Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm các văn bản nghê thuật cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.96 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người.”
Giáo viên Việt Nam luôn ghi nhớ lời Bác dạy. Để làm được điều đó đòi
hỏi giáo viên phải luôn trau dồi kiến thưc cho bản thân, tìm tòi, nghiên cứu,
sáng tạo. Là một người giáo viên trong tương lai bản thân tôi luôn mong
muốn thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhà trường giao phó, cố gắng
phấn đấu để có được lòng tin yêu của học sinh và đồng nghiệp. Đó là một quá
trình rèn luyện nghiêm túc, đặc biệt trong thời gian còn ngồi trên ghế nhà
trường, thời gian dành cho việc học tập và nghiên cứu. Khi bắt tay vào
nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp này tôi cũng gặp phải một số khó khăn,
nhưng đáp lại tôi đã học hỏi được rất nhiều kiến thức cơ bản. Đó sẽ là những
cơ sở để tôi hoàn thiện chuyên môn trong quá trình thực nghiệm giảng dạy
sau này.
Hoàn thành được khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Rèn luyện kĩ năng
đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật cho học sinh tiểu học”, tôi đã nhận
được sự cộng tác nhiệt tình của thầy cô giáo và các em học sinh. Tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo của trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, các thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học, các cô giáo và học sinh
trường Tiểu học Liên Minh-Vĩnh Yên-Vĩnh Phúc. Đặc biệt tôi vô cùng cảm ơn
nhà giáo-PGS Đỗ Huy Quang, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi để tôi hoàn
thành khoá luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Nguyễn Thị Lý

1



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khoá luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong khi nghiên cứu, tôi kế thừa những thành quả nghiên cứu của các Nhà
khoa học, nhà nghiên cứu với sự trân trọng và biết ơn.
Những kết quả nêu trong khoá luận chưa được công bố trên bất cứ công
trình nào.
Sinh viên

Nguyễn Thị Lý

2


MỞ ĐẦU
1.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vấn đề đọc nói chung và vấn đề đọc diễn cảm nói riêng rất đáng được
nghiên cứu như một vấn đề lớn của thời đại hiện nay. Thế kỷ 21 là thời đại
của kinh tế tri thức đã hình thành, phát triển mạnh mẽ và đang can thiệp vào
đời sống từng cá nhân, mỗi gia đình, dân tộc, khu vực, và toàn thế giới.
Tri thức là của cải tinh thần nhân loại. Thứ của cải vô giá này lộ thiên
khắp các châu lục trong trường kì lịch sử. Ai muốn đề có thể chiếm lĩnh. Tri
thức là môi trường thực hiện sự dân chủ nhất để con người thể hiện quyền
bình đẳng xã hội. Đó là quyền được đọc (Right to Read – Recht auf
dasLesen). Thực hiện được quyền lợi to lớn này là hành trình nhân đạo hóa
con người với một quan niệm nhân văn cao cả, vì thế ngoài vấn đề kinh tế tri
thức, đọc diễn cảm còn là vấn đề văn hóa đọc – đích đến của văn hóa đọc là

tạo nên người biết đọc tốt, đọc diễn cảm và đọc sáng tạo.
Đọc diễn cảm trở thành một nhu cầu văn hóa, đọc có mục đích, có biện
pháp là một thói quen nâng lên thành hứng thú, cao hơn cả là để hoàn thiện
tâm hồn, tính cách và có hướng hoạt động hiệu quả cho cá nhân và cộng
đồng. Theo tôi nhu cầu văn hóa này phải được bắt đầu từ thế hệ trẻ, những
mầm xanh tương lai của Tổ Quốc, phải được hình thành và phát triển trong
học sinh ở bậc học đầu tiên.
Ngày nay không ai lại cho là đầy đủ với việc học thuần túy hướng vào
kĩ thuật mà là học sáng tạo ở mức độ thường xuyên và đòi hỏi thái độ đọc phù
hợp với khái niệm học. Đọc diễn cảm là một hành động học. Người giáo viên
nếu chỉ chú ý cách mở rộng vốn từ trong các giờ dạy tiếng Việt thì cũng chưa

3


đủ, chưa được xem là dạy đọc thực sự. Việc dạy đọc chỉ được thực hiện khi
nào mạch tinh thần, ý tưởng được thực hiện từ nội dung này đến nội dung
khác để hoàn thiện tư tưởng của văn bản.
Hơn nữa đọc diễn cảm là khả năng liên hệ những gì đang đọc với
những gì đã đọc được, lấy đó làm cơ sở để mở rộng sự hiểu biết. Thậm chí
với văn bản nghệ thuật, đọc diễn cảm còn xác định nghĩa mới cho hình tượng.
Từ đó giúp các em có khả năng cảm thụ văn học, và đó cũng là cơ hội để học
sinh “tự bộc lộ” con người mình. Mức độ hiểu này tương ứng với kĩ năng
“đọc vượt ra ngoài dòng chữ” (Nguyễn Trọng Hoàn).
Mặt khác trong thực tiễn giảng dạy: trong các giờ tập đọc khi các văn
bản đọc là các văn bản nghệ thuật, người dạy chỉ biết hướng dẫn trong SGV
để thao tác theo. Từ đọc văn bản sau đó là trả lời các câu hỏi. Nhưng trong ý
thức của giáo viên không chỉ muốn hướng dẫn học sinh của mình dập khuân
theo sách giáo viên mà còn muốn tìm hiểu, muốn biết con đường tiếp cận văn
bản phải biết được những việc gì để người giáo viên có thể làm chủ được hoạt

động dạy, học sinh làm chủ thể hoạt động học.
Chính vì vậy, cần rèn cho học sinh kĩ năng đọc diễn cảm để nâng cao
hiệu quả trong giảng dạy phân môn Tập đọc, hình thành tình yêu tiếng Việt và
tình yêu văn học nghệ thuật. Nếu có biện pháp tích cực giúp học sinh tiếp cận
với các văn bản nghệ thuật thì việc các em hiểu và cảm nhận được giá trị nghệ
thuật của tác phẩm sẽ dễ dàng hơn. Nói cách khác, nếu cho học sinh tiểu học
đọc văn bản nghệ thuật bằng cách tiếp cận thể loại theo con đường chung là
cách làm khoa học, chắc chắn sẽ đạt được kết quả như mong muốn.
Từ những lí do trên, tôi nhận thấy đi sâu tìm hiểu và đưa ra biện pháp
“Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật cho học sinh
tiểu học” là việc làm quan trọng, có tính thời sự và rất cần thiết cho học sinh
và nhà trường tiểu học.

4


2.

LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Kĩ năng đọc diễn cảm được bắt đầu đề cập từ lớp 4 trong chương trình

môn học. Đọc diễn cảm có thể diễn đạt cách hiểu của mình qua giọng đọc.
Lớp 4, 5 học sinh đã có thể hiểu được nội dung của đoạn văn mình đọc, hiểu
được hàm ý trong câu, giá trị nghệ thuật của văn bản văn học và có sự liên hệ
thực tế đời sống. Những kĩ năng này được rèn cho học sinh trong suốt những
năm học phổ thông.
Theo tác giả Lê Phương Nga trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng
Việt ở tiểu học” (2006) NXB ĐHSP đã cho rằng: Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay, là một yêu cầu đặt ra khi học những văn bản văn chương
hoặc các yếu tố của ngôn ngữ văn chương.

Đọc diễn cảm phản ánh cách hiểu bài văn, bài thơ và việc hiểu là cơ sở
để đọc diễn cảm. Vì vậy, đọc diễn cảm trước hết phải xác định được nội dung,
nghĩa lí của bài đọc, sắc thái tình cảm, cảm xúc, giọng điệu chung của bài.
Trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX có rất nhiều giáo trình nói về
đọc diễn cảm. Các tác giả của các công trình nghiên cứu chia làm hai phái.
Một phái theo khuynh hướng ngữ văn, cho rằng nhiệm vụ chính cảu đọc diễn
cảm là nâng cao trình độ ngôn ngữ văn hóa của học sinh và làm cho các giờ
học tiếng mẹ đẻ trở nên sinh động. Còn phái thứ hai đi theo khuynh hướng
nghệ thuật tâm lí. Họ cho rằng đọc diễn cảm làm nghệ thuật đọc và cho rằng
nhiệm vụ hàng đầu là giáo dục thẩm mĩ.
Tác phẩm thể hiện khuynh hướng nghệ thuật – tâm lí điển hình nhất là
tác phẩm của E.V. Iagovixki “Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục
thẩm mĩ” (Leningrat 963, xuất bản lần thứ hai). G.P.Phia Xốp. Đó là một tác
phẩm nghiên cứu âm thanh và ngữ điệu của ngôn ngữ trong các giờ học tiếng
Nga (Maxcova, 1959).

5


Quyển sách của L. A Gorbusina “Đọc diễn cảm và kể chuyện của các
thầy giáo” (Maxcova, 1965) dành cho thầy giáo cấp I. Tác phẩm đề cập đến:
Kĩ thuật đọc và các bài tập, các quy tắc phát âm chuẩn mực, các thành phần
của ngữ điệu, vấn đề đọc diễn cảm và các hình thức kể chuyện khác nhau.
Trong cuốn “Phương pháp đọc diễn cảm (2007) – Hà Nguyễn Kim
Giang – NXB ĐHSP khẳng định: Đọc diễn cảm hoạt động đọc nói chung nên
nó cũng là hoạt động lao động sáng tạo.
Đọc diễn cảm là một quá trình bao gồm quá trình tiếp nhận văn bản viết
và quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản viết thành văn bản đọc. Đó
là quá trình tái tạo chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản thành
âm thanh, nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm

mĩ và thái độ thẩm mĩ của người đọc.
Việc nghiên cứu phương pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm diễn cảm cho
học sinh tiểu học không còn là vấn đề mới mẻ, nó đã được đề cập một cách
khách quan hay cụ thể trên các bài báo, tạp chí, trong các cuốn sách và các
công trình khoa học. Mỗi ý kiến, quan niệm, công trình nghiên cứu đều đề cập
sâu sắc một khía cạnh nhất định, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu nào đề đến biện pháp: “Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các
văn bản nghệ thuật cho học sinh tiểu học”. Vì vậy, chúng tôi đưa ra đề tài này
nhằm tìm ra các phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản
nghệ thuật cho học sinh tiểu học một cách có hiệu quả hơn.
3.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài tìm ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng và nâng cao khả năng đọc

diễn cảm cho học sinh tiểu học.

6


4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản
nghệ thuật cho học sinh tiểu học.
- Phạm vi: Kĩ năng đọc của học sinh tiểu học.
5. NHIỆM VỤ
5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài
5.2. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ
thuật cho học sinh tiểu học.
5.3. Thực nghiệm
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp chung: quy nạp, diễn dịch
- Phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp thống kê phân loại
+ Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp thực nghiệm.
7. CẤU TRÚC KHÓA LUẬN
Khóa luận gồm ba phần: Mở đầu, nội dung, kết luận. Riêng phần nội
dung của luận văn được tổ chức thành ba chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và quan niệm đọc diễn cảm.
Chương 2: Biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ
thuật cho học sinh tiểu học.
Chương 3: Thực nghiệm

7


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ QUAN NIỆM ĐỌC DIỄN CẢM
1.1. Vị trí, nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học
1.1.1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học
1.1.1.1. Đọc là gì?
Môn Tiếng Việt ở trường Phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể
hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức
chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc
thành tiếng ), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn
vị nghĩa không có âm thanh ( ứng với đọc thầm ).

(M.R.Lơvôp_Cẩm nang dạy học TiếngNga )
1.1.1.2. Ý nghĩa của việc đọc
Đọc là một hoạt động của con người. Đọc không phải chỉ là hành động
nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan sinh
động giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con
người. Vì thế xuất hiện kinh nghiệm đọc và sự biến đổi cách thức và chất
lượng đọc. Đọc còn là hành động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh
thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa của từng người.
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học,
tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và cả những người đương thời phần
lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không
thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại. Biết đọc con người đã nhận khả năng
tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây con người có thể đánh giá cuộc sống, nhận

8


thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng
chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới
bên trong của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con
người không chỉ được thức tỉnh nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở
những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng
như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con người sẽ không có điều
kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành
được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì
biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông
tin. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời.
Vì những lẽ trên, đọc, dạy học có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở
thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước hết trẻ
phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn

ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn khác.
Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng
tự học và học tập cả đời. Nó là khả năng không thể thiếu được của con người
trong thời đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy học sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy
nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có ý
nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng , giáo dục và phát
triển.
1.1.2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học
- Dạy học ở Tiểu đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt
có nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Tính đa
nghĩa của “ đọc,, kéo theo tính đa nghĩa của “ biết đọc,,. Biết đọc được hiểu

9


theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học biết đánh vần “ cờ_o_co,, ngập
ngừng đọc từng tiếng một, thế cũng gọi là biết đọc. Đọc, thâu tóm được tư
tưởng của một cuốn sách trong vài ba trang cũng gọi là biết đọc. Trong một
ngày nắm được tinh thần của hàng chục cuốn sách cũng gọi là biết đọc.
Những năng lực này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước
hình thành cho học sinh năng lực này và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt
viên gạch đầu tiên.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiêm vụ quan trọng nhất của nó
là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “ đọc “: đọc đúng, đọc nhanh (
đọc lưu loát, trôi chảy ), đọc có ý thức ( thông hiểu được nội dung những điều
mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu ) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được

hình thành từ hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng
này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền
đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại,
nếu không hiểu điều mình đang học thì không thể đọc nhanh và diễn cảm
được. Nhiều khi khó nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào,
nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc đúng. Vì vậy
trong dạy học, không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và
thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách
được tôn kính trong trường học, đó là một trong những điều kiện để trường
học thực sự trở thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc dạy
đọc, phải làm cho học sinh thích thú đọc và thấy được khả năng đọc là có ích
cho các em trong cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.

10


Vì việc đọc không thể tách rờie những nội dung được đọc nên bên cạnh
những nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, tập đọc còn có
nhiệm vụ:
- Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho
học sinh.
- Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
- Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
1.2. Quan niệm về đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật
1.2.1.Đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một kĩ năng được đặt trong phân môn Tập đọc được
đề cập đến từ bậc Tiểu học-THPT ( Lớp 4 – 12 ). Ở Tiểu học thì đọc diễn cảm

được đặt ra đối với học sinh lớp 4,5 khi học sinh đã có thể hiểu được nội dung
của đoạn văn mà mình học, hiểu được hàm ý trong câu giá trị nghệ thuật của
văn bản văn học và có sự liên hệ với thực tế đời sống. Vì đọc diễn cảm nằm
trong hoạt động đọc nói chung nên nó cũng là lao động và sáng tạo.
Đọc diễn cảm là một quá trình, bao gồm quá trình tiếp nhận văn bản và
quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản viết thành văn bản đọc. Đó là
quá trình tái tạo chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản thành âm
thanh, nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ
và thái độ thẩm mĩ của người đọc. Ngoài ra, đọc diễn cảm còn bao gồm cả
quá trình ngôn ngữ và văn học, quá trình tâm lí và sư phạm, quá trình thông
tin và giao tiếp.ryrrrrrr
Theo tác giả Lê Phương Nga_Đặng Kim Nga đã nêu ra trong cuốn
Phương pháp dạy Tiếng Việt ở Tiểu học cho rằng: “ Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc
các yếu tố ngôn ngữ văn chương ’’.

11


Còn theo tác giả Hà Nguyễn Kim Giang nêu ra trong cuốn Phương
pháp đọc diễn cảm, cho rằng: “ Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm
xúc thẩm mĩ và đời sống tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động
riêng của người đọc với tác phẩm ’’.
Từ những đặc điểm trên, đọc diễn cảm đã đảm bảo tính chân thực và
màu sắc của cá nhân trong cảm thụ, thể hiện được cái thần và cái hồn của bài
văn. Đọc diễn cảm đã tận dụng được các hình thức biểu hiện của người đọc,
thống nhất được nội tâm và ngoại hình, từ đó chinh phục được người nghe.
Vì vậy có thể hiểu ngắn gọn về đọc diễn cảm như sau:
Đọc diễn cảm là cách sử dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm

trong tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm trạng, cảm xúc của người đọc
đến với người nghe.
1.2.2. Đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật.
Đọc là một hoạt động của con người. Đọc và đọc diễn cảm không phải
chỉ là hành động nhận thức nội dụng ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động
trực quan sinh động giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát nếm trải của
con người. Vì thế xuất hiện kinh nghiệm đọc diễn cảm và sự biến đổi cách
thức và chất lượng đọc. Đọc diễn cảm còn là hành động mang tính chất tâm lí,
một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ cảm nhận của từng người.
Đọc các văn bản nghệ thuật – hay các tác phẩm văn chương theo quan
niệm của chúng tôi là giải quyết vấn đề tương quan của các cấu trúc tồn tại
trong tác phẩm. Trước hết là cấu trúc ngôn ngữ, thứ đến là cấu trúc hình
tượng thẩm mĩ, sau nữa là cấu trúc ý nghĩa. Trong cấu trúc ngôn ngữ, người
đọc tìm hiểu để nắm bắt các loại thông tin, thông tin hiện thực đời sống và
thông tin thẩm mĩ. Thông tin đời sống gợi ra sự đa dạng trong kinh nghiệm

12


sống của từng độc giả. Thông tin thẩm mĩ trong cấu trúc ngôn ngữ bao gồm
những từ đắt, những lời hay, những đoạn hấp dẫn vừa trong sáng vừa mới mẻ.
Có thể nói từ cấu trúc ngôn ngữ đến cấu trúc hình tượng thẩm mĩ là quá
trình chuyển biến hóa sinh từ nội dung hiện thực đến hình thức nghệ thuật, từ
cuộc sống thực đến sự sáng tạo ra một đời sống ảo để người đọc thể nghiệm
những giá trị nhân sinh.
Vì thế ngay từ cấu trúc cụ thể trong ngôn ngữ tư tưởng và định hướng
tư tưởng sáng tạo đã có mặt, góp phần quyết định giá trị đích thực của tác
phẩm nghệ thuật.
Sự lĩnh hội tác phẩm văn chương thông qua hoạt động đọc bao giờ
cũng xen lẫn vào đó thiên hướng chủ quan, không thể loại trừ “ cái tôi ”của

người đọc ra ngoài quá trình tiếp nhận. Cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn
chương là cấu trúc mở, “ là ’’ kết cấu vẫy gọi, sự tham gia sáng tạo của mọi
người. Vì vậy văn chương là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, là một quá
trình phát hiện và khám phá nội dung ý nghĩa xã hội, con người, thời đại.
1.2.3. Bản chất của việc đọc diễn cảm
Việc đọc nói chung và đọc diễn cảm là biến hình thức chữ viết của văn
bản thành hình thức âm thanh của tiếng nói, là làm cho người nghe hiểu được
ý của người viết. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra định nghĩa sau đây về đọc
diễn cảm. “Đọc tức là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức âm
thanh của ngôn ngữ để làm cho người nghe hiểu được điều mà tác giả nói qua
chữ viết”.
Chữ viết là một phương tiện ghi âm, dù hoàn mĩ đến đâu cũng chỉ ghi âm
một cách khái quát. Khi đọc người đọc phải lệ thuộc vào văn bản, nhưng sự ệ
thuộc này cũng không hạn chế được sự sáng tạo của người đọc. Một câu thơ,
câu văn dù giữ nguyên số câu chữ, dấu chấm câu cũng có năm, bảy cách đọc.
Về vấn đề này nhà văn A. P. Tsekhop trong truyện ngắn Những cảm xúc

13


mãnh liệt đã từng nói: “Tôi dám chắc rằng một từ nào cũng có đến một nghìn
nghĩa và sắc thái khi xem xét từ góc độ nó được đọc lên như thế nào”. Đọc là
sự phân tích, nắm bắt, đoán nhận kí hiệu.
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó không lặp lại
người khác, không chỉ truyền đạt trung thành, máy móc bài văn mà còn ghi
đậm dấu ấn cá nhân. Đọc như thế sữ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở
những mĩ cảm ngôn ngữ văn học và khả năng biểu diễn. Lối đọc này sẽ có
sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe và làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của
tác phẩm văn chương. Rõ ràng đọc diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật của
nó.

Đọc diễn cảm là hình thức đặc biệt của đọc văn chương. Đặc biệt nó vượt
qua việc đọc những tín hiệu ngôn ngữ, từ kí hiệu chữ viết sang kí hiệu âm
thanh tạo ra năng lực đọc văn.
Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ sung
hỗ trợ của năng lực dễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ, giọng điệu,
ngữ điệu, âm sắc, màu sắc của cảm xúc ngôn ngữ. Cho nên đọc diễn cảm là
một nghệ thuật. Nghệ thuật đọc diễn cảm đòi hòi phải có một quá trình rèn
luyện lâu dài và liên tục.
Vấn đề mối quan hệ qua lại giữa đọc diễn cảm với đọc biểu diễn nghệ
thuật rất phức tạp vì ngay trong nghệ thuật biểu diễn đọc cũng có nhiều
trường phái khác nhau. Hiện nay trong nghệ thuật biểu diễn đọc có hai
khuynh hướng khác nhau: một số nghệ sĩ diễn xuất thiên về biểu diễn, một số
khác lại sử dụng phong cách của người kể chuyện.
Thế nhưng trong nghệ thuật đọc không phải chỉ có hai khuynh hướng
trên. Xuren Kotrarian viết: “Cuộc sống của con người thể hiện ở nhiều tính
cách muôn vẻ khác nhau. cũng như những tính cách đó được thể hiện dưới
nhiều hình thức đa dạng trong nghệ thuật của người diễn viên. “Tưởng

14


tượng” và “Rung động”, “đọc suông” và “kể lại”, “nhập vai” và “biểu
diễn”, trong cuộc sống tất cả những cái đó gắn chặt với nhau, ít khi gặp
những cái riêng biệt dưới hình thứcs nguyên dạng “không biến hóa”, và nếu
như có trường hợp đơn điệu nào đó thì nó sẽ dẫn đến sự buồn tẻ và chán
ngắt.
Nếu như trong nghệ thuật biểu diễn đọc không khẳng định một “trường
phái” nào, thì trong việc đọc diễn cảm lại càng không cần phải khẳng định nó.
Chỉ có sự khác nhau là đặc điểm riêng biệt của nhà trường phổ thông đòi hỏi
các phương pháp đọc cần phải được xem xét từ góc độ thích hợp đối với từng

trường hợp cụ thể, có nghĩa là có tính đến thể loại, khuynh hướng văn học, thế
giới quan và tư tưởng của tác giả, mà còn từ góc độ sư phạm của những tác
phẩm đó và sự dẽ hiểu của chúng đối với từng lứa tuổi học sinh.
Từ những điều trình bày trên ta có thể khái quát lại về bản chất của đọc
diễn cảm như sau:
+ Đọc diễn cảm là lao động sáng tạo
+ Là biểu diễn nghệ thuật đọc
+ Truyền đạt mọi cái hay cho người nghe
+ Phát huy màu sắc của tác phẩm
+ Đó là một phương pháp sư phạm và là một khoa học
1.3. Các cơ sở lí luận của đọc diễn cảm
1.3.1. Cơ sở ngôn ngữ học của đọc diễn cảm
1.3.1.1. Ngữ điệu của lời nói
Trong khi nói về nghệ thuật đọc, người ta thường xác định rằng đó là
nghệ thuật của ngữ điệu. Sự tồn tị của các ngữ điệu đa dạng khác nhau đã cho
phép người ta phân biệt lời nói diễn cảm với lời nói không diễn cảm. “ Người
nói cần phải biết sử dụng thành thạo những phương tiện không có tính ngôn
ngữ nhưng lại rất quan trọng về mặt tâm lí để biểu hiện ý nghĩ. Trước hết đó

15


là ngữ điệu”. Thế nào là ngữ điệu? Theo định nghĩa của nhà tâ, lí học thì ngữ
điệu của lời nói là hệ thống âm thanh của câu nói chung. Ngữ điệu bao gồm
tất cả các dấu hiệu âm thanh phức tạp: sự thay đổi của giọng nói cơ bản, độ
vang to, âm sắc, độ dài. Ngoài ra còn có những chỗ nghỉ hơi, những chỗ ngắt
câu. Ngữ điệu biểu thị mối quan hệ tình cảm, ý chí của con người trong quá
trình giao tiếp với nhau nhưng không phải tất cả những tính chất quan trọng
của ngữ điệu đều được xem là cơ sở của sự diễn cảm. Ngữ điệu không những
diễn tả mối quan hệ tình cảm, ý chí của con người mà còn được xác định bởi

những mối quan hệ đó. Chính mối quan hệ giao tiếp này đã góp phần xác định
ngữ điệu của người đọc, có thể sôi nổi hơn, đam mê hơn, có thể gần gũi thống
thiết, bi lụy, âu sầu hơn…Người bắt trước ngữ điệu, trở nên nực cười bởi vì
ngữ điệu xuất hiện tự nhiên nhờ mối quan tâm đầy ddue và hiểu biết của
người đọc với đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học.
Bởi vậy Ôzaropxki đã phản đối sự tìm tòi các ngữ điệu. Còn Ginkin thì
viết: “Nếu ai đặt câu hỏi rằng là thế nào để tìn tòi được ngữ điệu và có thể học
ngữ điệu đúng và hay được không thì câu trả lời sẽ không có. Không thể đọc
ngữ điệu được cũng giống như không thể học khóc, học cười, học sung
sướng, học đau khổ…”Ngữ điệu của lời nói tự bản thân nó sẽ đến với chúng
ta trong hoàn cảnh nhất định.
Chúng ta không nên nghĩ đến nó, không nên quan tâm đến nó. Nhưng sẽ
có phương pháp tìm kiếm ngữ điệu khi nhiệm vụ đọc một đoạn văn nào đó đặt
ra cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra cho nó.
1.3.1.2. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
1.3.1.2.1. Chính âm
Mục đích của dạy đọc cần hướng tới là đọc diễn cảm đó cũng chính là
nội dung của luyện đọc thành tiếng. Đọc đúng được thì mới có đọc diễn cảm,

16


vì vậy đọc đúng trước hết là đọc đúng chính âm, để dạy đọc đúng chúng ta
cần có hiểu biết về chính âm.
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và
hiệu lực về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu
học, nó liên quan đến vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt. Việc hiểu biết về chính âm sẽ giúp ta xác định nội dung đọc đúng,
đọc diễn cảm một cách có nguyên tắc.
Để luyện phát âm đúng cho học sinh, trước hết phải giải quyết vấn đề

phương ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện cho học sinh vươn đến một
tiếng nói dân tộc Việt thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh. Muốn như vậy
chúng ta phải luyện cho học sinh đọc đúng, hay trong phạm vi giao tiếp rộng
hơn phương ngữ hẹp của mình.
Trong nhiều thập kỉ nay, trong giới ngôn ngữ học có nhiều quan điểm
khác nhau về chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, trong đó có ý kiến lấy phương
ngữ Bắc bộ (tiêu biểu là thủ đô Hà Nội) là cơ sở để xác định chuẩn mực ngữ
âm. Đây là quan điểm được nhiều người tán thành. Đó là cách phát âm lấy
phương ngữ Bắc bộ (tiêu biểu là tiếng Hà Nội) bổ sung thêm ba phụ âm đầu
của miền Trung, những âm được biểu hiện trên chữ viết bằng những con chữ
tr/ s/ r và hai vần ươu, ưu (từ đây chúng ta sẽ gọi cách phát âm này là cách
phát âm đúng chuẩn chữ viết. Nhiều giáo viên tiểu học còn gọi cách phát âm
này là phát âm đúng chính tả).
1.3.1.2. 2. Trọng âm
Là độ vang và độ mạnh khi phát âm ra âm tiết (tiếng). Dựa vào sự phát
âm một tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đường nét thanh điệu
rõ hay không rõ, người ta chia các tiếng thành chuỗi lời nói, thành tiếng có
trọng âm (là tiếng có trọng âm mạnh) và không có trọng âm( tiếng có trọng
âm yếu). Trọng âm mạnh rơi vào các từ truyền đạt thông tin mới hoặc có tầm

17


quan trọng trong câu. Trọng âm yếu đi với các từ không có hoặc có ít thông
tin mới. Đây là căn cứ để chúng ta đọc rõ, nhấn giọng hay kéo dài những từ
quan trọng trong bài.
Loại từ và hư từ mang trọng âm yếu. Thực từ mới có trọng âm. Trong
câu, mỗi ngữ đoạn (mà đường ranh giới là những chỗ ngắt, nghỉ) được kết
thúc bằng một trọng âm, trừ khi ngữ đoạn kết thức bằng một ngữ khí từ. Đây
là căn cứ qua trọng để xác định chỗ ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ, cũng là

cưn cứ để xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
1.3.1.2.3. Hoạt động ngôn ngữ
Khoa học hiện đại coi ngôn ngữ là một trong những hình thức hoạt
động của con người “hoạt động ngôn ngữ” còn những lời nói riêng biệt được
gọi là “những hành động nói năng”. Trong khoa học nghiên cứu những loại
phát sinh, ngôn ngữ xuất hiện và phát triển như một phương tiện để thông
báo, một phương tiện dùng để tác động đến những người xung quanh. Khi
một đứa trẻ nói từ “bố” thì từ đó không những chỉ dùng để gọi một người nào
đó, mà còn muốn người đó là cho một việc gì cụ thể. Tùy theo từng hoàn cảnh
cụ thể, từ “bố” có nghĩa là: “Bố ơi, dạy con tập xe” hay “bố ơi, đưa con đi
học”,…
Mục đích rõ ràng của hoạt động lời nói được xác định bằng những cách
phân chia sự nhấn giọng trong câu, bởi tính đa dạng của ngữ điệu, bởi sắc thái
nhịp điệu của giọng, tức là bởi tất cả những phương tiện bởi lời nói diễn cảm.
Ngoài ra trong khi trả lời và trong khi học thuộc lòng, học sinh thường máy
móc hoặc đọc lúng túng. Thói quen này của học sinh cần phải được khắc
phục. Cần phải làm sao cho khi đọc bài văn, học sinh phải truyền đạt được nội
dung đã được tiếp thụ một cách cụ thể (như tư tưởng, hình ảnh, sự đánh giá và
ý định của tác giả), làm cho người nghe có thể hiểu được những điều đã nói
trong đoạn văn bằng những hình ảnh cụ thể, nghĩa là làm cho người đọc giao

18


tiếp với người nghe một cách chân thực và có mục đích rõ ràng. Đây là một
thủ thuật rất quan trọng, có tính chất tích cực, một mặt nó nâng cao được tính
linh hoạt và diễn cảm của ngôn ngữ, mặt khác làm cho người nghe thêm chú ý
và dễ ghi nhớ.
1.3.1.2.4. Ngôn ngữ và tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lí, có tính xã hội về sự tìm tòi và phát triển

những cái mới, là quá trình phản ánh thực tiễn một cách gián tiếp và khái quát
trong quá trình phân tích và tổng hợp, tư duy gắn một cách hữu cơ với ngôn
ngữ.
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ đặc biệt trong quá trình hoạt động
của ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ câm). Đặc điểm của nó là những cấu âm
ẩn kín mà từ đó những sự kích thích yếu ớt của vận động được chuyển vào
não để tư duy bình thường.
Thông thường người ta chia tư duy ra thành tư duy hình tượng và tư
duy khái niệm. Trong thực tế cả hai loại tư duy này có mối quan hệ lẫn nhau.
Nó có liên quan đến một quá trình rất quan trọng đối với sự sáng tạo- đó là sự
tưởng tượng.
1.3.1.2.5. Tính hình tượng của ngôn ngữ
Tưởng tượng là sự sáng tạo ra một hình ảnh, một khái niệm, một tư
tưởng mới, sau đó chúng được thể hiện vào sự vật hoặc trong hoạt động thực
tiễn. Trong lĩnh vực đọc diễn cảm thì đó là sự sáng tạo hình tượng hay khái
niệm được thể hiện bằng lời nói. Không có tưởng tượng thì không có một sự
sáng tạo nghệ thuật nào. Cơ sở sinh lí học của tưởng tượng là sự hình thành
những tổ hợp mới tren cơ sở những liên kết tạm thời được hình thành trong
những kinh nghiệm cũ. Vì vậy kinh nghiệm càng phong phú thì càng có nhiều
khả năng để tưởng tượng. Sự quan sát tất cả các hiện tượng có trong cuộc
sống là nền tảng của tưởng tượng. Tưởng tượng khác với quá trình ghi nhớ

19


bình thường ở chỗ hình ảnh thu nhận được nhờ những liên kết mới là hình ảnh
chưa có trong kinh nghiệm của chúng ta. Thiếu đi những yếu tố cần thiết
trong trí nhớ của người nói hay người tiếp thu thì sẽ gây khó khăn cho sự nảy
sinh hình tượng. Đó cũng là khó khăn của học sinh trong khi tiếp thụ văn học
cổ điển trước cách mạng.

Khi chúng ta đọc hay nghe một tác phẩm văn học, nếu như chúng ta
không nỗ lực gắng hết sức thì các hình tượng sẽ xuất hiện trong trí tưởng
tượng của chúng ta một cách tùy tiện. Hơn nữa những hình tượng đó có tính
chính xác và rõ ràng ở các mức đọ khác nhau. Người đọc hay người kể cần
phải cố gắng gợi ra một cách có ý thức trong tưởng tượng của người nghe
những hình tượng cụ thể và rõ ràng hoặc như người ta thường gọi chúng là
năng lực nhìn thấy. Nhưng điều đó chỉ thấy được khi chính bản thân người
nói hay người đọc nhìn thấy mọt cách cụ thể và rõ ràng tất cả những gì mà
mình kể ra. Trong trí tưởng tượng của người đọc hay người kể chuyện cần
phải ra một cuốn phim về các hình ảnh tưởng tượng mà người đọc sẽ mở ra
trước mắt người nghe.
Với ý nghĩa tren chúng ta cần phải ghi nhớ lời khuyên của K. X.
Xtanhixlapxki “không phải nói vào tai, mà phải nói vào mắt”. Quá trình tưởng
tượng sẽ mở rộng kinh nghiệm cá nhân của người nói và người nghe. Tưởng
tượng có một ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức và thực hiện hoạt động, và
chính bản thân sẽ được hình thành trong các hình thức hoạt động khác nhau,
trong đó có cả việc đọc tác phẩm văn học nghệ thuật.
1.3.1.2.6. Tính biểu cảm của lời nói và của việc đọc diễn cảm
Đôi khi thầy giáo thường bảo học sinh :”Hãy đọc cho có tình cảm” mà
không biết rằng mình đã đặt ra cho học sinh một nhiệm vụ không thể nào thực
hiện được và đã đẩy học sinh vào con đường bắt chước một cách giả tạo. Lĩnh
vực cảm xúc là lĩnh vực không chịu sự ra lệnh trực tiếp.

20


Phản ứng tình cảm của con người là một hành động phản xạ phức tạp
trong đó bao gồm nhiều yếu tố vận động và sinh dưỡng kết hợp hưu cơ với
nhau.Cảm xúc nảy sinh khi có nhu cầu và có những hoạt động để thỏa mãn
nhu cầu.

Vai trò quyết đinh trong sự khởi động của các phản ứng tình cảm là ở
vỏ ban cầu đại não,ở đó xuất hiện sự liên kết các tín hiệu bắt nguồn từ các bộ
phận bên trong cơ thể với những tín hiệu vận động. Như vậy tình cảm cũng
như những quá trình tâm lí khác do trung tâm của não bộ điều khiển. tình cảm
của con người thể hiện trong những hành động vận động muôn vẻ như điệu
bộ, cử chỉ, những sự vận động của cơ thể và những sự thay đổi cuargiong nói,
lời nói. Sự thay đổi này không phải lấy ý chí để dập tắt. Nó mang tính tự
nhiên. Nói như Ximonop “trong đọc diễn cảm thì hệ thống cảm xúc cá nhân
có được nhờ tương giao với tác phẩm văn học, phải chiếm ưu thế hơn hệ
thống khái niệm”.
Muốn đọc cho được tình cảm thì phải truyền đạt được tình cảm như
một nhà tâm lí học đã nói “không có con đường đi trực tiếp tới tình cảm” xuất
phát từ luận điểm đó nhà lí luận về nghệ thuật biểu diễn, đồng thời nhà nghệ
sĩ Xtanhilapxki đã nói: “không thể ra lệnh cho tình cảm mà phải đi đến tình
cảm bằng nhiều con đường khác nhau…khi trạng thái tâm lí có khả năng làm
nảy sinh mối quan hệ tình cảm của con người đối với các hiện tượng xuang
quanh xuất hiện thì mối quan hệ biểu cảm được tạo nên và đó sẽ là cảm xúc”.
1.3.2. Cơ sở giao tiếp của đọc diễn cảm
Từ diễn cảm có chứa một ý nghĩa là diễn xuất, là thể hiện ra bên ngoài
những cảm xúc.
Giao tiếp hàng ngày đòi hỏi phần lớn phải sử dụng ngôn ngữ nói và
những yếu tố phi ngôn ngữ như: ánh mắt, nụ cười, nét mặt, lắc đầu, thở
dài,…Những sự xúc cảm đó chỉ sinh ra trong tình huống giao tiếp và trong

21


mục đích giao tiếp. Nó bắt nguồn từ ý đồ chủ quan của ngôn ngữ giao tiếp (có
ngôn ngữ phát tin và người nhận). Đó là xúc cảm tự nhiên và cục bộ thực
dụng theo mục đích giao tiếp.

Đọc diễn cảm cũng là hình thức giao tiếp, nó nhằm tới đối tượng nghe
mình đọc. Nguồn xúc cảm trong khi đọc văn là nguồn xúc cảm thẩm mĩ phát
sinh từ hai chủ thể: chủ thể nhà văn gửi trong tác phẩm với thế giới tâm hòn
xúc động và thế giới thẩm mĩ cảm nghệ thuật của tác phẩm. Ngôn ngữ đọc
khác với ngôn ngữ nói ở chỗ nó chịu sự chi phối của văn bản (nghĩa văn bản –
đến nghệ thuật văn bản – đến ý tưởng, nội dung tư tưởng tác giả tiềm ẩn sâu
trong văn bản hoặc tác phẩm).
Lời nói hàng ngày tự nhiên cũng có những thuộc tính như diễn cảm, tạo
hình, đôi khi cả tính hình tượng: “Dai như chão”. Giao tiếp hàng ngày chỉ là
đơn nghĩa như vậy, chỉ là phẩm chất thẩm mĩ do liên tưởng so sánh hàng ngày
mà có.
Ngôn ngữ hình tượng phải trải qua tưởng tượng để tạo ra hình ảnh, nó
có giá trị thẩm mĩ (không chỉ là thuộc tính phẩm chất như ở lời nói giao tiếp).
“Song vấn đề là ở mối tương quan giữa các chức năng. Chức năng chủ yếu
quyết định trong tất cả các phong cách ngôn ngữ vẫn là chức năng giao tiếp.
Những phẩm chất thẩm mĩ trong giao tiếp hàng ngày nếu có cũng chỉ đóng
vai trò phụ thuộc thứ yếu. Còn trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn học
thì chức năng thẩm mĩ xuất hiện ở bình diện thứ nhất, nó đẩy chức năng giao
tiếp xuống bình diện thứ hai”.
Sự phản ánh thế giới trong tác phẩm văn học đi đôi với sự hư cấu trong
sáng tạo nghệ thuật cho nên từ đó nảy sinh ra khả năng thông tin kép vừa
hướng vào khách thể thẩm mĩ của tác phẩm
Văn học, vừa hướng vào tác giả (chủ thể sáng tạo), hướng về những
đặc điểm trong cách quan sát, cảm thụ chiếm lĩnh và diễn tả thế giới đời sống

22


trong tác phẩm của tác giả. Quan niệm nghệ thuật của chủ thể nhà văn về thế
giới hiện thực làm nên nội dung quan niệm trong tác phẩm văn học hay còn

gọi là “hạ văn bản”. (Đọc diễn cảm phải chú ý đến nội dung tư tưởng của nhà
văn gửi gắm trong tác phẩm).
Đọc diễn cảm cho một đối tượng nghe về một số đối tượng thẩm mĩ.
phải tạo dựng được mối quan hệ khăng khít với tác phẩm và với người nghe.
Do đó có hai công đoạn: cảm thụ + hiểu biết tác phẩm và truyền thụ + hiểu
biết người nghe.
Vì vậy để đọc diễn cảm tốt cần phải thực hiện việc đọc trong các giờ
học văn và giờ dạy tiếng Việt. Việc đọc diễn cảm trong các giờ văn học giúp
cho việc cảm thụ, tiếp nhận văn học tốt hơn, giúp hiểu sâu sắc nghệ thuật viết
văn tạo ra sức hấp dẫn và hiệu quả dạy văn. Việc đọc diễn cảm trong quá trình
dạy tiếng Việt làm cho các em thấy rõ sự phong phú và khả năng vận dụng
ngôn ngữ dân tộc vào các lĩnh vực. Qua đó các em thấy rõ mối quan hệ đồng
bộ, hệ thống, cụ thể của tiếng mẹ đẻ.
1.3.3. Cở sở sinh lí học và tâm lí học của đọc diễn cảm
Muốn giải quyết vấn đề cần phải dạy đọc diễn cảm cho ai, nhất thiết
phải chú ý đến vấn đề tâm lí học và sinh lí học. Thực tế trong các giờ dạy đọc
hiện nay cho thấy chỉ có thể dạy đọc một cách diễn cảm cho một số học sinh
có năng khiếu mà thôi. Nhà trường hiện nay là nhà trường chung cho tất cả
các em và chưa có một văn ban nào đưa ra vấn đề chia học sinh ra làm hai
loại: loại có năng khiếu và loại không có năng khiếu. Nhưng thực tế trong giờ
thực hành lại có sự phân chia đó. Thường thường một lớp học chỉ một số em
biết đọc diễn cảm, còn đa số các em khác thì không biết đọc diễn cảm và thầy
cô giáo cũng chỉ chú trong tới một vài em có năng khiếu đó.
Vì vậy một vấn đề cấp bách được đặt ra là có thể đọc diễn cảm cho tất
cả các em học sinh được không, và có cần thiết phải làm điều đó không ?

23


Khoa học hiện đại đã phân tích các hiện tượng như khả năng, năng khiếu,

thiên tài, trực giác và khí chất như thế nào.
Không nên phủ nhận một sự thật là có những trẻ em có năng khiếu và
những học sinh không có năng khiếu. Tâm lí học hiện đại thừa nhận có sự
khác nhau về năng lực của học sinh, nhưng không cho điều đó là hiện tượng
bẩm sinh. Những đặc điểm bẩm sinh chỉ có thể là những đặc điểm về tâm lí
học giải phẫu, tức là những tư chất làm cơ sở cho sự phát triển của tài năng,
chính tài năng lại là kết quả của sự phát triển. Tài năng không chỉ được thể
hiện trong quá trình hoạt động mà điều chủ yếu là nó được hình thành ngay
trong quá trình hoạt động đó.
Tâm lí học hoạt động học tập cũng đã chỉ ra rằng những điều kiện bẩm
sinh về tài năng chỉ có thể thuộc về sinh lí học giải phẫu, tức đó chỉ là những
tư chất làm cơ sở cho sự phát triển tài năng, năng khiếu. Mặt khác tài năng
phần lớn là do quá trình rèn luyện thích hợp mà thành và chính quá trình hoạt
động của con người đã hình thành nên tài năng. Khi nói về đặc điểm cua quá
trình sáng tạo nghệ thuật trong đó bao gồm cả việc dạy đọc văn, người ta
thường nói đến vai trò của trực giác. Trong tâm lí học hiện đại, trực giác được
hiểu như là một hình thức đặc biệt của quá trình tư duy, khác với hình thức tư
duy lôgic có vỏ bọc bằng ngôn ngữ dù chỉ là ngôn ngữ bên trong. Qúa trình tư
duy được gắn liền với cái mà Páplốp gọi là: “dấu vết rõ ràng của nhận thức”.
Sự tư duy bình thường sẽ được diễn ra trong khuôn khổ của vùng nhận thức
đó. Bên ngoài vùng nhận thức đó cũng có những quá trình được diễn ra không
có sự kiểm tra của nhận thức vì thế kết quả của tư duy này có tính chất bất
ngờ, không được tính toán trước. Trong thực tế tài năng bất ngờ của giây phút
sáng tạo là kết quả của sự chuẩn bị trước thậm chí là kết quả của một quá
trình tư duy lâu dài và căng thẳng. Như vậy, nếu như yếu tố trực giác của sáng
tạo không chịu sự tác động của nhận thức thì quá trình chuẩn bị trực giác của

24



tư duy phải hoàn toàn do tác động của con người và giáo dục. Có thể nói,
“trực giác là tư duy không có dấu vết rõ ràng của nhận thức”.
Trực giác là một khái niệm còn chứa đầy bí ẩn đối với khoa học nhất là
lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, lĩnh vực tâm lí học giao tiếp, lĩnh vực tiếp nhận
văn học, lĩnh vực cắt nghĩa luận giải tác phẩm văn học. Tuy nhiên các nhà
nghiên cứu thường có quan niệm thống nhất với nhau về trực giác.
Các nhà nghiên cứu phương Tây cho trực giác là tri thức cao nhất, xem
trực giác là bước nhẩy vọt của cảm tính, là bước sóng xuất thần, người ta gọi
trực giác – tổng giác (tổng nhận thức con người). Họ diễn đạt trực giác không
phải là trở về cái đã có mà là đạt đến cái mới cao hơn nhận thức và không thể
diễn đạt bằng lời.
Trực giác là sự sáng tạo bởi có cái mới bằng sức mạnh tổng hợp của
con người.
Páplốp nói: “tôi thấy rằng cần phải hiểu trực giác như vậy tức là con
người chỉ nhớ kết quả cuối cùng còn toàn bộ con đường mà nó đã đi để đên
kết quả đó, đã chuẩn bị cho kết quả đó lúc này nó chưa ý thức được”.
Như vậy trực giác có vai trò quan trọng trong đọc diễn cảm, nó cũng là
một yếu tố có tính quyết định trong việc đọc diễn cảm diễn ra trong một
khoảng thời gian ngắn. Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định, những đặc
điểm thuộc về tâm lí cá nhân như năng khiếu, thiên tài không phải hoàn toàn
do bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình học tập, hoạt động rèn luyện. Vì
thế, có thể dạy và nhất thiết cần phải dạy cho trẻ ở mọi lứa tuổi đọc diễn cảm.
Kĩ năng đọc diễn cảm, sự hoàn thiện ngôn ngữ của con người sẽ được hình
thành trong quá trình đọc diễn cảm.
1.3.4. Đọc diễn cảm là một nghệ thuật đọc văn trong nhà trường tiểu
học

25



×