Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục trên thế giới đang ở mức rất cao với những bước
phát triển mạnh mẽ. Nước ta đã và đang bước vào hội nhập toàn diện với thế
giới nên nhu cầu cấp thiết được đặt ra cho giáo dục nước nhà là phải đổi mới
toàn diện từ mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Trong đó, sự đổi mới về phương pháp dạy học đang được coi là vấn đề quan
trọng bậc nhất, mang tính thời đại thu hút sự quan tâm của Đảng, Nhà nước,
của các nhà nghiên cứu giáo dục và các giáo viên trực tiếp đứng lớp.
Giáo dục Tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình
thành và phát triển con người, đặt nền móng vững chắc cho hệ thống giáo dục
quốc dân nên đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học có ý nghĩa rất quan
trọng. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt
giữ vị trí rất quan trọng, được coi là môn học công cụ tạo “vốn liếng” ban đầu
cho việc lĩnh hội tri thức các môn học khác. Đây còn là môn học có sự tích
hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con
người và xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phẩm chất,
năng lực của con người. Nhằm đáp ứng mục tiêu của hệ thống giáo dục quốc
dân nói chung và giáo dục Tiểu học nói riêng, chương trình môn Tiếng Việt
đưa ra những mục tiêu nhằm khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong
hoạt động của học sinh, đòi hỏi mỗi giáo viên phải có xu hướng đổi mới
phương pháp dạy học để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức và hình thành, rèn
luyện kĩ năng, giáo viên thực sự là người “đạo diễn” còn học sinh là những
“diễn viên” để học sinh hoạt động tự bộc lộ và phát triển kĩ năng của mình
thông qua hoạt động học tập. Mục tiêu này đòi hỏi giáo viên phải sử dụng
phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
1
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
giác, chủ động nhận thức của học sinh như: phương pháp dạy học dự án,
phương pháp trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề…
Phương pháp trò chơi học tập được coi là một trong những phương
pháp dạy học tích cực. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến trong
dạy học Tiểu học. Sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới
hiện nay. Thực tế nhiều giáo viên tiểu học đã có những kinh nghiệm quý báu
trong việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập nhằm làm tăng hứng thú học
tập của học sinh, việc học tập trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Cho đến
nay cũng có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến
vấn đề này, đều khẳng định những mặt tích cực của việc tổ chức trò chơi học
tập trong dạy học. Tuy nhiên, thực trạng sử dụng phương pháp này trong dạy
học Tiếng Việt lớp 2 như thế nào, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó còn là
vấn đề chưa có nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu.
Kế thừa thành tựu của các công trình nghiên cứu nói trên và xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn của môn học Tiếng Việt nên tôi mạnh dạn chọn đề tài
“Tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy
học Tiếng Việt lớp 2 ở một số trường Tiểu học khu vực Thị trấn Sóc Sơn
- Hà Nội” để tìm hiểu và nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc sử dụng trò chơi học tập không phải là vấn đề mới được đặt ra.
Ngay từ đầu thế kỉ XX, phương pháp học tập này đã được nhà tâm lí học
người Thụy Sĩ J.Piaget (1896-1980) rất quan tâm và ủng hộ. Luận điểm
“Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” của ông được
triệt để khai thác trong các nhà trường tiểu học hiện nay, nhất là đối với các
em học sinh những lớp đầu cấp.
Năm 1974, trên tạp chí văn học trường Matxcơva (Tr53) tác giả
B.C.Gie-nhi-xloai-a cho rằng: “Chúng ta không phải tạo ra cho trẻ thì giờ để
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
2
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
chơi mà còn phải làm cho toàn bộ cuộc sống của trẻ được nuôi dưỡng bằng
trò chơi” (7, Tr3).
Năm 1999, nhà xuất bản Meadowbook (Anh) đã xuất bản cuốn
“Phương pháp giúp trẻ chơi mà học” (Biên dịch Mạnh Linh - Minh Đức NXB Phụ nữ) của tác giả Penny Warner, cuốn sách đã được tác giả nghiên
cứu và viết về trò chơi học tập trong đó mỗi trò chơi có hướng dẫn từng bước,
liệt kê các kĩ năng mà trẻ học được qua mỗi trò chơi (7,Tr3).
Bộ sách “Trò chơi trí tuệ - học toán” Nhà văn hóa Sài Gòn gồm 4 cuốn:
phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia. Bộ sách này sẽ giúp các bé loại bỏ
những khó khăn khi bắt đầu học toán.
Ngoài ra, nhóm tác giả Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan, Phạm Thanh Tâm
cho xuất bản cuốn “100 trò chơi học tập Toán 1” – NXB Giáo dục, 2007. Tác
giả Ngô Thúc Lanh cho xuất bản cuốn “Giúp em vui học Toán 1” đã đưa ra
nhiều câu đố và nhiều trò chơi toán học giúp em củng cố nội dung bài học,
rèn trí thông minh và khả năng sáng tạo mà vẫn đảm bảo vui mà học, học mà
vui.
Tác giả Bùi Phương Nga (chủ biên) với cuốn “Trò chơi học tập môn Tự
nhiên và xã hội lớp 1, 2, 3” – NXB Giáo dục, 2004. Trong môn Tiếng Việt,
nhóm tác giả do Trần Mạnh Hưởng (chủ biên) xuất bản cuốn “Trò chơi học
tập Tiếng Việt 2” – NXB Giáo dục, 2004. Qua đó đã đưa ra các trò chơi giúp
các em vừa học vừa vui, đem lại hiệu quả cao trong giờ học.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu trên
phương diện lí luận mà chưa đi sâu khai thác triệt để thực trạng sử dụng
phương pháp này trong dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và ở lớp 2
nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
3
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Từ việc làm rõ lí luận của phương pháp trò chơi, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp này trong dạy học Tiếng Việt lớp 2.
Trên cơ sở đó tìm nguyên nhân và đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng sử dụng phương pháp này trong dạy học Tiếng Việt nói riêng và
trong dạy học Tiểu học nói chung.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Khách thể nghiên cứu: vấn đề sử dụng phương pháp trò chơi học tập
trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 2.
- Đối tượng nghiên cứu: thực trạng sử dụng phương pháp trò chơi
trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 2.
- Phạm vi nghiên cứu: do thời gian có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu thực
trạng sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 ở
một số trường Tiểu học khu vực Thị trấn Sóc Sơn - Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận về phương pháp dạy học, phương pháp
trò chơi học tập trong dạy học Tiếng Việt lớp 2.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy
học Tiếng Việt lớp 2.
- Nguyên nhân và đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng giờ học có sử
dụng phương pháp này.
6. Giả thuyết khoa học
Thực trạng việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy học
Tiếng Việt lớp 2 vẫn chưa đạt kết quả cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
thực trạng nhưng quan trọng nhất là khả năng vận dụng và tổ chức của giáo
viên. Nếu phương pháp trò chơi học tập được tổ chức và vận dụng tốt sẽ phát
huy các ưu điểm, hạn chế tối đa các nhược điểm của phương pháp này nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
4
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
7. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp thống kê toán học.
8. Kế hoạch nghiên cứu
- Tháng 10/2009: nhận đề tài nghiên cứu.
- Từ tháng 10/2009 đến hết tháng 1/2010: nghiên cứu tài liệu để tìm
hiểu cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
- Từ tháng 1/2010 đến hết tháng 4/2010: thiết kế phiếu điều tra và điều
tra thực trạng sử dụng phương pháp trò chơi học tập ở trường Tiểu học.
- Tháng 5/2010: hoàn thành công trình nghiên cứu.
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, tài liệu tham khảo, nội
dung chính của khóa luận bao gồm:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận.
+ Chương 2: Môn Tiếng Việt lớp 2 và vấn đề sử dụng trò chơi học tập.
+ Chương 3: Thực trạng sử dụng phương pháp trò chơi học tập
trong dạy học Tiếng Việt lớp 2 ở một số trường Tiểu
học khu vực Thị trấn Sóc Sơn - Hà Nội
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
5
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Phương pháp dạy học
1.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ phương pháp dạy học bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp (Methodos)
có nghĩa là con đường để đạt được mục đích. Theo đó phương pháp dạy học
là con đường để đạt được mục đích dạy học.
Ta có thể hiểu phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức
hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định
nhằm đạt được mục đích dạy học.
Theo định nghĩa trên cho thấy phương pháp dạy học được đặc trưng bởi
hai hoạt động: hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Hai hoạt động này tồn
tại được tiến hành trong mối quan hệ biện chứng, hoạt động của thầy đóng vai
trò chủ đạo (tổ chức, điều khiển).
Như vậy: phương pháp dạy học là tổ hợp những cách thức hoạt động
của thầy và trò trong quá trình dạy học, được hình thành dưới vai trò chỉ đạo
của thầy nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
1.1.2. Phân loại phương pháp dạy học ở Tiểu học
1.1.2.1. Nhóm các phương pháp dạy học dùng lời
- Phương pháp kể chuyện: là phương pháp giáo viên dùng lời để giới
thiệu, thuyết minh, miêu tả nhân vật, hành động, tâm tư tình cảm của nhân
vật, kể lại diễn biến của câu chuyện sao cho người đọc hình dung được nội
dung và ý nghĩa của câu chuyện.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
6
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Phương pháp giảng giải: là phương pháp giáo viên dùng lời để giải
thích rõ cho học sinh nội dung của tài liệu học tập. Nó trả lời cho câu hỏi “Tại
sao”. Phương pháp này phù hợp cho giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
- Phương pháp diễn giải: là phương pháp giáo viên dùng lời để mô tả
tài liệu học tập nào đó có tính chất mới, phức tạp.
- Phương pháp vấn đáp: là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra
hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị trước, học sinh trả lời câu hỏi, thông qua
việc trả lời hệ thống câu hỏi đó mà học sinh nắm vững tri thức khoa học.
1.1.2.2. Nhóm các phương pháp dạy học trực quan
- Phương pháp quan sát (trưng bày trực quan): là phương pháp dạy
học mà giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát nội dung tài liệu học tập trên
phương diện dạy học trực quan, học sinh quan sát dưới sự hướng dẫn của giáo
viên để tự rút ra kết luận khái quát.
- Phương pháp trình bày trực quan: là phương pháp dạy học mà giáo
viên trình bày trước học sinh tài liệu học tập trên phương tiện trực quan, học
sinh quan sát theo sự trình bày của thầy. Từ đó học sinh nghe, hiểu, ghi nhớ.
1.1.2.3. Nhóm các phương pháp dạy học thực tiễn
- Phương pháp làm thí nghiệm: được sử dụng chủ yếu trong giảng dạy
môn khoa học (ở Tiểu học) và môn tự nhiên (ở THPT), là phương pháp mà
giáo viên và học sinh tái tạo được hoat động cần nghiên cứu trong điều kiện
nhất định kết hợp với các phương tiện dạy học khác giúp học sinh nắm vững
nội dung tài liệu học tập.
- Phương pháp ôn tập: ôn tập giúp cho học sinh nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo giúp giáo viên sửa chữa những sai lầm đảm bảo cho học sinh
trong lớp tiến bộ đồng đều, rèn luyện những kĩ năng, kĩ xảo làm việc đúng
đắn và phát huy tính tích cực, độc lập tư duy của học sinh, giúp học sinh mở
rộng, đào sâu, khái quát hóa, hệ thống hóa những tri thức đã học.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
7
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Phương pháp luyện tập: là phương pháp giáo viên tổ chức cho học
sinh vận dụng những tri thức nắm được để hoàn thành những nhiệm vụ học
tập do giáo viên đặt ra hoặc để giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá: là phương pháp dạy học mà giáo
viên tổ chức cho học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập do giáo viên đặt ra
trong một khoảng thời gian xác định.
- Phương pháp thảo luận nhóm: là phương pháp dạy học mà giáo viên
chia lớp thành các nhóm để học sinh giải quyết nhiệm vụ học tập do giáo viên
đặt ra.
- Phương pháp trò chơi: là phương pháp dạy học mà giáo viên tổ chức cho học
sinh chơi các trò chơi học tập: đóng vai, lắp ghép, xếp hình, vận động… nhằm giúp học
sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các kĩ năng hoạt động sáng tạo điển hình.
Tùy theo nội dung bài học và đặc điểm lứa tuổi của các em mà các nhà
sư phạm khai thác sử dụng các loại trò chơi với ý nghĩa học tập tối đa. Trò
chơi là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh
học tập tích cực, vừa chơi, vừa học có kết quả.
1.2. Phương pháp trò chơi trong dạy học Tiểu học
1.2.1. Khái niệm trò chơi
Trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội dung
nhất định và có những qui định mà người tham gia cần tuân thủ.
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và
chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn sau giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Qua trò chơi, người chơi còn được rèn luyện trí tuệ, thể lực, tạo cơ hội giao
lưu với mọi người cùng hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, tổ…
Đặc trưng cơ bản của trò chơi:
- Trò chơi là một loại hình hoat động sống của con người.
- Trò chơi có chủ đề, nội dung, quy tắc nhất định.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
8
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí vừa có ý nghĩa giáo dục
tích cực.
1.2.2. Phân loại trò chơi
Trò chơi của trẻ em rất đa dạng, phong phú về nội dung, tính chất cũng
như cách thức tổ chức chơi. Do đó có nhiều cách phân loại khác nhau. Cụ thể:
- Phân loại trò chơi theo chức năng giáo dục và phát triển:
+ Nhóm 1: Gồm các trò chơi thực hành.
+ Nhóm 2: Gồm các trò chơi theo bản năng.
- Phân loại trò chơi theo nguồn gốc, cấu trúc gồm:
+ Các trò chơi luyện tập dành cho trẻ dưới 2 tuổi.
+ Các trò chơi kí hiệu dành cho trẻ từ 2 - 4 tuổi.
+ Các trò chơi có luật (có quy tắc) dành cho trẻ từ 4 - 7 tuổi; 12
tuổi (chủ yếu là trẻ từ 7- 12 tuổi).
- Từ những năm 80 trở lại đây, trong các trường mẫu giáo ở Việt Nam áp
dụng hệ thống phân loại trò chơi của Liên Xô cũ, chia trò chơi làm 2 nhóm là:
+ Nhóm 1: Những trò chơi sáng tạo, bao gồm các trò chơi:
- Trò chơi đóng vai trò theo chủ đề.
- Trò chơi lắp ghép - xây dựng.
- Trò chơi đóng kịch.
+ Nhóm 2: Nhóm trò chơi có luật, bao gồm các trò chơi:
- Trò chơi học tập.
- Trò chơi vận động.
Cách phân loại này đã thừa nhận khả năng sáng tạo của trẻ trong khi
chơi, coi chơi là một hoạt động tự lập của trẻ. Đây là cách phân loại có nhiều
ưu điểm hơn cả.
1.2.3. Trò chơi học tập
1.2.3.1. Trò chơi học tập và bản chất của trò chơi học tập
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
9
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Theo sách Giáo dục học Mầm non [Phạm Thị Châu, Nguyễn Thị Sinh,
Trần Thị Sinh, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội] đã cho rằng: “Trò chơi học
tập là loại trò chơi có luật tiêu biểu khi tham gia vào trò chơi này, trẻ gián
tiếp giải quyết các nhiệm vụ trí dục: củng cố, chính xác hóa các biểu tượng,
phát triển ngôn ngữ và hình thành biểu tượng mới”.
Bản chất của trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức hoạt
động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được hoạt
động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải
mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp
học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá.
1.2.3.2. Đặc thù của trò chơi học tập
Mỗi trò chơi học tập gồm 3 phần [3; Tr 103-104]
- Nội dung chơi: đây chính là nhiệm vụ học tập, nó có tính chất như
một bài toán mà trẻ phải dựa trên những điều kiện đã cho. Nội dung chơi là
thành phần cơ bản của trò chơi học tập, nó khêu gợi hứng thú sinh động của
trẻ.
- Hành động chơi: là những hành động trẻ làm trong lúc chơi. Những
hành động ấy càng phong phú, nhiều hình nhiều vẻ bao nhiêu thì số trẻ tham
gia trò chơi càng nhiều bấy nhiêu và bản thân trò chơi càng lí thú bấy nhiêu.
Những động tác chơi do cô giáo thực hiện cho phép cô có thể hướng dẫn trò
chơi thông qua “tiến trình làm thử”.
- Luật chơi: mỗi trò chơi học tập đều có luật do nội dung chơi qui định.
Những luật này có một vai trò: nó xác định tính chất, phương pháp hành
động, tổ chức và điều khiển hành vi cùng mối quan hệ lẫn nhau của đứa trẻ
trong khi chơi. Những luật này là tiêu chuẩn đánh giá hành động chơi đúng
hay sai.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
10
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Trong trò chơi học tập thì ba bộ phận trên có liên quan chặt chẽ với
nhau và chỉ cần thiếu một trong ba bộ phận chơi thì đều không thể tiến hành
trò chơi được.
Trò chơi học tập bao giờ cũng có một kết quả nhất định, đó là kết thúc
trò chơi, học sinh hình thành một nhận thức nào đó. Đối với học sinh thì kết
quả của trò chơi khuyến khích các em tích cực hơn trong các trò chơi tiếp
theo, còn đối với cô giáo thì kết quả trò chơi luôn là chỉ tiêu về mức độ thành
công hoặc sự lĩnh hội tri thức của các em.
1.2.3.3. Ý nghĩa của trò chơi học tập trong dạy học Tiểu học
Theo nhiều chuyên gia giáo dục, việc sử dụng trò chơi học tập trong
quá trình dạy học sẽ làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ năng bớt đi vẻ
khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Trò chơi là phương tiện rất quan
trọng để giáo dục trí tuệ cho các em. Cụ thể:
- Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn
học sinh do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
- Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập bằng hoạt động trí tuệ, do đó
giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là giờ học kiến thức lí thuyết mới.
- Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kĩ năng
học tập hợp tác cho học sinh, tăng hiệu quả giao tiếp giữa thầy- trò, trò - trò.
- Trò chơi giúp trẻ phát triển về tính chất, trí tuệ, hoàn thiện các quá
trình tri giác, chú ý, ghi nhớ, tư duy, tưởng tượng, sáng tạo.
- Trò chơi giúp trẻ hình thành ý chí và tính cách, bồi dưỡng cho các em
năng lực hoạt động tập thể, biết thống nhất với nhau cùng nỗ lực để giải quyết
một nhiệm vụ nào đó.
- Trò chơi giúp học sinh thay đổi động hình, tăng cường khả năng thực
hành vận dụng các kiến thức đã học, phát triển hứng thú, tập thói quen tập
trung, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
11
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thí nghiệm những chuẩn mực hành
vi, tinh thần trách nhiệm, khả năng ứng xử trong cuộc sống. Cũng trong chính
trò chơi học tập trẻ học được cách đánh giá và tự đánh giá về kết quả đã đạt
được.
Như vậy: Trò chơi học tập vừa là phương tiện dạy học, vừa là hình thức
tổ chức dạy học cho trẻ. Trò chơi là phương thức nhận biết thế giới, là con
đường dẫn dắt trẻ đi tìm chân lí. Trẻ không chỉ học trong lúc học mà còn học
cả trong lúc chơi. Trẻ em học cách tổ chức, học nghiên cứu cuộc sống “Chơi
với trẻ vừa là học, vừa là lao động, vừa là hình thức giáo dục nghiêm túc…”
(N.K.Crupxkaia) [3, Tr75].
Đánh giá cao vai trò của hoạt động chơi đối với trẻ em, nhà giáo dục
nổi tiếng A.X.Macarenco viết “Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng trong đời
sống trẻ em, có một ý nghĩa giống như ý nghĩa của hoạt động, công tác và sự
phục vụ của người lớn vậy. Trong khi chơi trẻ như thế nào thì sau này, khi lớn
lên, trong công tác, phần lớn trẻ sẽ như thế ấy. Do đó, việc giáo dục những
nhà hoạt động tương lai bắt đầu trước tiên từ trò chơi.” [3, Tr76]. Văn hào lỗi
lạc Nga Macxim Goorki cũng đã nói: “Chơi là con đường dẫn trẻ nhận thức
được cái thế giới mà các em được sống, cái thế giới mà các em có sứ mệnh
cải tạo”.
1.2.3.4. Những tiền đề quan trọng để thực hiện tốt hoạt động trò chơi học
tập cho học sinh Tiểu học
1.2.3.4.1. Nắm vững mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu dạy học nói
riêng
“Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” [5, Tr8].
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
12
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Trên cơ sở nắm vững mục tiêu giáo dục Tiểu học, người giáo viên sẽ
lựa chọn, sử dụng trò chơi trong từng hoạt động để thực hiện tốt mục tiêu đã
đề ra nhằm phát triển toàn diện nhân cách, đạo đức, trí tuệ cho học sinh.
Ngoài ra, trò chơi còn có ý nghĩa trong việc phát triển các kĩ năng ban
đầu, đó là:
- Những kĩ năng thuộc hành vi giao tiếp đối với mọi người xung quanh,
trong gia đình, nhà trường và nơi công cộng.
- Những kĩ năng học tập đơn giản.
- Một số kĩ năng hoạt động hợp tác nhóm.
1.2.3.4.2. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học
- Trẻ em đến trường là thời điểm đánh dấu bước ngoặt trong cuộc sống
và sự phát triển tâm lí của trẻ em. Với hoạt động học là chủ đạo các em được
thực hiện một cách tự giác, có tổ chức từ phía nhà trường, gia đình và xã hội
với hoạt động phong phú, đa dạng. Nhờ đó trình độ nhận thức, năng lực trí
tuệ, tư duy cùng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh được phát triển dần.
- Học sinh tiểu học luôn hiếu động, ham chơi, thích cái mới lạ, nhưng
lại chóng chán. Đối với trẻ, trò chơi là phát hiện mới, kích thích tính tò mò,
muốn tìm hiểu khám phá.
- Do cơ thể trẻ chưa hoàn thiện về chức năng sinh lí nên các em thiếu
kiên trì, thiếu bền bỉ và dễ mệt mỏi.
- Các em dễ hưng phấn nhưng cũng dễ chán nản. Khi được khích lệ các
em dễ hưng phấn, xuất hiện những biểu hiện nhiệt tình, say sưa, dễ cười, dễ
khóc. Khi gặp thất bại, rủi ro các em dễ bị kích động dẫn đến chán nản, bi
quan, mất lòng tin và dễ có hành động xốc nổi: dỗi, buồn, khóc… Đây là một
trong những đặc điểm cần lưu ý khi tiến hành hoạt động vui chơi.
- Học sinh Tiểu học có tình cảm hồn nhiên, mang nặng màu sắc cảm tính
nên thường không bền vững. Ở đầu cấp Tiểu học, nhận thức cảm tính là chủ
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
13
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
yếu, nhận thức lí tính chưa phát triển, tư duy trực quan chiếm ưu thế nên
những lời khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu sinh động sẽ khó gây cảm xúc ở trẻ.
Mỗi giáo viên cần hiểu và nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí nói trên
của học sinh Tiểu học. Bởi nó được coi là cơ sở khoa học của việc xác định
mục tiêu, nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức trò chơi, là nhân
tố đảm bảo thành công của việc sử dụng phương pháp trò chơi.
1.2.3.5. Nguyên tắc lựa chọn và thiết kế trò chơi
1.2.3.5.1. Nguyên tắc lựa chọn trò chơi
- Đảm bảo tính giáo dục.
- Đảm bảo phù hợp với năng lực, trình độ của học sinh tiểu học, không
quá khó hoặc quá đơn giản.
- Mục đích của trò chơi phải thể hiện được mục tiêu bài học hoặc một
phần của chương trình.
- Đảm bảo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của lớp học và
phù hợp với quỹ thời gian.
- Hình thức chơi đa dạng, giúp học sinh thay đổi các hoạt động học tập
trên lớp, phối hợp hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động.
- Luật chơi đơn giản, dễ thực hiện, cần đưa ra cách chơi có nhiều học
sinh tham gia để tăng cường kĩ năng học tập hợp tác.
1.2.3.5.2. Nguyên tắc tổ chức trò chơi
- Nguyên tắc 1: Đảm bảo cho học sinh hiểu rõ yêu cầu, nội dung và
cách tổ chức trò chơi.
Trò chơi phải có tác dụng định hướng đối với toàn bộ quá trình dạy học
và trò chơi phải nhằm đáp ứng yêu cầu, mục đích của bài học. Vì vậy trước
khi chơi, giáo viên cần giải thích rõ ràng và đầy đủ những yêu cầu cần đạt, nội
dung và cách thực hiện trò chơi. Nếu không các em sẽ tiến hành trò chơi một
cách tự phát, tùy tiện và sẽ không thu được kết quả dạy học như mong muốn.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
14
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
- Nguyên tắc 2: Đảm bảo phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo
của học sinh trong quá trình tổ chức trò chơi.
Học sinh không những là đối tượng của hoạt động dạy cũng như hoạt
động giáo dục mà điều quan trọng hơn các em chính là chủ thể nhận thức, chủ
thể giáo dục. Vì vậy, trong quá trình tổ chức trò chơi giáo viên cần lựa chọn
cách tổ chức trò chơi với mức độ tham gia của học sinh từ thấp đến cao như
sau:
+ Giáo viên chọn, hướng dẫn và tổ chức trò chơi.
+ Giáo viên chọn và hướng dẫn trò chơi còn học sinh thì tự tổ chức trò
chơi.
Đối với nhà sư phạm, cách tốt nhất là vận dụng linh hoạt các hình thức
trên, tuyệt đối không nên cường điệu hóa một mức độ cụ thể nào. Vì sự cường
điệu hóa này tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả không tốt. Nếu cường điệu hóa mức
độ đầu tiên thì giáo viên sẽ đẩy học sinh vào thế bị động. Nếu cường điệu hóa
mức độ cuối cùng thì có thể dẫn đến tình trạng quá sức và trò chơi sẽ không
mang lại hiệu quả.
- Nguyên tắc 3: Đảm bảo tổ chức trò chơi một cách tự nhiên không gò
bó, gò ép.
Khi tổ chức trò chơi, đặc biệt là trò chơi sắm vai cần hướng dẫn để các
em tham gia một cách tự nhiên không gò bó, gượng gạo và như vậy các em sẽ
nhập vai thành công. Khi đó các em sẽ vui chơi một cách thoải mái, thực hiện
được các mục tiêu đặt ra.
- Nguyên tắc 4: Đảm bảo luân phiên các trò chơi một cách hợp lí.
Ở học sinh tiểu học, hứng thú và khả năng chú ý có chủ định chưa bền
vững, do đó không nên tổ chức một trò chơi quá dài, quá lâu. Nhà sư phạm
cần căn cứ vào yêu cầu dạy học của từng thời điểm và đặc điểm tâm lí học
sinh mà lựa chọn một số trò chơi thích hợp, có thể luân phiên nhau giúp cho
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
15
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
học sinh chuyển hướng chú ý và hứng thú một cách hợp lí nhằm phục vụ cho
những yêu cầu, mục tiêu dạy học đã đặt ra.
- Nguyên tắc 5: Đảm bảo trò chơi với tinh thần “thi đua” đồng đội.
Trong khi tổ chức trò chơi có tinh thần đồng đội, giáo viên cần quan
tâm đến “yếu tố thi đua”, cần có chuẩn và thang đánh giá thành tích của cá
nhân cũng như thành tích của đồng đội, để kích thích tính thi đua, phấn đấu
của học sinh.
Những nguyên tắc này có liên quan mật thiết với nhau, có tác dụng chỉ
đạo việc lựa chọn và thực hiện những trò chơi trong tiết học theo một quy
trình nhất định.
1.2.3.6. Quy trình lựa chọn và tổ chức trò chơi học tập
Trong cuốn “Tổ chức hoạt động vui chơi ở Tiểu học” tác giả Hà Nhật
Thăng đưa ra qui trình tổ chức trò chơi học tập gồm 4 giai đoạn và chia thành
10 bước như sau:
a) Giai đoạn 1: Lựa chọn trò chơi
- Bước 1: Đưa ra mục tiêu của bài học, phân tích xem cần phải rèn
luyện kĩ năng nào?
- Bước 2: Lựa chọn trò chơi, phân tích xem trò chơi đó sẽ rèn luyện
được những gì?
- Bước 3: Đối chiếu trò chơi lựa chọn với mục tiêu cần đạt tới xem có
phù hợp không, có đem lại hiệu quả cao không. Nếu không phù hợp thì quay
lại bước 2, chọn thử trò chơi khác và tiến hành theo các bước đã định.
b) Giai đoạn 2: Chuẩn bị trò chơi
- Bước 4: Thiết kế giáo án trò chơi:
+ Tên trò chơi.
+ Mục đích đặt ra cho học sinh chơi (qua trò chơi cần đạt được những
yêu cầu nào về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hành vi).
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
16
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
+ Hình thức tổ chức trò chơi: tổ, nhóm, tập thể lớp, cá nhân.
+ Các phương tiện phục vụ cho việc tổ chức trò chơi (tùy thuộc vào
từng trò chơi mà lựa chọn phương tiện cho phù hợp).
+ Nội dung trò chơi, các hoạt động cụ thể, cách tiến hành.
+ Dự kiến thưởng, phạt (nếu có).
+ Đưa ra chuẩn và thang đánh giá.
- Bước 5: Chuẩn bị thực hiện giáo án trò chơi:
Chuẩn bị đầy đủ và có chất lượng các phương tiện, đồ dùng (do giáo
viên chuẩn bị hoặc có thể cho học sinh tự chuẩn bị dưới sự hướng dẫn của
giáo viên).
c) Giai đoạn 3: Tổ chức trò chơi
- Bước 6: Đặt vấn đề:
+ Giới thiệu trò chơi.
+ Nêu yêu cầu trò chơi.
- Bước 7: Giới thiệu mạch lạc, rõ ràng, cụ thể từng nội dung trò chơi
với các hoạt động cụ thể sau đó giáo viên có thể làm mẫu cho học sinh xem.
- Bước 8: Cho học sinh thực hành chơi theo các hoạt động đã nêu, theo
dõi, uốn nắn kịp thời hành động chưa chính xác, đánh giá những kết quả bộ
phận cô giáo sử dụng những phương pháp khác nhau trong khi hướng dẫn trò
chơi để tác động đến học sinh và tự học sinh thực hiện các vai trong trò chơi.
Giáo viên có thể trực tiếp tham gia trò chơi như một thành viên của tập thể
lớp để thực hiện các nhiệm vụ, hành động của luật chơi và cái mà trẻ khó thực
hiện khi cô không tham gia trực tiếp vào trò chơi. Giáo viên giữ vai trò như
người đạo diễn hướng dẫn sự phát triển của hành động chơi, luật chơi, phát
hiện ra không khí để trẻ dẫn đến kết quả. Giáo viên phải là người giữ nhịp
điệu hợp lí của trò chơi, không cho phép lề mề, chậm chạp quá cũng như sự
vội vã và không cần thiết để tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
17
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
d) Giai đoạn 4: Kết thúc trò chơi
- Bước 9: Học sinh nêu nhận xét đánh giá, rút ra ý nghĩa giáo dục của
trò chơi.
- Bước 10: Trao phần thưởng hoặc tổ chức hình phạt (nếu có).
Tuy nhiên, đây chỉ là một quy trình mềm dẻo, linh hoạt, sự phân chia
các giai đoạn chỉ có tính chất tương đối. Trong thực tế các bước của các giai
đoạn này có thể đan xen, hòa nhập vào nhau, thậm chí trong một số trường
hợp, tùy theo mục đích, nội dung bài học có thể tiến hành dạy học bỏ qua một
hoặc một vài bước cụ thể.
Để đảm bảo sự thành công trong một giờ dạy khi áp dụng phương pháp
này thì giáo viên phải đặc biệt chú ý đến các yếu tố: mục tiêu bài học, các
nguyên tắc, nguyên lí, quá trình lựa chọn và tổ chức trò chơi, phải có sự
chuẩn bị kĩ và đầy đủ ngay từ khâu soạn giáo án trò chơi.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
18
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
CHƯƠNG 2: MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2
VÀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI HỌC TẬP
2.1. MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2
2.1.1. Mục tiêu môn Tiếng Việt lớp 2
Chương trình Tiểu học ban hành kèm theo Quyết định số 43/2001QĐ –
BGD&ĐT ngày 9 tháng 11 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
(chương trình Tiểu học mới) đã xác định mục tiêu của môn học là:
- Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi.
Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.
- Cung cấp cho HS các kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học
của Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói trên được cụ thể hóa thành
mục tiêu môn học Tiếng Việt lớp 2 cho phù hợp với học sinh lớp 2.
2.1.2. Đặc điểm nội dung môn Tiếng Việt lớp 2
2.1.2.1. Chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 được xây dựng theo quan
điểm giao tiếp
Để thực hiện mục tiêu “Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng
sử dụng tiếng Việt” với những yêu cầu cụ thể như đã trình bày, SGK Tiếng
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
19
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Việt 2 dạy học sinh từ những nghi thức lời nói thông thường như chào hỏi,
cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, từ chối… đến những kĩ năng làm việc và giao tiếp
cộng đồng như lập danh sách lớp, tra mục lục sách, đọc thời khóa biểu, lập
thời gian biểu, viết thư, gọi điện… Thông qua các phân môn Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu và Tập làm văn, SGK tạo ra
những môi trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh phát triển các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) của mình. Đó là thực hiện quan điểm
giao tiếp trong dạy học.
2.1.2.2. Chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 thể hiện quan điểm tích hợp
Để thực hiện các mục tiêu rèn luyện tư duy, cung cấp những kiến thức
sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con
người, về văn hóa và văn học; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và nhân cách cho
học sinh, SGK tổ chức hệ thống bài học theo chủ điểm, dẫn dắt học sinh dần
đi vào các lĩnh vực của đời sống. Qua đó tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của
các em về nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời cũng mở cửa cho các em
bước vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn của chính mình. Đó
là sự thể hiện một phần quan điểm tích hợp trong dạy học.
2.1.2.3. Chương trình môn Tiếng Việt lớp 2 xây dựng theo hướng tích cực
hóa hoạt động của học sinh
Nội dung và phương pháp dạy học bao giờ cũng gắn bó với nhau. Mỗi
nội dung đòi hỏi một phương pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể
hình thành và phát triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát
triển những kĩ năng này, học sinh phải được hoạt động trong môi trường giao
tiếp dưới sự hướng dẫn của thầy, cô. Các kiến thức về ngôn ngữ, văn hóa, văn
học, tự nhiên và xã hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, nhưng các em chỉ
làm chủ được những kiến thức này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính
hoạt động có ý thức của mình. Nhờ đó những tư tưởng, tình cảm và nhân cách
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
20
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
tốt đẹp chỉ có thể được hình thành chắc chắn thông qua sự rèn luyện trong
thực tế. Đó là nguyên nhân ra đời phương pháp dạy học mới – phương pháp
tích cực hóa hoạt động của người học. Trong việc rèn luyện các kĩ năng giao
tiếp, tích cực hóa hoạt động của người học cũng là một sự thể hiện của quan
điểm giao tiếp.
2.1.3. Các phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 2
Do đặc trưng riêng của môn Tiếng Việt nên ngoài các phương pháp dạy
học ở Tiểu học thì môn Tiếng Việt lớp 2 sử dụng chủ yếu các phương pháp
sau:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Đây là phương pháp được sử dụng một cách có hệ thống trong việc
xem xét tất cả các mặt của ngôn ngữ: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng nhằm tạo ra
điểm giống và khác nhau sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định. Tất cả các
dạng phân tích ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của nhiều bài tập khác
nhau: bài tập đọc, tập viết, chính tả…với nhiệm vụ mang tính phân tích.
- Phương pháp luyện theo mẫu:
Phương pháp luyện theo mẫu là phương pháp mà học sinh tạo ra các
đơn vị ngôn ngữ, lời nói bằng mô phỏng lời thầy giáo, sách giáo khoa… được
thể hiện thông qua các bài tập như: đặt câu theo mẫu cho trước, phát âm hoặc
đọc diễn cảm theo thầy giáo. Phương pháp này thường được sử dụng trong
giờ tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn.
- Phương pháp giao tiếp:
Đây là phương pháp dạy tiếng dựa vào lời nói, vào những thông báo
sinh động, vào giao tiếp bằng ngôn ngữ để phát triển lời nói cho từng cá nhân
học sinh. Phương pháp này gắn liền với phương pháp luyện theo mẫu, coi
trọng sự phát triển lời nói còn những kiến thức lí thuyết thì được nghiên cứu
trên cơ sở phân tích các hiện tượng đưa ra trong bài khóa. Để thực hiện
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
21
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
phương pháp giao tiếp cần có môi trường giao tiếp, các phương tiện ngôn ngữ
và các thao tác giao tiếp.
2.2. MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2 VẤN ĐỀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP
TRÒ CHƠI HỌC TẬP
2.2.1. Đặc điểm và ý nghĩa việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập
trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 2
Môn Tiếng Việt lớp 2 gồm 6 phân môn, số lượng các trò chơi được giới
thiệu trong SGK Tiếng Việt 2 là rất ít, chủ yếu dưới dạng trò chơi thi tìm từ
và trò chơi với ô chữ trong một số bài của phân môn Luyện từ và câu, phân
môn Chính tả. Song do bản chất môn học là các ngữ liệu ngôn ngữ và tùy
từng bài học mà giáo viên nên thiết kế nội dung bài học thành các trò chơi để
giúp cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng hơn, giúp cho việc
rèn luyện kĩ năng đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, tùy thuộc vào cách tổ chức giờ
dạy của mỗi giáo viên mà trò chơi có thể sử dụng ở bất kì bước lên lớp nào,
nhưng nhất thiết phải có 2 bước:
- Bước 1: Tổ chức chơi để làm quen với kiến thức, thành thạo kĩ năng.
- Bước 2: Rút ra bài học để các em nhận thức rõ bài học từ trò chơi.
Xuất phát từ mục tiêu môn Tiếng Việt lớp 2, mục tiêu các phân môn và
nội dung bài học cụ thể mà giáo viên tổ chức thành các trò chơi giúp trẻ có
hứng thú học tập, tích cực tham gia vào hoạt động thực hành rèn luyện các kĩ
năng đọc, viết, nghe, nói, đồng thời tiếp thu kiến thức của bài học một cách
hiệu quả. Thông qua trò chơi học tập, học sinh còn được phát triển cả về cả về
trí tuệ, thể lực và nhân cách.Tuy nhiên, do phạm vi không gian chật hẹp, thời
gian ngắn ngủi, chơi với số người tham dự đông nên hình thức vui chơi có
phần hạn chế, chủ yếu với ba hình thức: tiếp sức, tăng tốc và cùng đồng đội.
Như vậy: Việc tổ chức trò chơi trong giờ học Tiếng Việt lớp 2 là rất
quan trọng. Việc đưa trò chơi vào lớp học đã đáp ứng cùng một lúc hai nhu
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
22
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
cầu của trẻ: nhu cầu học tập và nhu cầu vui chơi. Do đó, mỗi giáo viên cần
nắm vững nguyên tắc lựa chọn, tổ chức trò chơi học tập cho học sinh để vận
dụng phù hợp, linh hoạt vào các bài học cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giờ
học.
2.2.2. Các trò chơi học tập sử dụng trong dạy học Tiếng Việt lớp 2
2.2.2.1. Trò chơi về Tập đọc
Phân môn Tập đọc lớp 2 có nhiệm vụ:
- Phát triển các kĩ năng đọc và nghe là chủ yếu và rèn tư thế đọc đúng
cho học sinh.
- Đồng thời trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở
rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống.
- Qua đó, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong
sáng; tình yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử trong cuộc sống;
hứng thú đọc sách và yêu thích tiếng Việt.
Để đạt hiệu quả cao trong giờ dạy Tập đọc, giáo viên có thể tổ chức
một số trò chơi sau:
* Trò chơi: Đọc văn (thơ) tiếp sức.
* Trò chơi: Đọc thơ truyền điện.
* Trò chơi: Ghép các dòng thơ thành bài.
* Trò chơi: Nhớ nhanh, đọc đúng.
* Trò chơi: Tìm nhanh, đọc đúng.
* Trò chơi: Biết một câu đọc cả đoạn.
* Trò chơi: Nghe đọc đoạn, đoán tên bài.
* Trò chơi: Thi đọc truyện theo vai.
* Trò chơi: Thi đọc đồng thanh.
* Trò chơi: Phát hiện chỗ sai, sửa lại cho đúng.
* Trò chơi với sơ đồ.
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
23
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.2.2.2. Trò chơi về Kể chuyện
Phân môn Kể chuyện ở lớp 2 có nhiệm vụ:
- Phát triển các kĩ năng nói và nghe cho học sinh.
-
Củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy
hình tượng và tư duy lôgic cho học sinh, nâng cao sự hiểu biết của
các em về đời sống qua những câu chuyện có nội dung phong phú
và phức tạp hơn lớp 1. Đồng thời bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau
dồi kiến thức đọc và kể chuyện, đem lại niềm vui tuổi thơ cho học
sinh trong hoạt động học tập.
Để giờ học Kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn các em, giáo viên có thể tổ
chức cho các em chơi một số trò chơi sau:
* Trò chơi: Nhìn tranh, kể chuyện.
* Trò chơi: “Nối dây” kể chuyện.
* Trò chơi: Bắt lỗi kể sai.
* Trò chơi: Thi tài kể hay.
* Trò chơi: Phân vai dựng chuyện.
2.2.2.3. Trò chơi về Chính tả
Phân môn Chính tả lớp 2 có nhiệm vụ:
+ Rèn luyện kĩ năng viết, kĩ năng nghe cho học sinh. Các chỉ tiêu cần
đạt là viết đúng mẫu chữ, đúng chính tả, không mắc quá 5 lỗi/1 bài (trên dưới
50 chữ), tốc độ viết 3,4 chữ/1 phút.
+ Kết hợp luyện chính tả với việc rèn luyện cách phát âm, củng cố
nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng Việt, góp phần phát triển một số thao
tác tư duy (nhận xét, so sánh, liên tưởng, ghi nhớ…).
+ Bồi dưỡng một số đức tính, thái độ, tác phong cần thiết trong công
việc: tính cẩn thận, tác phong làm việc chính xác, óc thẩm mĩ…
Trong giờ dạy Chính tả, giáo viên có thể tổ chức cho các em một số trò chơi:
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
24
Khóa luận tốt nghiệp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
* Trò chơi: Tìm tên cây có chữ s hoặc x.
* Trò chơi: Thi tìm tên con vật bắt đầu bằng ch hoặc tr.
* Trò chơi: Tìm tiếng có nghĩa để đặt câu.
* Trò chơi: Chơi bài viết đúng d hoặc gi.
* Trò chơi: Thi tìm từ có vần an hoặc ang.
* Trò chơi: Tìm từ có vần gần giống nhau..
* Trò chơi: Câu cá – viết chữ.
* Trò chơi: Cùng đi du lịch.
2.2.2.4. Trò chơi về Luyện từ và câu
Phân môn này ở lớp 2 giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ, nắm
nghĩa của từ, phân loại vốn từ và luyện tập sử dụng từ. Ở lớp 2 các em còn
được làm quen với ba kiểu câu trần thuật đơn (Ai là gì?, Ai làm gì?, Ai thế
nào?) và một số thành phần trong câu; tập dùng một số dấu câu, trọng tâm là
dấu chấm, dấu phẩy.
Để phát triển các kĩ năng nói trên cho học sinh, giáo viên có thể tổ chức
cho các em chơi một số trò chơi trong giờ dạy Luyện từ và câu là:
* Trò chơi: Ghép nhanh tên sự vật.
* Trò chơi: Tìm nhanh từ cùng chủ đề.
* Trò chơi: Tìm nhanh từ có phụ âm đầu giống nhau.
* Trò chơi: Tìm nhanh từ có tiếng giống nhau.
* Trò chơi: Tìm nhanh từ đồng nghĩa (trái nghĩa).
* Trò chơi: Tìm “kẻ trú ẩn”.
* Trò chơi: Thi ghép tiếng thành từ.
* Trò chơi: Đoán từ.
* Trò chơi: Xếp từ theo nhóm.
* Trò chơi: Ai đúng, ai sai?
* Trò chơi: Ai tài so sánh?
Vũ Thị Hiệp - K32A - Giáo dục Tiểu học
25