Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Tìm hiểu thực trạng về việc sử dụng phuơng pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn tiếng việt của học sinh lớp 4 ở một số trường tiểu học khu vực thị xã phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.7 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TRẦN THỊ THU HÀ

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM KHÁCH
QUAN TRONG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT
QUẢ HỌC TẬP MÔN TIẾNG VIỆT CỦA HỌC
SINH LỚP 4 Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC
KHU VỰC THỊ XÃ PHÚC YÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC

Người hướng dẫn khoa học

Th.S: Nguyễn Thị Xuân Lan

Trần Thị Thu Hà

1

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp



Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa Giáo dục
Tiểu học, tổ bộ môn tâm lý giáo dục đã tạo điều kiện trong suốt thời gian em
học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Nguyễn Thị Xuân
Lan, người đã hướng dẫn, động viên, tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa
luận này.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, các em học
sinh trường tiểu học A Xuân Hòa, trường tiểu học Đồng Xuân, tiểu học Trưng
Nhị đã giúp đỡ em trong quá trình khảo sát thực tế.
Do thời gian nghiên cứu và vốn kiên thức còn hạn chế, đề tài của em
còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được lời góp ý, sự chỉ bảo của các thầy
cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên

TRẦN THỊ THU HÀ

Trần Thị Thu Hà

2

K34A - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của mình. Những số
liệu và kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được
công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Trần Thị Thu Hà

Trần Thị Thu Hà

3

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

KÍ HIỆU VIẾT TẮT


GV: giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
SGV: Sách giáo viên
NXB: Nhà xuất bản
NXBGD: Nhà xuất bản giáo dục
NXBĐHSP: Nhà xuất bản đại học Sư phạm
ĐHSPHN: Đại học Sư phạm Hà nội
HN: Hà Nội
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh

Trần Thị Thu Hà

4

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài (T. 7)
2. lịch sử nghiên cứu vấn đề (T. 8)
3. Mục đích nghiên cứu (T. 10)
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu (T. 10)

5. Phạm vi nghiên cứu (T. 10)
6. Nhiệm vụ nghiên cứu (T. 10)
7. Giả thuyết khoa học (T. 11)
8. Các phương pháp nghiên cứu (T. 11)
9. Kế hoạch nghiên cứu (T. 11)
10. Cấu trúc khóa luận (T. 11)

Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận (T. 13)
1.1 Một số vấn đề về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học ( T.13)
1.1.1 Kiểm tra (T.13)
1.1.2 Đánh giá ( T.17)
1.1.3 Quan hệ giữa kiểm tra và đánh giá ( T.18)
1.1.4 Vai trò của kiểm tra đánh giá ( T.19)
1.2 Kiểm tra đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan ( T.21)
1.2.1 Khái niệm ( T.21)
1.2.2 Phân biệt trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận ( T.21)
1.2.3 Ưu nhược điểm của trắc nghiệm khách quan (T.25)
1.2.4 Các loại trắc nghiệm khách quan (T.25)
1.2.5 Quy trình kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan (T.28)
1.2.6 Kỹ thuật xây dựng trắc nghiệm khách quan (T.28)

Trần Thị Thu Hà

5

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2.7 Yêu cầu của đề trắc nghiệm khách quan ( T.32)
Chương 2: Môn Tiếng Việt lớp 4 và vấn đề sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh (T.34)
2.1 Môn Tiếng Việt lớp 4 và vấn đề sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập (T.34)
2.1.1 Đặc điểm của môn Tiếng Việt 4 (T.34)
2.1.2 Mục tiêu dạy học Tiếng Việt lớp 4 (T.36)
2.1.3 Các hình thức kiểm tra, đánh giá môn Tiếng Việt đối với học sinh lớp 4
(T.37)
2.1.4 Môn Tiếng Việt và vấn đề sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt 4
Chương 3: Thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học
sinh lớp 4 một số trường Tiểu học khu vực thị xã Phúc Yên (T.39)
3.1 Thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 4 (T.39)
3.1.1 Thực trạng nhận thức của giáo viên về phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4 (T.39)
3.1.2 Thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4 (T.41)
3.2 Nguyên nhân và biện pháp (T.54)
3.2.1 Nguyên nhân (T.54)
3.2.2 Biện pháp (T.57)

Phần 3: KẾT LUẬN (T.61)
TÀI LIỆU THAM KHẢO (T.63)


Trần Thị Thu Hà

6

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. lí do chọn đề tài
Tiểu học là bậc học nền tảng. Nó không chỉ là cơ sở để con người phát
triển toàn diện về mặt tư duy, nhận thức, mà còn là cơ sở để con người hình
thành các phẩm chất đạo đức, năng lực cần thiết của con người lao động mới.
Kiểm tra, đánh giá là khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy
học nói chung, trong dạy học ở Tiểu học nói riêng. Kiểm tra nhằm mục đích
giúp giáo viên nắm được trình độ kiến thức của học sinh. Từ đó giáo viên
điều chỉnh phương pháp dạy học, bổ xung những khiếm khuyết, lỗ hổng về
kiến thức cho học sinh. Đồng thời kiểm tra, đánh giá còn giúp học sinh tự
đánh giá, tự kiểm tra việc nắm vững kiến thức của mình để tự điều chỉnh hoạt
động học.
Để tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá và phát huy ý nghĩa của
kiểm tra, đánh giá thành quả học tập, ở nhiều nước trên thế giới đã sử dụng
phổ biến phương pháp trắc nghiệm khách quan. Đó là phương pháp có rất
nhiều ưu điểm như: đảm bảo tính khách quan khi chấm bài, cho phép trong
thời gian ngắn kiểm tra được số lượng kiến thức lớn, gây được hứng thú và
tính tích cực học tập cho học sinh….

Môn Tiếng Việt là một môn học có tính chất công cụ. Để đáp ứng mục
tiêu giáo dục Tiểu học, chương trình môn Tiếng Việt đã đưa ra những mục
tiêu môn học nhằm khơi dậy tính tích cực hoạt động của học sinh. Ở môn học
này, trong những năm gần đây các nhà sư phạm đã sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan tương đối rộng rãi trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh và đã đạt được những kết quả ban đầu.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bằng trắc nghiệm khách quan không
phải là vấn đề hoàn toàn mới. Cho đến nay đã có nhiều bài viết, công trình

Trần Thị Thu Hà

7

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Song chủ yếu mới chỉ là nghiên cứu về
mặt lí luận của phương pháp này, còn thực trạng việc sử dụng phương pháp
trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến. Kế thừa những thành tựu
của công trình nghiên cứu và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn nên em đã chọn
đề tài: “Tìm hiểu thực trạng về việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh
lớp 4 ở một số trường Tiểu học khu vực thị xa Phúc Yên” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trắc nghiệm khách quan là hình thức kiểm tra, đánh giá đã được sử

dụng từ rất lâu trên thế giới:
- Từ thế kỉ XIX, Francis Galta (Anh) và sau đó là M.Cattell (Mỹ) đã sử
dụng trắc nghiệm về khả năng trí tuệ.
- Đến thế kỉ XX, E.Toocđaica là người đầu tiên dùng trắc nghiệm để đo
trình độ kiến thức của học sinh đối với bộ môn số học.
- Năm 1904 A.Binet – nhà tâm lí học người Pháp đã nghiên cứu khả
năng dùng trắc nghiệm để xác định mức độ chậm phát triển trí tuệ của trẻ em.
- Năm 1928 Mâyli đã dùng trắc nghiệm để nghiên cứu trí tuệ phục vụ tư
vấn nghề nghiệp và giáo dục phổ thông.
- Tại Mỹ, đầu thế kỉ XX bắt đầu sử dụng phương pháp trắc nghiệm
khách quan vào trong dạy học và đến năm 1963 đã sử dụng máy tính điện tử
thăm dò bằng trắc nghiệm trên diện rộng. Ở Anh, thành lập hội đồng toàn
quốc hàng năm để tim ra các mẫu trắc nghiệm tiêu chuẩn cho trường Trung
học. Ở Trung Quốc, trắc nghiệm khách quan được áp dụng vào kì thi tuyển
sinh đại học trên cả nước từ năm 1989. Ở Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan cũng sử
dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan vào các kì thi trên quy mô toàn
quốc

Trần Thị Thu Hà

8

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Trong những năm gần đây hầu hết các nước trên thế giới đề sủ dụng

phương pháp trắc nghiệm khách quan một cách phổ biến và rộng rãi trong quá
trình dạy học.
- Ở Việt Nam trong thập kỉ 70 của thế kỉ XX đã có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong các lĩnh vực: Tâm lí học, sinh học, vật lí…và các khoa học khác.
- Vào năm 1994, Vụ Đại học cho in cuốn “ những cơ sở của kĩ thuật trắc
nghiệm” do GS.TS Lâm Quang Thiệp chủ biên.
- Nghiêm Xuân Hùng và GS.TS Lâm Quang Thiệp(1995), biên dịch
“trắc nghiệm và đo lường cơ bản trong giáo dục”, bộ GD&ĐT vụ Đại học, Hà
Nội.
- Hiện nay, phương pháp trắc nghiệm khách quan đang được sử dụng
khá phổ biến trong các kì thi ở tất cả các bậc học, đặc biệt là các kì thi tuyển
sinh vào các trường đại học, cao đẳng. Trong kì thi tuyên sinh vào Đại học
năm 2006, lần đầu tiên hình thức thi trắc nghiệm khách quan được áp dụng
với môn Ngoại ngữ. PGS.TS Nguyễn Hữu Lân đánh giá đó là “một khâu đột
phá, một cuộc cách mạng đầu tiên trong chiến lược cải cách giáo dục nói
chung”.
Ở Tiểu học: có rất nhiều tác giả viết về việc sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh Tiểu
học:
Tác giả Nguyễn Phụng Hoàng, Vũ Ngọc Lan (2006) có cuốn “ phương
pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đo lường kết quả học tập”.
Tác giả Phó Đức Hòa có công trình “lí thuyết trắc nghiệm khách quan
và thiết kế bài tập trắc nghiệm ở Tiểu học”, xuất bản tháng 4 năm 2008.
Như vậy, trắc nghiệm khách quan đã và đang được sử dụng khá phổ
biến trong quá trình dạy học trên thế giới cũng như Việt Nam.

Trần Thị Thu Hà

9


K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3. Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm rõ cơ sở lý luận của phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, chúng tôi tìm hiểu thực
trang việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong quá trình kiểm
tra đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4 ở Tiểu học.
Trên cơ sở đó tìm hiểu những nguyên nhân, biện pháp nhằm nâng cao
kết quả học tập nói chung trong quá trình dạy học.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
Thực trạng sử dụng các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh lớp 4.
4.2 Đối tượng nghiên cứu
Thực trang việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 4.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu còn có hạn nên phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm
khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học
sinh lớp 4 khu vực thị xã Phúc Yên.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận của phương pháp trắc nghiệm khách quan trong
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh Tiểu học

6.2 Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh ở một
số trường Tiểu học khu vực thị xã Phúc Yên
6.3Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng và đề xuất biện pháp khắc phục

Trần Thị Thu Hà

10

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

7. Giả thuyết khoa học
Nếu tìm hiểu đúng thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh
lớp 4 và đề xuất một số biện pháp hợp lí sẽ nâng cao chất lượng kiểm tra,
đánh giá nói riêng và chất lượng dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung.
8. Các phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
 Phương pháp trò chuyện
 Phương pháp điều tra
 Phương pháp quan sát
 Phương pháp thống kê toán học.
9. Kế hoạch nghiên cứu
 tháng 10 năm 2011 nhận đề tài nghiên cứu
 Từ tháng 10/2011 đến tháng 1/2012: Nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu

cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
 Từ tháng 1/2012 đến tháng 4/2012: Tiến hành tìm hiểu thực trạng
việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4 ở một số trường Tiểu học khu
vực thị xã Phúc Yên.
 Tháng 4/2012: Phân tích tài liệu, số liệu, hoàn thành bản viết lần 1.
 Tháng 5/2012: Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
10. Cấu trúc của khóa luận tốt nghiệp
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Môn Tiếng Việt Tiểu học và vấn đề sử dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Trần Thị Thu Hà

11

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 3: Thực trạng việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt lớp 4 của học sinh ở
một số trường Tiểu học khu vực thị xã Phúc Yên.
Phần 3: Kết luận - kiến nghị


Trần Thị Thu Hà

12

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.Một số vấn đề về kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học
1.1.1.Kiểm tra
1.1.1.1.Khái niệm kiểm tra
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “Kiểm tra là sự
xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét”. [523;12]
Theo Trần Bá Hoành thì “Việc kiểm tra cung cấp dữ kiện, những thông
tin làm cơ sở cho việc đánh giá”.
- Kiểm tra: Là thuật ngữ chỉ cách thức hoạt động của giáo viên, sử dụng để
thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kĩ năng và thái độ của học sinh
trong học tập nhằm cung cấp dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh giá.
- Kiểm tra định tính và định lượng
+Kiểm tra theo định hướng định tính là phương thức thu thập thông tin về
kết quả học tập và rèn luyện của học sinh bằng cách quan sát và ghi nhận xét
dựa theo các tiêu chí giáo dục
+Kiểm tra theo hướng định lượng là phương thức thu thập thông tin về kết
quả học tập của học sinh bằng số như là điểm số hoặc số lần thực hiện của

những hoạt động nào đó.
Cách thức và phương tiện ghi nhận kết quả học tập của học sinh bằng
điểm số hay số lần thực hiện theo quy tắc đã tính trong kiểm tra là mang tính
chất định lượng. Còn chính điểm số vẫn chỉ là những kí hiệu gián tiếp phản
ánh trình độ, học lực của mỗi học sinh mang ý nghĩa định tính. Như vậy bản
thân điểm số không có ý nghĩa về mặt định lượng. Ví dụ trong thang điểm 10
không thể nói trình độ của học sinh đạt điểm 8 là cao gấp đôi học sinh đạt
điểm 4.

Trần Thị Thu Hà

13

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Kiểm tra trắc nghiệm và tự luận
+Phương pháp kiểm tra mà chúng ta vẫn thường dùng lâu nay được các
chuyên gia gọi là “Trắc nghiệm tự luận”. Phương pháp mới để đo lường thành
quả học tập của học sinh dựa trên thao tác tư duy lựa chọn được gọi là trắc
nghiệm khách quan. Từ “Khách quan” ở đây chỉ sự khách quan trong bộc lộ
kiến thức và khách quan trong việc chấm điểm. Thuật ngữ “Trắc nghiệm
khách quan” và “Trắc nghiệm tự luận” để phân biệt mang tính hình thức. Điều
này không có nghĩa trắc nghiệm tự luận là không khách quan va ngược lại.
+Tự luận cho phép tự do tương đối nào đó để trả lời một vấn đề đặt ra
nhưng đồng thời đòi hỏi nhớ kiến thức hơn là nhận biết thông tin và phải biết

sắp xếp, diễn đạt ý kiến một cách chính xác, sáng sủa. Bài tự luận trong một
chừng mực nào đó được chấm điểm một cách chủ quan, với người chấm khác
nhau điểm số có thể khác nhau. Thông thường một bài tự luận gồm ít câu hỏi
hơn do đó cần phải có nhiều thời gian để trả lời một câu hỏi.
Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học cho phép dùng một loạt
những động tác xác định để nghiên cứu một hay nhiều đặc điểm nhân cách,
phân biệt được bằng thực nghiệm với mục tiêu đi đến những mệnh đề lượng
hóa tối đa có thể được về mức độ biểu hiện tương đối của đặc điểm cần
nghiên cứu.
1.1.1.2.Các phương pháp kiểm tra
- Quan sát theo dõi học sinh thường xuyên là phương pháp kiểm tra hay đánh
giá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nó chỉ được thưc hiện tốt trong điều kiện dạy
học mà ở đó học sinh được hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo. Học sinh
được độc lập làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, được phát biểu, được
tranh luận. Có các loại quan sát sau:
+ Quan sát quá trình: Là theo dõi hoặc lắng nghe học sinh đang thực hiện
các quá trình học tập.

Trần Thị Thu Hà

14

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

+ Quan sát sản phẩm: Là xem xét sản phẩm học tập của học sinh sau một

hoạt động.
- Thông thường các phương pháp kiểm tra được chia thành 3 loại:
+ Kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng).
+ Kiểm tra viết gồm có: trắc nghiệm và tự luận.
+ Thực hành.
*Kiểm tra miệng
- Kiểm tra miệng là một thuật ngữ chỉ hoạt động đánh giá thường xuyên và
trực tiếp mặt đối mặt giữa giáo viên và học sinh trong mỗi bài mới hoặc sau
một vài bài dạy nhằm đo lường một số hành vi thể hiện sự hiểu biết và khả
năng ứng dụng những điều đã học của học sinh.
- Mục đích kiểm tra miệng
+ Giáo viên có thể theo dõi sự lĩnh hội và phát triển kiến thức, kĩ năng, thái
độ của học sinh một cách liên tục, nhờ vậy có thể có những biện pháp điều
chỉnh kịp thời quá trình dạy học.
+ Giáo viên có thể có được hình ảnh thực sự rõ nét về trình độ của người
học, nhờ vậy có thể động viên, khuyến khích hoặc giúp đỡ học sinh học tập.
* Kiểm tra viết
- Mục đích: Giúp kiểm tra một lúc nhiều học sinh, giúp học sinh phát triẻn
tư duy, giúp đánh giá tương đối khách quan trình độ học sinh.
- Phương pháp đánh giá: Đánh giá mức độ nhận biết, thông hiểu và khả
năng vận dụng kiến thức của học sinh.
- Hình thức tổ chức: kiểm tra 15 phút, kiểm tra viết từ 40 phút trở lên.
- Hình thức câu hỏi: Tự luận, trắc nghiệm khách quan, kết hợp cả hai. Để
đảm bảo đánh giá được toàn diện kết quả nhận thức của học sinh sau khi học
xong một chủ đề, một chương, một học kì hoặc một năm học nhằm đảm bảo

Trần Thị Thu Hà

15


K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

độ chính xác tin cậy của kết quả đánh giá thì nên kết hợp cả hai hinh thức tự
luận và trắc nghiệm khách quan.
* Kiểm tra thực hành
1.1.1.3 Các hình thức kiểm tra
* Kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì
- Kiểm tra thường xuyên: Là tiến hành thu thập thông tin về việc học tập
của học sinh một cách liên tục trong lớp. Các hình thức kiểm tra thường
xuyên dùng để đánh giá những phương diện cụ thể hay những phần của
chương trình học.
- Kiểm tra định kì là phương thức xem xét kết quả học tập của học sinh
theo thời điểm.
Mục đích là giúp giáo viên biết xem mỗi học sinh đã tiếp thu được gì
sau mỗi đơn vị bài học để có thể kịp thời bổ khuyết hay điều chỉnh nội dung
và phương pháp dạy học những phần kế tiếp.
* Kiểm tra đột xuất chuẩn đoán và kiểm tra tổng kết
- Kiểm tra đột xuất chuẩn đoán: Là phương thức xem xét kết quả học tập
không theo những thời điểm ấn định trước. Kết quả thu được từ các bài kiểm
tra đột xuất phản ánh hành vi học tập điển hình của người học, nghĩa là những
điều người học làm được trong điều kiện bình thường hay nỗ lực tối đa như
trong hình thức kiểm tra tổng kết.
- Kiểm tra tổng kết: Là phương thức xem xét kết quả học tập được thực
hiện vào cuối khóa học, môn học. Các kết quả thu được từ kiểm tra tổng kết
chỉ ra khả năng của người học có thể đạt được là gì khi nỗ lực hết mình cũng

như khi có sự chuẩn bị tối đa. Kiểm tra tổng kết còn được gọi là hình thức
đánh giá thành tích học tập của học sinh và có ý nghĩa quan trọng về mặt quản
lý.

Trần Thị Thu Hà

16

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.1.2. Đánh giá
1.1.2.1 Khái niệm đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những
nhận định, rút ra những kết luận hoặc đánh giá về trình độ, phẩm chất của
người học hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở
những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra.
Như vậy: Đánh giá không còn là sự ghi nhận thực trạng mà còn là đề
xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng. Vì thế, đánh giá được xem là
khâu rất quan trọng, đan xen với khâu lập kế hoạch triển khai công việc.
Hiện nay ở Tiểu học sử dụng hai hình thức đánh giá:
- Đánh giá bằng nhận xét: Là giáo viên đưa ra những phân tích hoặc những
phán đoán về học lực hoặc hạnh kiểm của người học bằng cách sử dụng các
nhận xét được rút ra từ việc quan sát các hành vi hoặc sản phẩm học tập của
học sinh theo tiêu chí cho trước. Các môn đánh giá bằng nhận xét theo hai
mức:

+ Loại hoàn thành (A): Đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng
của môn học được nêu trong sổ theo dõi kết quả kiểm tra và đánh giá học sinh
ở từng lớp. Học sinh đạt được mức hoàn thành khi có từ 50% số nhận xét trở
lên trong từng kì học hay cả năm học. Những học sinh đạt loại hoàn thành
nhưng có biểu hiện rõ về năng lực học tập môn học, đạt 100% số nhận xét
trong từng kì học hay cả năm học được đánh giá là hoàn thành tốt (A+).
+ Loại chưa hoàn thành (B): Học sinh chưa hoàn thành khi chưa thực hiện
được những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng của môn học.
- Đánh giá bằng điểm số: Là sử dụng những mức điểm khác nhau trên một
thang điểm để chỉ ra mức độ về kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã thể hiện
được một hoạt động hoặc sản phẩm học tập.

Trần Thị Thu Hà

17

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.1.2.2 Các kĩ thuật đánh giá
- Quan sát: Là kĩ thuật đánh giá thông dụng nhất, giáo viên quan sát việc
học tập và hành vi của học sinh trong và ngoài lớp học. Trên cơ sở đó đưa ra
những đánh giá của mình.
- Ghi chép hàng ngày của giáo viên qua bình luận mô tả do giáo viên theo
dõi, nhận thấy về những hành vi đáng chú ý của học sinh.
- Cho điểm: Điểm số phản ánh kết quả học tập của học tập, đồng thời cũng

phản ánh cả kết quả giảng dạy của giáo viên. Muốn có sự phản ánh chính xác,
người giáo viên cần có thái độ khách quan và tinh thần trách nhiệm cao trong
việc cho điểm học sinh. Điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập của
học sinh.
Mục đích rất quan trọng của kiểm tra, đánh giá là giúp giáo viên thấy
được kết quả giảng dạy của mình, phát hiện kịp thời các sai lầm đồng thời đề
ra các biện pháp cải tiến dạy học. Vì vậy, sau mỗi lần kiểm tra giáo viên cần
tiến hành song song hai công việc: Phân tích kết quả và đề ra giải pháp.
1.1.3 Quan hệ giữa kiểm tra và đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là hai khâu có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng hiệu quả của giáo dục và hai khâu này có quan hệ biện chứng
với nhau, luôn song hành cùng nhau. Kiểm tra cung cấp những dữ kiện,
những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá.
Hiệu quả của kiểm tra càng bộc lộ rõ nếu có kèm theo sự đánh giá
đúng mức và công bằng của thầy giáo và tập thể học sinh. Có đánh giá, phân
tích kết quả của kiểm tra, giáo viên mới biết được sự phù hợp hay không phù
hợp giữa tình trạng kiến thức, kĩ năng của học sinh với tiêu chuẩn đã xác định
một cách khách quan, qua đó nhằm xác định thực trạng tính cách, năng lực
cũng như sự tiến bộ của học sinh. Đồng thời qua đó, giáo viên cũng nắm được
kết quả của việc kiểm tra, thấy được bài kiểm tra có vừa sức với học sinh

Trần Thị Thu Hà

18

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

không. Từ đó giáo viên có thể điều chỉnh, tìm những phương pháp hữu hiệu
hơn.
Như vậy cơ sở quan trọng để đánh giá là bài kiểm tra nhưng ngoài ra
giáo viên còn phải căn cứ vào quá trình theo dõi học sinh thì mới đánh giá
đúng thực chất, năng lực của học sinh đó. Vì vậy mà hai học sinh cùng đạt
được số điểm như nhau nhưng có thể được giáo viên đánh giá khác nhau.
Tóm lại, kiểm tra cung cấp tài liệu cho đánh giá, còn đánh giá là thể
hiện hiệu quả của kiểm tra. Vì vậy trong quá trình dạy học, khâu kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh có tầm quan trọng đặc biệt, nó đảm bảo
cho hoạt động đào tạo luôn đi theo quỹ đạo đã định, đảm bảo kết quả đào tạo
tối ưu.
1.1.4 Vai trò của kiểm tra, đánh giá
1.1.4.1 Đối với học sinh
Việc kiểm tra đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp thời
những thông tin “liên hệ ngược trong” giúp người học tự điều chỉnh hoạt
động học.
Về mặt giáo dưỡng: Kiểm tra, đánh giá chỉ cho mỗi học sinh thấy mình
đã tiếp thu được những điều vừa học đến mức độ nào, còn những lỗ hổng nào
cần bổ khuyết trước khi bước vào phần mới của chương trình học tập, có cơ
hội để nắm chắc những yêu cầu cụ thể đối với từng phần của chương trình
học tập đó.
Về mặt phát triển năng lực nhận thức: Thông qua kiểm tra, đánh giá
học sinh có điều kiện để tiến hành các hoạt động trí tuệ: Ghi nhớ, tái hiện,
chính xác hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức. Nếu việc kiểm tra, đánh
giá chú trọng phát huy trí thông minh, học sinh có thuận lợi để phát triển năng
lực, thông minh sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết
những tình huống thực tế.


Trần Thị Thu Hà

19

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Về mặt giáo dục: Kiểm tra, đánh giá nếu được tổ chức nghiêm túc sẽ
giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, ý trí vươn lên đạt
những kết quả cao hơn, củng cố long tin vào khả năng của mình, nâng cao
tính tự giác khắc phục chủ quan tự mãn.
1.1.4.2 Đối với giáo viên
Việc kiểm tra, đánh giá học sinh cung cấp cho giáo viên những thông
tin “ liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy.
Kiểm tra, đánh giá kết hợp với theo dõi thường xuyên, tạo điêu kiện
cho giáo viên nắm vững một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình
độ của mỗi học sinh trong lớp mình phụ trách để có biện pháp giúp đỡ riêng
thich hợp đối với học sinh giỏi và kém qua đó nâng cao chất lượng học tập
chung cả lớp.
Kiểm tra, đánh giá được tiến hành một cách công phu không chỉ cung
cấp cho giáo viên những thông tin về trình độ chung của cả lớp mà còn giúp
giáo viên nắm được những học sinh có tiến bộ rõ rệt hoặc sút kém đột ngột để
động viên hoặc giúp đỡ kịp thời. Người giáo viên có trách nhiệm và kinh
nghiệm thường xem kiểm tra, đánh giá như một biện pháp cá nhân hóa dạy
học, giúp cho học sinh tự đánh giá để tự quyết đinh cách học cho phù hợp với
mình.

Kiểm tra, đánh giá tạo cơ hội cho giáo viên xem xét hiệu quả những cải
tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mà mình đang theo
đuổi, nhất là đối với những giáp viên tâm huyết muốn hoàn thiện việc dạy học
của mình bằng con đường thực nghiệm nghiên cứu khoa học giáo dục.
1.1.4.3 Đối với cán bộ quản lí giáo dục
Kiểm tra, đánh giá học sinh cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục các
cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy và học trong mỗi đơn vị giáo
duc, từ đó đề xuất giải pháp thích hợp về điều chỉnh chương trình và tài liệu

Trần Thị Thu Hà

20

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

học tập, về phương pháp dạy học, về các phương tiện và thiết bị dạy học để
cải thiện chất lượng học tập của học sinh
1.2.Kiểm tra đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan
1.2.1.khái niệm
Trắc nghiệm là một công cụ hay quy trình có hệ thống nhằm đo lường
mức độ cá nhân đạt được trong một lĩnh vực cụ thể nào đó (Gronlund, 1981)
[17, 8].
Có nhiều loại trắcn nghiệm khác nhau phù thuộc vào các tiêu chí lựa
chọn để phân loại như: Nội dung, cách làm, cơ chế và cơ cấu làm cơ sở cho
phương pháp trắc nghiệm. Có thể phân thành hai loại chính: Trắc nghiệm tâm

lí và trắc nghiệm giáo dục.
- Trắc nghiệm tâm lí: Chủ yếu để kiểm tra tư duy, tiềm năng của con người.
- Trắc nghiệm giáo dục: Mang tính chất ứng dụng, nhằm đánh giá năng lực
thực tế của người học.
Trắc nghiệm giáo dục được phân thành trắc nghiệm tự luận và trắc
nghiệm khách quan.
Trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều mệnh đề, câu hỏi hay
mô hình ( tranh, ảnh, sơ đồ) và được trả lời bằng các dấu hiệu đơn giản, hay
một từ, cụm từ, đôi khi là các con số….
Trắc nghiệm khách quan mang tính quy ước vì hệ thống đánh giá bằng
điểm mang tinh khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
người đánh giá.
1.2.2 Phân biệt trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận
1.2.2.1 Trắc nghiệm tự luận
Trắc nghiệm tự luận là bài kiểm tra (theo cách hiểu truyền thống).
Trong đó nhà sư phạm đưa ra một hoặc nhiều yêu cầu, đôi khi là bài toán

Trần Thị Thu Hà

21

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nhận thức và đòi hỏi người học phải phân tích các yêu cầu hoặc giải quyết bài
toán.

Trắc nghiệm tự luận kiểm tra, đánh giá được quá trình tư duy đi đến kết
quả của người học, giúp hình thành và rèn luyện kĩ năng trình bày văn bản
đồng thời phát huy tối đa khả năng phân tích và vốn sống của người học.
Với trắc nghiệm tự luận, nhà sư phạm dễ ra câu hỏi kiểm tra và hạn chế khả
năng đoán mò của học sinh.
Tuy nhiên, bên cạnh đó trắc nghiệm tự luận cũng có những hạn chế
nhất định. Câu hỏi trong trắc nghiệm tự luận cũng có những hạn chế nhất
định.
Câu hỏi trong trắc nghiệm tự luận thường mang tính áp đặt, nội dung
không đa dạng phong phú. Trong cùng một thời gian lượng kiến thức kiểm tra
được ít, mất nhiều thời gian làm bài kiểm tra và đặc biệt hạn chế tính khách
quan trong đánh giá.
1.2.2.2 Trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan được đề cập đến ở nước ta vào những năm 70
của thế kỉ XX, song phải tới những năm 90 mới bắt đầu được quan tâm, tìm
hiểu.
Trắc nghiệm khách quan là đề kiểm tra, trong đó nhà sư phạm đưa ra
các mệnh đề có các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học phải chọn đáp án
phù hợp.
Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm các mệnh đề, câu hỏi
hay mô hình (tranh, ảnh, sơ đồ….) và được trả lời bằng các dấu hiệu đơn giản,
hay một từ, một cụm từ, đôi khi là các số….Trắc nghiệm khách quan mang
tính hệ thống vì quy ước vì hệ thống đánh giá bằng điểm mang tính khách
quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá.

Trần Thị Thu Hà

22

K34A - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2.2.3 So sánh trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan hay tự luận đều nhăm mục đích duy nhất là
đánh giá kết quả giáo dục của người học. Giữa chúng có sự khác biệt song
cũng có những điểm tương đồng và sự khác biệt giữa hai khái niệm này chỉ
mang tính tương đối.
* Giống nhau:
- Đo lường và đánh giá được các kết quả giáo dục của người học.
- Nhằm kiểm tra mức độ nhận thức hiện có của người học, tạo cho người
học hứng thú trong học tập
- Kết quả đánh giá trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận, nếu có
đủ độ tin cậy.

Trần Thị Thu Hà

23

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

* Khác nhau:

Trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm tự luận

- Người học phải lựa chọn câu

- Người học phải tự thiết kế câu

trả lời phù hợp nhất trong số các câu

trả lời và diễn tả nó bằng ngôn ngữ

trả lời cho sẵn.

của bản thân

- Câu hỏi mang tính hanh động
áp dụng.

- Câu hỏi mang tính áp đặt, chủ
yếu là học thuộc.

- Trắc nghiệm khách quan đòi
hỏi những câu trả lời ngắn gọn.

- Trắc nghiệm tự luận đòi hỏi
người học phải suy nghĩ phân tích và
trình bày đủ ý.

- Chất


lượng

của

bài

trắc

nghiệm phụ thuộc chủ yếu vào người

- Chất lượng của bài tự luận phụ
thuộc vào người đánh giá.

xây dựng bài trắc nghiệm.
- Điểm số đánh giá của bài trắc

- Điểm số đánh giá của bài tự

nghiệm phụ thuộc chủ yếu vào người

luận được kiểm soát chủ yếu bởi

xây dựng bài trắc nghiệm.

người đánh giá

- Đánh giá được nhiều học sinh
trong thời gian ngắn.
- Nội dung đánh giá đa dạng và

rộng.

- Đánh giá được ít học sinh trong
thời gian ngắn.
- Nội dung đánh giá mang tính
khu biệt, theo lĩnh vực.

- Chỉ đánh giá được kết quả mà

- Đánh giá được kết quả và kiểm

không kiểm soát được quá trình tư

soát được quá trình tư duy để đi đến

duy để đi đến kết quả của người học.

kết quả của người học.

Trần Thị Thu Hà

24

K34A - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


1.2.3 Ưu - nhược điểm của trắc nghiệm khách quan
1.2.3.1. Ưu điểm
- Trong một thời gian nhất định, có thể kiểm tra được một lượng thông tin
lớn đối với người học.
- Người học hứng thú trong quá trình kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra kiến thức một cách toàn diện đối với người học.
1.2.3.2 Nhược điểm
- Mất nhiều thời gian khi soạn bài trắc nghiệm khách quan.
- Do kĩ thuật xây dựng trắc nghiệm khách quan có sẵn các phương án trả
lời nên nhiệm vụ của người học chỉ là lựa chọn câu hỏi phù hợp. Vì vậy chỉ
đánh giá được kết quả học tập qua các phương án mà người học lựa chọn,
trong khi quá trình tư duy để đi đến kết quả lại ẩn sau câu trả lời lựa chọn đó.
Chính vì vậy, trắc nghiệm khách quan không đánh giá được quá trình tư duy
để đi đến kết quả
- Trong quá trình làm bài, một phần tính ngẫu nhiên, đoán mò vẫn xen vào
trong tư duy người học.
1.2.4 Các loại trắc nghiệm khách quan
1.2.4.1 Trắc nghiệm đúng – sai
Trắc nghiệm Đúng – Sai là trắc nghiệm đưa ra từ một đến hai mệnh đề
(câu hỏi) và yêu cầu người học lựa chọn mệnh đề nào đúng, mệnh đề nào sai.
+ Trắc nghiệm có một mệnh đề, yêu cầu người học điền đúng hoặc sai.
+ Trắc nghiệm có hai mệnh đề, nếu một bên mệnh đề đúng (Đ) thì mệnh
đề còn lại là sai (S).
- Hạn chế của trắc nghiệm Đúng – Sai là ở chỗ ngẫu nhiên, may rủi xen lẫn
trong tư duy của người học. Có thể đặt nhiều mệnh đề (câu hỏi) trong một bài
trắc nghiệm để giảm hạn chế của bài kiểm tra.

Trần Thị Thu Hà

25


K34A - GDTH


×