ hoặc phóng to nhằm mô
phỏng hình dạng, cấu tạo, hoạt động của vật gốc để nhằm nghiên cứu, học tập.
Vật mẫu là những vật có sẵn trong tự nhiên, trong đời sống xã hội được
dùng nguyên dạng (con cá, quả cam) hoặc đã sử lý (mẫu ngâm, mẫu nhồi ,
mẫu ép khô).
Băng ghi âm là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại âm thanh (lời nói,
âm nhạc, tiếng động) và phát lại nội dung đó qua máy ghi âm.
Quan sát là dạy trẻ sử dụng những những giác quan của mình để tích luỹ

dần những kinh nghiệm, những hình ảnh, những biểu tượng và kỹ xảo ngôn ngữ.
Tham quan là con đường đưa trẻ đến gần vật thể, hiện tượng.
Đĩa mềm vi tính là loại đĩa dùng để hiện thị các thông tin bằng kênh chữ,
kênh hình tĩnh, kênh hình động và kênh âm thanh có kết luận thông tin chọn
lọc, phong phú và đa dạng.
Để giúp trẻ phát triển vốn từ bằng phương pháp trực quan, chúng ta
không chỉ tìm hiểu về các khái niệm về phương pháp trực quan, đồ dùng trực
quan, khái niệm về từ mà còn phải tìm hiểu về vị trí, vai trò của đồ dùng trực quan.
1.1.4. Vị trí, vai trò của đồ dùng trực quan trong việc phát triển vốn
từ cho trẻ mẫu giáo bé
Đồ dùng trực quan là công cụ của giáo viên và học sinh. Chúng là những
yếu tố không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Chúng có tác dụng tích
cực và có tính động lực với quá trình lao động của cô và trẻ.
Với tư cách là công cụ lao động của giáo viên và học sinh, đồ dùng trực
quan không những đóng vai trò minh hoạ cho lời giảng của giáo viên mà còn
cung cấp nội dung thông tin học tập, tạo ra những kỹ năng để giáo viên trình
bày bài học một cách sâu sắc, hình thành ở học sinh những phương pháp học
tập tích cực và chủ động.
Quá trình dạy học ở trường mầm non nhất đối đối với trẻ mẫu giáo bé,
trực quan rất quan trọng. Bởi lúc này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH


động, các bé thích khám phá các sự vật hiện tượng bằng các giác quan. Nếu
chỉ nghe cô giáo giải thích bằng lời thì trẻ sẽ nhàm chán và không hiểu bài
nhưng khi cô sử dụng các đồ dùng trực quan trong giờ học hợp lý sẽ giúp trẻ
nhận biết chính xác các đồ vật, sự vật, hiện tượng và còn biết cả chức năng
công dụng của chúng. Ngoài ra, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học
còn giúp trẻ tiếp thu bài học một cách nhanh chóng, trẻ tích cực hoạt động
trong các hoạt động. Thông qua các hoạt động vốn từ của trẻ được củng cố và
mở rộng. Nhìn chung phương pháp trực quan được sử dụng nhiều trong giờ
học của trẻ mẫu giáo bé. Đó là trực quan nghe, trực quan nhìn, trực quan nghe
nhìn. Thông qua đó cô giáo sửa lỗi và mở rộng vốn từ cho trẻ.
VD: Để dạy trẻ phát âm chuẩn chữ l và n, nếu cô giáo chỉ cho trẻ phát âm
nhiều lần chữ l và n thì trẻ sẽ nhàm chán và không muốn học. Nhưng sau khi
cho trẻ phát âm nhiều lần chữ l và n theo cô, theo tập thể lớp và theo tổ, cô
giáo treo lên bảng những bức tranh hoặc đĩa mềm vi tính hình ảnh : quả na,
cây lúa, cái liềm, bác nông dân, cái nồi và yêu cầu trẻ đọc tên các hình ảnh
trong tranh (hoặc máy vi tính) thì trẻ thích nói và phát âm tốt. Bên cạnh đó
nhờ vào việc sử dụng đồ dùng trực quan trọng việc luyện đọc cho trẻ cô sẽ dễ
phát hiện ra những trẻ đọc kém, phát âm sai. Từ đó, cô đưa ra các biện pháp
khắc phục lỗi phát âm của trẻ.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học còn có tác dụng hợp lý hoá quá
trình giảng dạy của giáo viên. Bởi vì nhiều đồ dùng dạy học đã được bản thân
nó thể hiện chẳng hạn như: việc vẽ các con vật có sẵn Chính vì vậy, sử dụng
đồ dùng trực quan giáo viên phải giảm nhẹ việc trình bày, giảng giải, mà tập
trung vào quá trình hướng dẫn hỗ trợ quá trình hoạt động của trẻ.
Đối với trẻ nhỏ được quan sát tranh ảnh, đĩa mềm vi tính sẽ giúp trẻ
phát triển tai nghe, phát triển lời nói, trẻ không chỉ phát âm đúng mà còn diễn
đạt tốt ý nghĩ của mình.

Nguyễn Thị Hoa


K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

1.1.5. Cơ sở tâm lý
a) Đặc điểm hoạt động vui chơi
Hoạt động vui chơi của trẻ chưa đạt được ở hình thái chính thức mà mới ở
dạng sơ khai.
Hoạt động với đồ vật vẫn tiếp tục xuất hiện và bắt đầu xuất hiện một số
hoạt động mới, đó là hoạt động vui chơi. Đây là một bước biến đổi mới trong
hoạt động của trẻ từ chơi một mình đến chơi cạnh nhau và chơi cùng nhau. Trẻ
lên ba xuất hiện mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là tính độc lập mong muốn
được làm công việc như người lớn và một bên là thái độ, khả năng của trẻ còn
non yếu chưa thể làm được công việc như người lớn. Để giải quyết mâu thuẫn
này buộc trẻ phải tìm đến một hoạt động mới, đó là hoạt động vui chơi. Nghĩa
là trẻ không làm thật được như người lớn, nhưng có thể giả vờ trong trò chơi.
Do đó, trò chơi đóng vai theo chủ đề đã xuất hiện. Rõ ràng trò chơi đóng vai
theo chủ đề xuất hiện chính là để thoả mãn nhu cầu của trẻ muốn được sống
và làm việc như người lớn.
Hoạt động vui chơi vừa xuất hiện còn non yếu nhưng đây là hoạt động
chủ đạo, hoạt động này tạo ra cấu tạo tâm lý mới của trẻ. Đó chính là nhân
cách, tuy nhiên cấu trúc của nhân cách còn sơ khai, nhưng nó quy định xu
hướng phát triển của trẻ sau này.
Do hoạt động vui chơi mới xuất hiện nên chủ đề và nội dung chơi còn
nghèo nàn, đơn giản, chủ yếu là chủ đề gia đình, trường mầm non, bệnh viện
và do trẻ tái tạo những hành động đối với người lớn, với đồ vật. Bên cạnh đó
trẻ chưa biết nhập vai và hoạt động chơi chưa theo một hướng nhất định.

b) Sự hình thành ý thức về bản thân
Độ tuổi mẫu giáo bé là điểm khởi đầu của sự hình thành ý thức bản ngã,
nên trong ý thức ấy còn mang ý thức tự kỷ (lấy mình làm trung tâm) J. Piaget
cho rằng đặc điểm tiêu biểu nhất trong tâm lý trẻ dưới 3 tuổi trở xuống là tính
tự kỷ, kỷ là bản thân đối lập với tha tức là cái khác mình (vật khác, người

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

khác). Người lớn bình thường biết phân biệt rõ ràng giữa một bên là bản thân
(bao gồm cảm giác, suy nghĩ, tình cảm, nhu cầu của mình tức là cái tâm lý
bên trong) một bên là đối tượng đứng trước hay xung quanh mình (bao gồm
các vật thể và những người khác). Bản thân là chủ đề, đối tượng nằm trong
khách thể. Chủ thể và khách thể ăn khớp hay không ăn khớp với nhau. Nhưng
người lớn thường biết nhìn nhận thế giới khách quan để hành động cho hợp lý.
Nói theo ngôn ngữ của Freud, người lớn đã biết hành động theo nguyên tắc
thực tế và trong nhận thức đã có ta đối với vật đối với người khác.
Trẻ chưa phân biệt được thật rõ ràng đâu là ý muốn, ý đồ chủ quan của
mình và đâu là tính chất khách quan của sự vật. Cũng vì vậy thường xảy ra
tình trạng trẻ thường đòi làm những việc rất vô lý, chẳng hạn một em bé đòi
đập quả trứng ra để lấy con gà trong đấy, vì em nghe kể rằng gà nở từ trong
trứng ra. Những trường hợp trên có thể chưa nhận ra quy luật khách quan của
sự vật nên đem ý muốn chủ quan của mình gắn cho sự vật xung quanh.
c) Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo bé

Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật
hiện tượng đã có trong đầu, có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành
động sang kiểu tư duy trực quan - hình tượng. Sự xuất hiện tư duy trực quan
hình tượng đây là cấu tạo tâm lý mới ở lứa tuổi này có nghĩa là trẻ giải quyết
các nhiệm vụ bắt đầu từ các biểu tượng đã có ở trong đầu.
ở trẻ mẫu giáo bé hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, trong hoạt
động này trẻ không có vật thật mà phải dùng vật thay thế. Vật thay thế trở
thành đối tượng của tư duy. Trong khi hoạt động với vật thay thế trẻ suy nghĩ
về đồ vật thật, từ đó hình thành ở trẻ các vật thay thế và đồ vật thực.
Tư duy của trẻ còn bị xúc cảm chi phối mạnh, trẻ thường suy nghĩ về
những cái mà trẻ thích thường bị lôi cuốn vào ý thích của trẻ. Từ đó trẻ chưa
nhận ra được tính khách quan của đối tượng.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

Trẻ chưa nhận ra những biểu tượng ý muốn chủ quan trong đầu mình chỉ
là hình ảnh về đối tượng bên ngoài, nghĩa là đồng nhất cái tinh thần và cái vật
chất. Nghĩa là hình ảnh trong đầu là sự vật.
Trẻ bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân của sự vật, hiện tượng, tuy nhiên chưa
nhận thức được tính khách quan của đối tượng trẻ cho rằng tất cả các nguyên
nhân là do ý muốn của người nào đó.
ở lứa tuổi này chủ yếu trẻ vẫn thể hiện hành động với đồ vật và những
xúc cảm chi phối mạnh làm sai lệch đối tượng nhận thức.

Ngoài ra, tư duy của trẻ còn bị cái tổng thể chi phối, tư duy phân tích
chưa hình thành.
d) Đặc điểm động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo bé
Đầu tuổi mẫu giáo bé hành động của trẻ còn mang tính bột phát. Nghĩa là
những hành động này do nguyên nhân trực tiếp như theo ý muốn chủ quan của
mình hoặc do tình huống ở thời điểm đó thúc giục và không ý thức được
nguyên cớ nào khiến hành động như vậy. Dần dần trong hành vi của trẻ có
một sự biến đổi quan trọng. Đó là sự nảy sinh động cơ. Khi đó hành động của
trẻ thường bị kích thích bởi một số động cơ:
Những ý thích của trẻ muốn được như người lớn, nguyện vọng này sẽ
phát triển trong hoạt động vui chơi.
Những động cơ gắn liền với hoạt động vui chơi, nếu trẻ được làm công
việc trong hoạt động vui chơi, đặc biệt là hoạt động đóng vai theo chủ đề, trẻ
say sưa hoạt động và hoạt động hết mình. Trẻ mong muốn được làm những
việc tốt để được người lớn khen.
1.1.6. Cơ sở sinh lý học
Trẻ mẫu giáo bé có những đặc điểm sinh lý như sau
Biến đổi chủ yếu về số lượng hơn là biến đổi về chất lượng. Trẻ chậm lớn
hơn so với thời kỳ bú mẹ. Cường độ của quá trình chuyển hoá năng lượng yếu
đi, chuyển hoá cơ bản giảm hơn.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH


Các chức năng chủ yếu của cơ thể dần dần hoàn thiện. Đặc biệt là chức
năng vận động phối hợp động tác. Cơ lực phát triển nhanh. Vì vậy, trẻ làm
được những động tác khéo léo hơn, gọn gàng hơn, có thể làm được những
công việc tương đối khó, phức tạp hơn và một số công việc tự phục vụ như tự
ăn, tự mặc quần áo, tự đi tất, tự tắm rửa lấy
Hệ thần kinh tương đối phát triển, hệ thần kinh trung ương và ngoại biên
đã biến hoá, chức năng phân tích, tổng hợp của vỏ não đã hoàn thiện, số lương
các phản xạ có điều kiện ngày càng nhiều, tốc độ hình thành phản xạ có điều
kiện nhanh, trí tuệ phát triển nhanh. Do đó, trẻ có thể nói được những câu dài,
có biểu hiện ham học, có những ấn tượng đối với những người xung quanh.
Dạy học trực quan nhằm phát triển vốn từ cho trẻ rất phù hợp với đặc
điểm tâm, sinh lý của trẻ mẫu giáo bé và phương pháp dạy học tích cực hiện
nay. Do đó giáo viên cần phải quan tâm đúng mức đến phương pháp trực quan
và sử dụng một cách hợp lý để vốn từ của trẻ được mở rộng. Đồng thời để
nâng cao chất lượng của giờ học.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH
Chương 2

Hướng dẫn sử dụng một số đồ dùng trực quan trong
việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé

2.1.1. Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan

Sau khi nhận thức được vai trò của đồ dùng trực quan trong việc phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé, chúng ta thấy vấn đề trực quan là rất quan
trọng. Nhưng nếu không có cách sử dụng thì đồ dùng trực quan sẽ không khai
thác hiệu quả của nó. Chính vì vậy, chúng tôi nghiên cứu và đưa ra các cách
để sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả.
2.1.1.1. Sử dụng đồ dùng trực quan phải đáp ứng yêu cầu cần và đủ
Cần có nghĩa là đáp ứng được sự cần thiết của việc dạy nội kiến thức.
Nếu thiếu đồ dùng trực trong các giờ học thì hiệu quả của giờ học không cao
và không đạt yêu cầu như mong muốn.
VD: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ CTLQVMTXQ

Bài: Tìm hiểu quả táo - quả cam
Để giờ học đạt hiệu quả cao đòi hỏi cô giáo phải chuẩn bị đồ dùng trực
quan cụ thể là quả táo, quả cam thật hoặc trên tranh ảnh, trên đĩa Bởi nếu
không có đồ dùng trực quan cho trẻ quan sát thì trẻ sẽ không biết và nói hết
được đặc điểm và lợi ích của quả táo và quả cam. Có đồ dùng trực quan kết
hợp với câu hỏi gợi mở của cô, giúp trẻ hiểu được đặc điểm, lợi ích công dụng,
giống và khác nhau của quả táo, quả cam. Ngoài ra, đồ dùng trực quan góp
phần phát triển óc quan sát, khả năng ghi nhớ có chủ định Từ đó giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ và mở rộng vốn từ.
Đủ có nghĩa là số lượng đồ dùng trực quan cần thiết để hình thành kiến
thức. Do vậy, giáo viên cần phải xác định giờ học của mình cần bao nhiêu đồ
dùng trực quan là đủ. Căn cứ vào từng nội dung của từng bài cụ thể ở mỗi môn

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Khoa GDTH

học và căn cứ vào trình độ tâm lý của trẻ. Ngoài ra, phải căn cứ vào vùng miền
khác nhau và các điều kiện cho phép để lựa chọn các loại hình phù hợp. Có
như vậy đồ dùng trực quan mới phát huy hết tác dụng.
Trẻ mẫu giáo bé do tâm lý thích tìm tòi và khám phá, tìm tòi các sự vật,
hiện tượng tự nhiên. Do đó, khi sử dụng các đồ dùng trực quan trong các giờ
học đã giúp cho trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động và qua đó trẻ hiểu bài
nhanh, đồng thời vốn từ của trẻ được mở rộng và phát triển. Chính vì vậy, cô
giáo nên sử dụng các đồ dùng trực quan trong giờ học của trẻ mẫu giáo bé và
lấy đồ dùng trực làm phương tiện để đưa ra câu hỏi đàm thoại nhằm kích thích
phát âm và diễn đạt của trẻ.
VD: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ kể chuyện

Bài: Chú đỗ con
Để giờ học đạt được mục đích và yêu cầu của bài đòi hỏi giáo viên phải
chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan. Cụ thể là cô phải chuẩn bị đầy đủ số tranh
hoặc hình ảnh phù hợp với nội dung của câu chuyện.
Tranh 1: Đỗ con nằm dưới đất
Tranh 2: Chị gió gọi đỗ con dậy
Tranh 3: Cô mưa gọi đỗ con dậy
Tranh 4: Bác mặt trời gọi đỗ con dậy
Tranh 5: Đỗ con vươn mình và chồi lên khỏi mặt đất
Nếu thiếu một trong những bức tranh này thì trước hết cô giáo không tự
tin khi giảng bài trước trẻ. Sau đó khi trẻ được nghe kể theo tranh hoặc qua
hình ảnh trẻ không được tri giác hết những hình ảnh gắn liền với nội dung câu
chuyện trẻ sẽ dễ nhàm chán khi nghe cô kể, đồng thời trẻ không hứng thú
tham gia trả lới các câu hỏi của cô.
Việc trình bày bất kỳ một đồ dùng dạy học nào bao giờ cũng kèm theo lời

nói của giáo viên. Chính lời nói của giáo viên định hướng trẻ quan sát vào cái
cần thiết, cái bản chất của đối tượng. Lời nói trực tiếp của giáo viên và đồ

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

dùng trực quan trong quá trình dạy học có tác dụng bổ trợ cho nhau rất hữu
hiệu. Sự phối hợp này thay đổi phụ thuộc vào mục đích thực hiện, và nội dung
bài và chất lượng của đồ dùng trực quan. Chính vì vậy, trước khi lên tiết dạy
giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học đặc biệt là đồ dùng trực quan
để trẻ quan sát, từ đó cô đưa ra những câu hỏi gợi mở để giúp trẻ trả lời. Ban
đầu là những câu hỏi đơn giản rồi đến những câu hỏi phức tạp để giúp trẻ hiều
bài và qua đó ngôn ngữ của trẻ được mở rộng và vốn từ của trẻ được mở rộng.
VD: Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ CTLQVMTXQ

Bài: Tìm hiểu con chó, con gà trống, con mèo
Đồ dùng trực quan là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được để góp
phần nâng cao hiệu quả của giờ học. Trong bài này cô giáo cần chuẩn bị đầy
đủ đồ dùng trực quan cụ thể: tranh vẽ con mèo, con gà trống, con chó hoặc
hình ảnh ba con vật này trên mô hình, hay trên đĩa mềm Nếu thiếu một
trong những bức tranh hay những hình ảnh về các con vật này trên đĩa hoặc
mô hình thì trẻ sẽ không hứng thú trong giờ học, đồng thời trẻ không hiểu
đặc điểm, lợi ích của các con vật.
Giả sử như khi chuẩn bị về đồ dùng trực quan cô quên không chuẩn bị

tranh, ảnh về con mèo thì khi cô đưa ra câu hỏi về đặc điểm, lợi ích con mèo
trẻ sẽ không thể tưởng tượng được ngay đến con mèo để trả lời những câu hỏi như:
Con mèo có những bộ phận nào?
Mèo thích ăn gì nhất?
Con mèo sống ở đâu?
Đối với những trường cơ sở vật chất còn lạc hậu với bài này cô chỉ cần
chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ về con mèo, con chó và con gà trống để trẻ quan sát
và tìm hiểu về ba con vật này. Nhưng đối với trường cơ sở vật chất tiến bộ
trong bài này cô có thể sử dụng băng ghi hình, mô hình, đĩa mềm có đầy đủ
hình ảnh ba con vật để trẻ tri giác được toàn bộ các con vật.

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

Như vậy, việc chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan trong giờ học là công
việc cần thiết mà mỗi giáo viên cần phải làm. Do vậy, trước khi lên tiết dạy cô
giáo cần xây dựng kế hoạch cụ thể, với bài này cần những đồ dùng trực quan
nào, cần bao nhiêu và sử dụng trong hoạt động nào.
2.2. Nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan
Để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong việc phát
triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo bé cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
2.2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan đúng mục đích
Sử dụng đồ dùng trực quan phải đảm bảo mục đích đã định của bài học.
Thông thường khi đồ dùng trực quan đã xuất hiện ổn định, giáo viên cần khai

thác triệt để hết khía cạnh và tận dụng hết chức năng của nó để hướng dẫn,
định hướng trẻ quan sát, nghiên cứu, khám phá đến mục đích truyền đạt.
VD: Trong giờ học Tạo hình

Bài: Vẽ con Gà trống
Để giờ học này đạt hiệu quả cao thì cô giáo phải chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ
hoặc đĩa mềm vi tính có hình ảnh con gà trống để trẻ quan sát. Muốn trẻ
hiểu được đặc điểm, lợi ích và có những bức trah đẹp về con gà trống đòi hỏi
cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi gợi mở trong lúc trẻ quan sát tranh:
Con Gà trống có những bộ phận nào?
Đầu con Gà trống giống hình gi?
Trên đầu nó có những bộ phận gì?
Thân con Gà trống giống hình gì?
Những bộ phận nằm trên thân con Gà trống?
Dưới thân con Gà trống có gì?
Nếu cô giáo chỉ sử dụng đồ dùng trực quan trong việc gây hứng thú mà
không cho trẻ quan sát tranh thì trẻ sẽ không nhớ được những đặc điểm của

Nguyễn Thị Hoa

K31 GDMN


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Khoa GDTH

con gà, trẻ không thích trả lời câu hỏi và giờ học sẽ không đạt được kết quả
như mong muốn.
2.2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan đúng lúc

Đây là nguyên tắc đòi hỏi sử dụng đồ dùng trực quan đúng thời điểm cần
thiết nhất để giáo viên khai thác, truyền thụ kiến thức một cách hợp lý, giúp
trẻ quan sát thuận tiện, khi sử dụng xong đồ dùng trực quan cô nên cất ngay.
Tránh đưa đồ dùng trực quan ra hàng loạt, cùng một lúc làm mất sự chú ý của trẻ.
VD: Khi dạy môn Toán

Bài: Hình vuông, hình tròn
Đối với bài dạy này để trẻ nhận biết, phân biệt được hình vuông và hình
tròn thì cô cần chuẩn bị đủ những hình vuông và hình tròn cho cô và trẻ. Sau
đó khi cô giới thiệu về hình nào, cô giơ hình đó lên cho trẻ quan sát và kết hợp
với câu hỏi đàm thoại:
Trên tay cô có hình gì?
Hình này có màu gì?
Con hãy lấy hình giống cô?
Hình này có đặc điểm gì?
Con thấy những đồ vật nào trong lớp giống hình này?
Sau khi dạy xong về hình tròn cô phải cất hình tròn vào rổ và lấy hình
vuông ra cho trẻ quan sát và đàm thoại; tránh trường hợp lấy nhầm đồ dùng
trực quan.
VD: Sử dụng đồ dùng trực quan trong môn CTLQVTPVH

Bài: Đôi bạn tốt
Trước khi dạy tiết học này cô cần chuẩn bị đầy đủ số tranh; đĩa; băng ghi
hình; rối với nội dung của từng đoạn trong câu chuyện. Cô cần xác định rõ
sẽ sử dụng đồ dùng trực quan trong tiết học này dùng trong lần kể thứ hai hoặc
có thể dùng mặt nạ để đàm thoại cùng trẻ. Tuy nhiên, không được lạm dụng
đồ dùng trực quan ngay từ lần kể thứ nhất. Nếu cô sử dụng đồ dùng trực quan

Nguyễn Thị Hoa


K31 GDMN


×