Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tìm hiểu yếu tố truyền thống và hiện đại trong tập thơ mẹ và em của nguyễn duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.79 KB, 63 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Duy thuộc lớp nhà thơ đã sáng tác, chiến đấu và trưởng thành
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ thần thánh của dân tộc. Bằng các tác phẩm
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: bút kí, tiểu thuyết, phê bình và thơ… Nguyễn
Duy đã tự khẳng định cho mình một chỗ đứng và tạo nên phong cách riêng
trong nền văn học Việt Nam.
Nguyễn Duy được vinh danh và biết đến nhiều hơn cả trong vai trò của
một nhà thơ. Hơn 30 năm cầm bút với những nỗ lực không ngừng nghỉ trong
sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Duy đã cho ra đời hàng loạt tập thơ: Cát trắng
(1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng (1987), Đường
xa (1989), Quà tặng (1990), Sáu và tám (1994), Về (1994), Vợ ơi (1995),
Tình tang (1995), Bụi (1997) được giới phê bình cũng như người hâm mộ
đón nhận nồng nhiệt.
Cùng với Nguyễn Bính, thơ Nguyễn Duy là thứ “đặc sản” của Việt
Nam với những câu thơ mang âm hưởng ca dao đi vào lòng người:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa – 1987)
Đố em mua chịu nỗi đau
Để anh hóa giá bảy màu giấc mơ
(Bụi – 1997)
Nguyễn Duy còn tự nhận là “thi sĩ thảo dân”, coi cuộc đời mình đích
thị là thảo dân từ lúc nằm trong bụng mẹ và luôn tâm niệm quê hương và số
phận của người dân lao động là nỗi trăn trở đau đáu trong tình cảm cũng như
trong thơ mình. Ông được đánh giá cao ở thể thơ lục bát viết theo phong cách
hiện đại với những câu thơ vừa phóng túng, vừa uyển chuyển chặt chẽ và



1
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

được giới phê bình đánh giá “là người góp phần làm mới thể thơ truyền
thống”. Vì vậy, thơ Nguyễn Duy luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại từ nội dung đến hình thức biểu hiện. Đây là điều
chúng ta dễ dàng nhận ra ở hầu hết mọi sáng tác của nhà thơ.
Hiện nay, Nguyễn Duy còn là nhà thơ được lựa chọn giảng dạy trong
nhà trường phổ thông với một số tác phẩm như: Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ
rơm, Ánh trăng, Đò Lèn. Mỗi bài thơ đều mang trong đó những dư âm, tình
cảm không chỉ của bản thân tác giả mà còn mang điệu hồn riêng của tâm hồn
Việt Nam với những hình ảnh trữ tình đằm thắm.
Nhằm mục đích góp thêm cách hiểu, cách nhìn nhận giúp học sinh, sinh
viên tiếp cận sâu rộng hơn tác phẩm thơ Nguyễn Duy, đặc biệt là tập thơ “vừa
quen, vừa lạ” Mẹ và em đồng thời, cũng xuất phát từ sự yêu mến của bản
thân với tập thơ này, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu yếu tố truyền
thống và hiện đại trong tập thơ Mẹ và em” làm đối tượng nghiên cứu cho
khóa luận này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Duy làm thơ từ rất sớm, tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ
Trên sân trường được viết năm 1960 khi đang còn là học sinh trung học phổ
thông ở Lam Sơn – Thanh Hóa, nhưng phải tới mãi năm 1973 ông mới thực

sự được biết đến với chùm thơ đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ tuần Báo Văn
nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Viêt Nam. Sự xuất hiện của thơ
Nguyễn Duy đã góp vào nền thơ ca một bản sắc riêng, một phong cách nghệ
thuật độc đáo và thu hút sự chú ý của độc giả cũng như giới phê bình văn học.
Hoài Thanh là một trong những người đầu tiên phát hiện ra tài năng thơ
Nguyễn Duy qua chùm thơ ông gửi đăng trên tuần Báo Văn nghệ (Số Tết
Nhâm Tý và Văn Nghệ số 442). Trong bài viết: “Đọc một số bài Nguyễn
Duy” đăng trên Báo Văn Nghệ số 442 ngày 14 - 4 - 1972, tác giả đã khẳng

2
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

định: “Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc trước những
chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thường chỉ là
thoáng qua thì ở anh nó lắng sâu và dừng lại…” [18, 32]. Bài viết của Hoài
Thanh đã giới thiệu Nguyễn Duy trước bạn đọc như một tiếng thơ đầy triển
vọng, đầy “tiềm lực”.
Lê Quang Hưng khi tìm hiểu thơ Nguyễn Duy cũng nhận ra nét độc đáo
của thơ Nguyễn Duy: “Sự kết hợp giữa cụ thể và suy ngẫm, giữa riêng và
chung, cảm xúc đằm nén gây được sự đồng cảm” [7, 156].
Nguyễn Quang Sáng cũng nhận thấy ở Nguyễn Duy: “ Tư duy thơ thì
hiện đại, hình thức thơ thì phẳng phất phong vị cổ điển phương Đông” [13,
189].

Trên đây là những bài viết đánh giá khái quát nhất về thơ Nguyễn Duy.
Ngoài ra còn nhiều bài phê bình, nghiên cứu của các tác giả đăng rải rác trên
báo, tạp chí hay một số tuyển tập thơ. Nói chung, các nhà phê bình, nghiên
cứu đều đi đến khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo ở Nguyễn Duy và
những đóng góp quí báu của ông cho nền thơ ca Việt Nam.
Bùi Thị Minh Tâm trong luận văn thạc sĩ Ngữ văn về “Chủ đề
quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy” đã xem cảm hứng quê hương, đất
nước là cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Duy. Đây là một cảm hứng quen
thuộc của thi nhân từ xưa tới nay: “Nguyễn Duy bền bỉ hướng cảm xúc của
mình về với cội nguồn quê hương, cội nguồn dân tộc” [17, 32].
Vũ Văn Sĩ trong bài viết: “Nguyễn Duy - người thương mến đến tận
cùng chân thật” đã có những nhận xét rất tinh tế: “…thơ Nguyễn Duy không
dừng lại ở đề tài, bởi đằng sau các lớp sự việc, sự kiện ấy là cái hồn của cuộc
sống ẩn tàng các vấn đề xã hội và con người trong đó”[16, 307]. Theo ông,
nét độc đáo trong thơ Nguyễn Duy chính là “gợi cho ta nắm bắt được những
nét vô hình, mong manh trong tiềm thức của mình. Và rồi ngay lập tức và

3
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

đồng thời, bằng kinh nghiệm sống từng trải riêng của mỗi người để thiết lập
mối liên hệ của nó với các hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội”
[16,310]. Nhận xét của Vũ Văn Sĩ là những gợi mở quí báu cho chúng tôi khi

tìm hiểu cảm hứng sáng tác thơ Nguyễn Duy. Bởi đây chính là mạch ngầm
triết lí theo kiểu tư duy thơ của Nguyễn Duy.
Lại Nguyên Ân trong bài viết “Tìm giọng mới thích hợp với người thời
mình”, qua giọng điệu riêng của tập thơ Ánh trăng, đã nhận thấy “Giai điệu
trữ tình” với nhiều sắc thái biểu hiện trong giọng điệu thơ Nguyễn Duy: “Có
giọng bông lơn, bỡn cợt, có tiếng cười khúc khích giữa dòng trữ tình như là
để phá bớt đi cái vẻ rưng rưng thống thiết, cứ cao lên và làm căng thẳng mệt
mỏi tâm lý cảm thụ” và sắc giọng mới “thủng thẳng ngang ngạnh và ương
bướng nữa” [1, 205].
Hoàng Nhuận Cầm lại cho rằng giọng điệu thơ Nguyễn Duy là “Giọng
điệu lời ru”, vừa hấp dẫn, vừa tinh quái hóm hỉnh trong một cái nhìn tinh tế
như không có gì mà lại có gì”.
Còn Anh Ngọc thì nhận ra “Cái duyên trào lộng”, cùng với “Cách tạo
từ mới có nội lực, sức sống” đã làm bật lên tiếng cười nhưng lại “Khiến mủi
lòng, giễu cợt mà lại thêm thương mến…” [20,309].
Như vậy, các ý kiến đánh giá về thơ Nguyễn Duy mới dừng lại ở những
nhận xét khái quát chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về tập thơ Mẹ và em.
Từ những gợi ý trên chúng tôi đi sâu “Tìm hiểu yếu tố truyền thống và
hiện đại trong tập thơ Mẹ và em” của Nguyễn Duy.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu, yếu tố truyền thống và hiện đại trong tập thơ Mẹ
và em của Nguyễn Duy ở phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Từ

4
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

đó, thấy được đóng góp của Nguyễn Duy trong việc làm mới thơ ca dân tộc,
tiếp tục khẳng định giá trị đặc sắc của thơ ông trong nền thơ ca đương đại.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
.

Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau.
-Tìm hiểu những yếu tố truyền thống trong tập thơ Mẹ và em của

Nguyễn Duy được thể hiện cụ thể qua phương diện nội dung cảm xúc và hình
thức biểu hiện.
-Tìm hiểu những yếu tố hiện đại trong tập thơ Mẹ và em của Nguyễn
Duy được thể hiện cụ thể qua phương diện nội dung cảm xúc và hình thức
biểu hiện.
-Thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Duy và khẳng
định những đóng góp của ông trong nền thơ ca đương đại.
4. Đối tượng nghiên cứu
Với khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp và khả năng làm chủ tư liệu có
hạn, chúng tôi không đi sâu vào toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Duy mà chỉ
tập trung làm rõ yếu tố truyền thống và hiện đại qua tập thơ Mẹ và em của
Nguyễn Duy.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở “ Tìm hiểu yếu tố truyền thống và hiện đại trong thơ Nguyễn
Duy”, khóa luận khẳng định những đóng góp của Nguyễn Duy trong nền thơ
đương đại Việt Nam. Vì vậy tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là tập thơ Mẹ
và em (1987) gồm 34 bài thơ và khi cần mở rộng ra một số bài thơ khác của

Nguyễn Duy.
6. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc sử dụng các phương pháp thường dùng trong nghiên cứu
văn học, ở khóa luận này chúng tôi sẽ tập trung vào một số phương pháp
chính như sau:
6.1 Phương pháp thống kê
5
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

Phương pháp này nhằm thống kê và khảo sát những yếu tố truyền thống
và hiện đại trong thơ Nguyễn Duy trên hai phương diện nội dung cảm xúc và
hình thức nghệ thuật.
6.2. Phương pháp so sánh văn học
Việc so sánh Nguyễn Duy với các nhà thơ cùng thời đại nói riêng và
các nhà thơ Việt Nam nói chung nhằm làm nổi bật những yếu tố truyền thống
và yếu tố hiện đại của hồn thơ Nguyễn Duy.
6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Nhằm tìm hiểu những yếu tố truyền thống và hiện đại trong tập thơ Mẹ
và em của Nguyễn Duy từ những căn cứ cụ thể để việc nghiên cứu có tính
thuyết phục.
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã làm rõ hai yếu tố truyền thống và hiện đại trong tập thơ
Mẹ và em của Nguyễn Duy.

Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định sáng tạo độc
đáo của Nguyễn Duy trong tập thơ Mẹ và em nói riêng và toàn bộ các sáng
tác của Nguyễn Duy nói chung. Đồng thời, đây cũng là tài liệu của bản thân
tác giả khóa luận, góp phần phục vụ cho công tác giảng dạy sau này.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của khóa luận được triển
khai thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Tìm hiểu yếu tố truyền thống trong tập thơ Mẹ và em của
Nguyễn Duy
Chương 3: Tìm hiểu yếu tố hiện đại trong tập thơ Mẹ và em của
Nguyễn Duy

6
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm truyền thống và hiện đại
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Giáo dục): “Truyền thống là thói quen
hình thành lâu đời trong lối suy nghĩ được truyền từ đời này sang đời khác”
[12, 38].
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Truyền thống văn học là

những thành tựu văn học đặc sắc tương đối ổn định, bền vững, ổn định trên
cả hai phương diện nội dung và hình thức văn học được lưu truyền và kế thừa
từ thế hệ này sang thế hệ khác trong quá trình văn học” [6, 366]
Truyền thống văn học tồn tại và phát huy thông qua con đường vay
mượn, ảnh hưởng văn học, thông qua những phép tắc, luật lệ sáng tạo nghệ
thuật mà nhiều thế hệ phải tuân thủ để làm ra giá trị mới. Nhà văn có thể tiếp
nối truyền thống văn học có ý thức, hoặc chịu ảnh hưởng của truyền thống
văn học không tự giác. Tuy nhiên, truyền thống văn học không phải là một
hiện tượng ngưng đọng, khép kín, mà không ngừng vận động, tự đổi mới.
Mỗi bước phát triển của lịch sử xã hội và lịch sử văn học thường khiến cho
hàng loạt giá trị, kinh nghiệm nghệ thuật từng được xem là truyền thống trở
nên bảo thủ, lạc hậu. Để giải quyết những nhiệm vụ nghệ thuật do thời đại đặt
ra, người sáng tác hoặc là phải hoàn thiện đổi mới kinh nghiệm của thế hệ
trước, hoặc phải đấu tranh chống lại những gì đã cũ kĩ, lạc hậu phải tìm kiếm
những lối đi mới. Kế thừa truyền thống và cách tân nghệ thuật, vì thế là
những phương diện không bao giờ tách rời nhau của quá trình văn học. Đến
lượt mình, những cách tân chân chính lại trở thành truyền thống mới, bồi đắp
thêm cho kho tàng kinh nghiệm đã vượt qua sự thử thách của thời gian của
những thế hệ đi trước.

7
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2


Như vậy, truyền thống chính là những yếu tố lặp đi lặp lại lưu truyền
giữa các thế hệ. Giáo sư Trần Đình Sử nhận xét: “ Ảnh hưởng bên ngoài là
những cú hích làm cho truyền thống dân tộc tự đổi mới chứ không thể thay
thế được truyền thống” và “ truyền thống là điểm tựa là yếu tố thuộc về nội
lực của cá tính sáng tạo” [15,138].
Khái niệm “hiện đại” được Từ điển tiếng Việt ( NXB Đà Nẵng) quan
niệm: “Hiện đại là thuộc về thời ngày nay”, là một phạm trù của sự vận động
văn học. Tính hiện đại được rất nhiều người quan niệm khác nhau: Có người
quan niệm hiện đại là sáng tạo đổi mới, nhưng có người lại đồng nghĩa với lố
lăng quay lưng lại với truyền thống.
Theo giáo sư Trần Đình Sử: “bản chất tính hiện đại là khuynh hướng
giải phóng, đổi mới nghệ thuật làm cho nghệ thuật ngày càng mang giá trị
nhân bản sâu sắc” [15, 140].
Như vậy, hiện đại là một khuynh hướng tất yếu của tiến trình văn học
bởi vì văn học phản ánh đời sống thông qua hình tượng, khi xã hội ngày càng
hiện đại thì một số yếu tố truyền thống tỏ ra không còn phù hợp nữa và nó
không thể phản ánh hết được sự đa diện của xã hội đương đại và muốn không
bị lãng quên văn học phải tự đổi mới mình. Đổi mới ở đây không phải là phủ
nhận hoàn toàn những cái đã có mà phải trên tinh thần kế thừa, phát huy và
sáng tạo những tinh hoa mà thế hệ trước để lại. Làm được như vậy thì hiện đại
là một quá trình tích cực góp phần tạo nên những giá trị truyền thống mới cho
văn học. Do vậy cần khẳng định, hiện đại phải bắt nguồn từ truyền thống,
cũng giống như không có một ngọn cây nào không sinh ra từ gốc rễ.
Có thể thấy, giữa truyền thống và hiện đại có một mối quan hệ chặt
chẽ, biện chứng với nhau. Truyền thống không phải là hiện tượng ngưng đọng
mà vận động tự đổi mới đó chính là hiện đại. Mỗi bước đi phát triển của lịch

8
Nguyễn Thị Hường


K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

sử xã hội và lịch sử văn học đều đòi hỏi từng bước đổi mới kế thừa truyền
thống và cách tân bao giờ cũng là những phương diện không thể tách rời của
quá trình văn học.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới hồn thơ Nguyễn Duy
1.2.1. Quê hương và gia đình
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Học, sống
chủ yếu ở quê ngoại huyện Hà Trung, Thanh Hóa nơi có những địa danh như
Đò Lèn, Cống Na, Chợ Bình Lâm, Chùa Trần, đền Cây Thị,…đã trở đi trở lại
trong thơ Nguyễn Duy. Hơn thế, Thanh Hóa còn là một vùng quê mang đậm
dấu ấn văn hóa làng xã và các phong tục tập quán in đậm bản sắc văn hóa
Việt Nam, vì thế mà quê hương không chỉ là nơi nuôi dưỡng nhà nhơ mà nó
còn là một hình ảnh trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Duy.
Nguyễn Duy từng trải qua một tuổi thơ lam lũ vất vả. Sớm mồ côi mẹ,
thiếu đi tình yêu thương của mẹ nhưng bù lại, cậu bé hiếu động và hồn nhiên
Nguyễn Duy đã được sống trong trong sự chăm sóc chu đáo của bà ngoại.
Ông được bà ngoại đọc cho nghe rất nhiều các câu hò vè, cao dao và truyện
nôm khuyết danh. Bà ngoại Nguyễn Duy không biết chữ nhưng những gì bà
thuộc và đã đọc cho cậu bé Duy ngày ấy đã ăn sâu vào tâm trí của nhà thơ sau
này. Chín tuổi, Nguyễn Duy đã tập tành làm thơ với những bài tả cảnh trường
em, ruộng vườn, người thân…Bài thơ được in báo đầu tiên khi nhà thơ đang
học lớp hai.
Như lớp thanh niên trưởng thành trong thời chiến tranh, Nguyễn Duy
nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường ác liệt như đường 9 Khe Sanh, Nam Lào, Quảng Trị…Sự gắn bó với đất nước nhân dân trong

những năm tháng gian khó đầy thử thách đã nuôi dưỡng và hun đúc nên trong
Nguyễn Duy một hồn thơ cương trực, mạnh mẽ, trĩu nặng suy tư mà thắm
thiết nghĩa tình.
9
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

Con đường thơ Nguyễn Duy được đánh dấu bằng mộc thời gian và bởi
những chặng đường: đường làng - đường nước - đường về. Trình tự ấy do
chính nhà thơ sắp xếp, bởi hơn ai hết ông hiểu những chặng đường ấy có ý
nghĩa như thế nào với mình, và hơn ai hết ông hiểu những chặng đường ấy
dường như cũng “trùng khớp” với những chặng đường của đời một nhà thơ:
“Cứ chìm nổi với đám đông/ riêng ta xác định ta không là gì” (Bao cấp thơ).
Nếu như đường làng đưa người đọc trở về với những kỉ niệm tuổi thơ
“mang dấu ấn ruộng vườn”, với cánh đồng, cỏ lúa và hoa, bờ ruộng lấm tấm
dấu chân cua, những cọng rơm xơ xác gầy gò, con cá kho dưa, quả cà kho
tép, cơm nếp thơm, canh cua ngọt, khoai sắn nướng lùi…thì đường nước hằn
in dấu chân người lính trên mỗi bước đường dọc ngang hành quân trải dài
theo đất nước thấm đẫm nghĩa tình quân dân, nghĩa tình đồng đội. Đường xa
giống như một cuốn băng đậm chất du ký với những thước phim bằng thơ trải
dài từ Á sang Âu, sang Mỹ, từ vùng đất cổ kính này sang thành phố hiện đại
khác, từ những miền hồi ức đến thế giới hiện tại, đầy ắp trải nghiệm. Đường
về - quay trở lại với mảnh đất quê hương phần nhiều vẫn là trở về với hương
đồng gió nội, để rốt ráo tìm ra cái quí nhất còn đọng lại, bởi cuối cùng: “Dẫu

biết những gì chờ ta ở kia / chỉ biết đời ta khởi đầu từ nơi ấy” (Mẹ và em).
Theo nhận xét của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, thơ Nguyễn Duy “bộc
lộ rõ nét một thế giới nội tâm có bản sắc”. Trong thế giới nội tâm ấy, Nguyễn
Duy dành nhiều tình cảm xúc động cho những người thân yêu mà vì nhiều lí
do ông ít có điều kiện đền đáp những món nợ ân tình. Đây là lí do vì sao ông
có nhiều sáng tác sâu sắc và cảm động về tuổi thơ, quê hương và những người
thân trong gia đình: Tuổi thơ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Cầu Bố, Về đồng,
Đò Lèn, Vợ ốm…
Như vậy, quê hương và gia đình đã trở thành nguồn động lực, là nơi
nuôi dưỡng hồn thơ Ngyễn Duy. Để tri ân gia đình và nơi đã nuôi dưỡng hun

10
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

đúc cho mình một tâm hồn nghệ sĩ, Nguyễn Duy đã viết rầt nhiều bài thơ về
chính quê hương và những người thân yêu trong gia đình ông.
1.2.2. Con người và thời đại
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nhận xét về Nguyễn Duy:“Hình hài
Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý
mọc trên đám đất hoang đó” Đúng vậy! với một ngoại hình không “thơ” một
chút nào: lùn, mập, mặt vuông, bàn chân bè, bàn tay chai sạn, gân guốc…
toàn những chi tiết chống lại nội tâm của nhà thơ. Tuy nhiên ẩn sau đó chính
là một tâm hồn đầy “tiềm lực”.

Nguyễn Duy có lần đã tâm sự: “Tôi là một người lính trẻ rất yêu thơ và
có võ vẽ làm thơ. Nhưng…” và đằng sau chữ nhưng ấy ông đã chứng minh
bằng một sự nghiệp thơ đáng tự hào: 11 tập thơ trong khoảng 30 năm cầm
bút.
Xuất hiện cuối cuộc kháng chiến chống Mĩ với một giọng điệu riêng rất
khác người, liệu Nguyễn Duy có đi ngược lại với cảm hứng chung của thời
đại? Có thể khẳng định là không! Quy luật tất yếu của nghệ thuật đòi hỏi
người nghệ sĩ phải luôn sáng tạo. Nguyễn Duy cũng không nằm ngoài quy
luật đó.
Trước những vấn đề nóng bỏng của đời sống kháng chiến, các nhà thơ
trong cảm hứng thời đại cất cao giọng hào sảng, ca ngợi, tự hào cổ vũ chiến
đấu thì Nguyễn Duy lại trầm lắng, suy tư và nhìn cuộc đời qua cách sống
riêng của mình. Thành công của ông đã được ghi nhận qua: Tre Việt Nam,
Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, bằng giải thưởng của Báo Văn nghệ, và sau
đó là giải A của Hội nhà văn Viêt Nam với tập thơ Ánh trăng kể từ đó
Nguyễn Duy được chú ý, thu hút nhiều bài phê bình, nghiên cứu của nhiều tác
giả tên tuổi như Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông… Tuy

11
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

nhiên thơ Nguyễn Duy giai đoạn này dường như quá “ngay ngắn”, nghiêm
túc. Ngay tác giả cũng tự thấy không vừa ý với lối thơ đó của mình.

Ta quàu quạu học đòi triết gia táo bón
những câu thơ nhăn nhó, nhọc nhằn
Với Nguyễn Duy, kiểu văn chương trang trọng, bác học đó khó có thể
diễn tả nổi cuộc đời muôn vàn sắc thái này.
Cõi phàm sấp ngửa quanh ta
thánh hiền thụt lưỡi, triết gia học đòi
Chỉ đến giai đoạn sau chiến tranh, đặc biệt là sau đổi mới “tiềm lực”
trong thơ Nguyễn Duy mới thật sự được đánh thức. Ông đã từ bỏ thứ văn
chương trang trọng, bác học để đến với “văn chương bình dân” cực kì phóng
khoáng. Nguyễn Duy đã sử dụng rất thành công thứ ngôn ngữ nôm na của dân
chúng, thứ ngôn ngữ giản dị đời thường. Nói như thế không có nghĩa thơ
Nguyễn Duy sau này kém chất lượng triết lí, những câu thơ hay để lại ấn
tượng cho độc giả luôn bao hàm những ý nghĩa triết lí chỉ có điều là nó không
bộc lộ dưới dạng trực tiếp, khô khan nữa mà đã được chuyển hóa qua ngôn
ngữ đời thường không kém phần thâm thúy.
Một “thi sĩ thảo dân” một “điệu hồn dân tộc” như Nguyễn Duy đã
nhận thấy rõ một điều, phải gắn bó, xuất phát từ nhân dân mới tạo ra nguồn
tiềm lực dồi dào cho thơ. Nguyễn Quang Sáng đã khẳng định: “Thơ Nguyễn
Duy có hầu hết các gương mặt các miền đất với những cảnh sắc, thần thái
riêng… Nguyễn Duy gắn bó máu thịt với đất nước mình bằng tình cảm rất cụ
thể với người dân. Thơ Nguyễn Duy có niềm tự hào chính đáng về dân mình,
cùng với nỗi buồn thương chính đáng” [13, 189].
Thơ Nguyễn Duy gắn bó với Hơi ấm ổ rơm với Tre Việt Nam, với
Khúc dân ca, với con đò trắng chở ước mơ, tâm tình của con người quê
hương. Gần gũi và thiết tha lạ. Có lẽ vì thế mà những bài thơ viết về quê

12
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

hương của Nguyễn Duy rất độc đáo, rất cảm động: Tuổi thơ, Cầu Bố, Đò
Lèn, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…
Nguyễn Duy viết đều và trải rộng ở nhiều khía cạnh: về cả quá khứ và
hiện tại, về chiến tranh và tình yêu, về quê hương và những người thân ở gần
lẫn xa cách…
Với một tình yêu quê hương đất nước thiết tha lại lớn lên trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ và rồi trở về với thời bình. Một thời đại có những bước
thăng trầm biến đổi cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới hồn thơ Nguyễn Duy.
Những năm 70 của thế kỷ XX cả dân tộc sục sôi trong cuộc đấu tranh
để giải phóng đất nước. Tinh thần dân tộc, ý chí độc lập, tự cường được phát
huy hơn bao giờ hết. Lúc này những gì thuộc về cái tôi đều bị xem là nhỏ
mọn, tầm thường. Con người đứng trước những vấn đề có tầm cỡ lịch sử: “Tổ
quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ ngục tù?” Câu hỏi ấy khiễn mỗi
người dân biết tự trọng đều phải dẹp đi tất cả mọi lợi ích cá nhân, hi sinh tất
cả.
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ với ý thức công dân và tinh thần
của người chiến sĩ, các nhà thơ đã được đưa lên chiến hào, nơi mưa bom bão
đạn. Chế Lan Viên đã tự hào vẽ lên tầm vóc, dáng dấp hiên ngang, oai hùng
của các nhà thơ chiến sĩ.

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và
hạ trực thăng rơi

13
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

Còn Xuân Diệu thì tự hào nói về sự gắn bó của nhà thơ với nhân dân
đất nước:
Tôi cùng xương thịt với nhân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao.
Toàn bộ nền văn học từ Bắc chí Nam được huy động tổng lực vào cuộc
chiến đấu với đề tài lớn: Chống Mĩ, chủ đề tập trung: Ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Chính vì vậy, Nguyễn Duy không nằm ngoài cảm hứng anh
hùng, với lời văn và giọng điệu thơ đầy chất sử thi.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ vẫn
tiếp tục là nguồn cảm hứng lớn của thơ nhất là ở nửa cuối những năm 70 và
đầu năm 80. Bên cạnh niềm hân hoan “toàn thắng về ta”, là niềm xúc động
sum họp Bắc - Nam của những người con xa quê. Khi cuộc chiến tranh kết
thúc đứng ở vị trí người chiến thắng, các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống

Mĩ trong đó có Nguyễn Duy có nhu cầu nhìn lại con đường mình cùng với cả
dân tộc vừa đi qua, chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của chính
mình và thế hệ mình.
Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của các nhà thơ về đề tài chiến tranh
chống Mĩ nhưng trải nghiệm cá nhân của mỗi người làm thơ đã làm cho sự
khái quát lịch sử có cái nhìn cụ thể, xác thực và thấm thía hơn. Giọng điệu thơ
cũng trở nên suy tư trầm lặng chứ không còn đầy hào sảng bay bổng như
trước nữa.
Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của nhân dân thường được
thể hiện qua những mất mát, hi sinh, nỗi đau thầm lặng của vô vàn số phận.
Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh được tô đậm ở sự

14
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

lựa chọn dấn thân tự nguyện đầy tỉnh táo chứ không là niêm say mê, háo hức
đầy chất lãng mạn như hồi đầu bước vào cuộc chiến tranh:
Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác
Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình
(Thu Bồn)
Sau chiến tranh con người trở về với cuộc sống đời thường, có nghĩa là
trở về với quan hệ thế sự trong cuộc sống thường nhật với nhiều bộn bề lo
toan, với những khát vọng về hạnh phúc và cả những trăn trở để lựa chọn về

cách sống. Nguyễn Duy qua hình ảnh “Vầng trăng, im phăng phắc” giữa
thành phố đầy “ánh điện, cửa gương” để nhắc nhở về sự thủy chung với nhân
dân, đất nước, với những năm tháng gian lao vừa đi qua.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội ngày càng nặng nề, thực trạng xã hội bộc lộ nhiều mặt trái,
nhiều vấn đề bức xúc, bất công. Bằng cái nhìn và ý thức trách nhiệm, thơ
không né tránh những sự thật đau lòng, những bất công ngang trái và cả
những trí tuệ ngủ quên trong lối mòn tự mãn. Sự tự vấn, tự thú, thức tỉnh trở
thành một hướng ở nhiều bài thơ. Khi nhà thơ đối diện với hiện thực bằng
tinh thần nhìn thẳng, nói rõ sự thật, nhất là khi không khí dân chủ đã được mở
ra cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước:
Tôi ăn bao hạt mồ hôi
Mà sao thơ chẳng mặn mòi bao nhiêu
Cứ như nước ốc ao bèo
Thơ tôi ngại nói cái điều mẹ mong
(Trương Nam Hương)
Tầm vóc của nhà thơ lúc này cũng không “đứng ngang tầm chiến lũy”
nữa mà trở về là những con người đời thường, con người “thảo dân” thi sĩ.
Cứ chìm nổi giữa đám đông

15
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
Riêng ta xác định ta không là gì”

(Nguyễn Duy)

Cảm hứng hào hùng và bi tráng khi nói về đất nước, nhân dân, về thế
hệ trẻ trong chiến tranh đã nhường chỗ cho những cảm xúc đượm buồn - buồn
nhân thế-buồn thân thế và cả nỗi buồn trước sự bất lực của thơ ca và vị thế
mới của nó. Nói như Chế Lan Viên: “Giờ là lúc xe cúp, ti vi, phim màu ngũ
sắc. Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng”. Tuy đã có không ít người làm thơ tỏ ra
chới với không bắt kịp với bước chuyển của cuộc sống, không tìm được giọng
điệu phù hợp với thời đại nhưng cũng có không ít nhà thơ bằng mẫn cảm nghệ
sĩ đã tìm ra được những hướng đi mới, giọng điệu mới tạo nét đặc biệt riêng
cho chính mình.
Là nhà thơ thuộc thế hệ “thơ trẻ chống Mĩ cứu nước”, Nguyễn Duy
cũng không nằm ngoài qui luật của sự sáng tạo nghệ thuật đó. Bên cạnh cảm
hứng, giọng điệu chung của thời đại, Nguyễn Duy đã tìm ra một hướng đi
riêng, tạo nên một phong cách nghệ thuật vừa hiện đại vừa cổ điển của riêng
mình mà như Trần Đăng Xuyền đã nhận xét là “bổ sung những thiếu hụt”
cho nền văn học kháng chiến và tiếp tục mạch nguồn ấy cho đến bây giờ.
Nguyễn Duy đã đi qua hai thời đại: chiến tranh và hòa bình, những yếu
tố về thời đại cũng là những nhân tố khá quan trọng ảnh hưởng tới hồn thơ
Nguyễn Duy. Thực tế các sáng tác của ông đã minh chứng cho điều đó, tiêu
biểu là tập thơ Mẹ và em được xuất bản năm 1987.

16
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG TRONG TẬP
THƠ MẸ VÀ EM CỦA NGUYỄN DUY
2.1. TRUYỀN THỐNG TRONG NỘI DUNG CẢM XÚC
2.1.1. Đề tài làng quê
Quê hương là điểm tựa tinh thần, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn người
Việt. Đại danh y Tuệ Tĩnh khi mất ở Trung Hoa xa xôi đã nhờ người khắc hộ
lên bia mộ dòng chữ “ngày sau có ai sang thì mang xác tôi về”. Sau này nhà
thơ Đỗ Trung Quân đã từng nhắc:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Có thể nói, hình ảnh quê hương đã in đậm trong máu thịt của mỗi con
người. Và đối với người Việt Nam thì hình ảnh làng quê trước hết gắn liền
với hình ảnh đồng quê thôn xóm. Hình ảnh làng quê đã trở đi trở lại trong các
sáng tác từ văn học dân gian đến văn học trung đại. Từng nền văn hóa phải
thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó cho nên nhắc tới văn hóa Việt Nam
không thể không nhắc tới văn hóa làng quê. Lịch sử văn hóa làng quê lại khá
lâu đời và bền chặt, có ngõ, có cây đa, có lũy tre xanh bao quanh, có những
người lao động làm lụng vất vả nhưng vẫn sống với nhau bằng tình nghĩa.
Nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhận xét về làng quê, coi cái làng
trong lịch sử nước ta có bao nhiêu chuyện lí thú đáng nói tới mà các nhà sử
học và xã hội đã dày công tìm tòi và nghiên cứu nhằm rút ra nhiều bài học có
giá trị hiện thực cho ngày nay. Trong lịch sử lâu đời của dân tộc, làng là điểm
tập hợp cuộc sống cộng đồng của con người, cuộc sống đa dạng phong phú
vừa có tính đẳng cấp vừa có tính cộng đồng rất đáng quí.

17

Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

Hình ảnh làng quê với những nét văn hóa đặc sắc đã đi vào trong rất
nhiều tác phẩm. Từ khi ấu thơ chúng ta đã được tắm mình trong những lời ru
ngọt ngào của mẹ. Lời ru ấy được bắt nguồn từ ca dao, dân ca. Trong ca dao,
dân ca chúng ta bắt gặp những không gian quen thuộc như: dòng sông, con
thuyền, mái đình, bờ ao, xóm nhỏ…Ở đó có những người bình dân (chủ yếu
là chàng trai và cô gái) sinh sống, làm lụng, tự tình và than thở:
“Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
Hay:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
(Ca dao)
Văn học trong thời kì kháng chiến chống Mĩ bên cạnh đề tài chiến
tranh, viết về quê hương cũng là một trong những đề tài lớn. Nhưng nếu đề tài
chiến tranh trong văn học Việt Nam được hình thành và phát triển do tác động
của hoàn cảnh lịch sử, thì đề tài quê hương lại bắt nguồn từ những tình cảm tự
nhiên nhất, tha thiết nhất, sâu sắc nhất của cư dân một nước ngàn đời nay gắn
bó với nghề nông. Trải qua bao biến động của những công cuộc “đô thị hoá”,
“công nghiệp hoá”, nhưng nói như Hoài Thanh: mỗi người Việt Nam “đều có
một người nhà quê”` [18, 335] và đồng quê “là nơi nương náu cuối cùng của
dĩ vãng” [18, 181], nên cây đa, bến nước, dòng sông, con đò ...luôn là những

gì thân thương nhất, gắn bó nhất, đó là những “ký ức tập thể”, là “cổ mẫu”
[18, 13-18] của họ. Vì vậy viết về quê hương luôn luôn là nguồn mạch trong
trẻo nhất, dồi dào nhất trong văn học Việt Nam.
Tự chọn cho mình một lối đi là tìm ở hiện đại hình bóng của truyền
thống trong việc lựa chọn đề tài, nghĩa là chấp nhận dấn thân vào một địa hạt
đã được quá nhiều bậc “tiên chỉ” trong làng thơ như Nguyễn Khuyến,

18
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… “khai hoang vỡ hoá”, liệu Nguyễn
Duy có thể: “Là ta, ta hát những lời của ta”?
Cũng viết về làng quê, nhưng thơ Nguyễn Duy không mang tính thi vị
hoá như thơ của các nhà Thơ Mới. Những câu thơ say mê ca ngợi vẻ đẹp
thiên nhiên như thế này:
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
(Tiếng hát mùa gặt)
Thật hiếm hoi và chỉ xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy thời kỳ đầu. Ở
những giai đoạn sau, nếu có, chỉ là hoài niệm:
Tuổi thơ tôi bát ngát cánh đồng

cỏ và lúa, và hoa hoang cỏ dại
Tuổi thơ tôi trắng muốt cánh cò
con sáo mỏ vàng, con chào mào đỏ đít
(Tuổi thơ)
Trong thơ Nguyễn Duy, cảnh sắc làng quê được tái hiện thường gắn
liền với những vất vả, nhọc nhằn. Nhưng trước tiên là những lời nhà thơ vừa
như giới thiệu vừa như kể về cảnh sắc quê hương mình.
Tôi lớn lên trên bờ bãi sông Hồng
trong màu mỡ phù sa máu loãng
giặc giã từ con châu chấu, cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn nghèo trận mạc
(Đánh thức tiềm lực)

19
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

Sau những câu thơ viết về cảnh sắc làng quê, ta lại thấy tất cả sự vất vả
nhọc nhằn nhưng rất đỗi yêu thương gắn bó của những người nông dân đã
được nhà thơ cô đặc trong không gian thật nhỏ hẹp - không gian - Xó bếp:
Nơi ấy
Mẹ ta nhễ nhại mồ hôi
Đàn con lóc nhóc nói cười

Buổi nhá nhem len lén mò cơm nguội
Bảy sắc cầu vồng trong xó xỉnh lọ lem
(Xó bếp)
Và ám ảnh lớn nhất trong tâm hồn nhà thơ là những trận lũ. Ở Trường
Sơn khi quê nhà đang mùa mưa lũ, nhà thơ như hình dung rõ mồn một trước
mắt mình cảnh:
Lúa chìm xuống cỏ dềnh lên
rác bùn vạch ngấn ngang nhiên trên tường
bèo đi ngang ngửa giữa đường
lụt ăn theo bão lẽ thường xưa nay
( Lời ru trong bão)
Rồi đến khi chuyển vào định cư ở Sài Gòn, gió lạnh tràn về cũng gợi
ông nhớ đến:
giọt sương muối co ro đầu nhảnh mạ
nhức nhối bàn chân phì phọp thở trong bùn
(Lời ấm áp từ trong gió lạnh)
Và đây là những lời thơ Nguyễn Duy gửi về quê nhà nhân dịp xuân
Đinh Sửu 1997:
Năm nay lại lụt trắng đồng
quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng
làng ta lại lóp ngóp làng

20
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng
(Dân ơi)

Trong những câu thơ trên, Nguyễn Duy đã chú ý đến những chi tiết rất
nhỏ và gần gũi với cuộc sống hàng ngày: “rác bùn vạch ngấn ngang nhiên
trên tường”, bèo “đi ngang ngửa giữa đường”, “giọt sương muối co ro đầu
nhảnh mạ”...Nhưng chính nhờ những chi tiết ấy, cảnh lũ lụt hiện lên thật cụ
thể. Đặc biệt ông thường nghiêng về miêu tả cảm giác, truyền đến người đọc
trọn vẹn cảm giác “co ro” thu mình lại vì lạnh của từng nhảnh mạ, cái “nhức
nhối” của bàn chân trần nứt nẻ khi ngập sâu trong bùn lạnh giá, cái “lóp
ngóp” hụt hơi của con người trong luồng nước lũ, cái đói cồn cào vì “đứt
bữa”...Đó là cảm giác của người trong cuộc đã từng rét run vì lạnh, từng thót
mình khi lội xuống bùn sâu, từng bơi một cách tuyệt vọng trong xoáy lũ...
Bên cạnh việc miêu tả về quê hương trong đề tài làng quê, Nguyễn Duy
cũng có cùng sự quan tâm giống một số nhà thơ trước đó. Nguyễn Duy đã chú
ý thể hiện sự vất vả lam lũ của con người quê mình:
Nơi ấy
Nhá nhem giữa quên và nhớ
Đỉnh núi hiện lên bóng bà và mẹ
Mây chiều hôm gánh gạo đưa ta
Tất tưởi đường xa cầu vồng ráng đỏ
(Xó bếp)
Không phải Nguyễn Duy không nhìn thấy sức mạnh của dân tộc ẩn sau
những nghèo nàn cơ cực, những vất vả nhọc nhằn. Nhưng Nguyễn Duy khác
với các nhà thơ cùng thời ở chỗ, phần lắng sâu nhất của hồn quê trong ông
không phải là cảnh sắc thiên nhiên hay bản sắc văn hoá cổ truyền mà là phần
nhọc nhằn nhất, lam lũ nhất. Trong thời bình, khi trực tiếp đối mặt với cuộc

21

Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

sống đời thường, ông lại càng mạnh mẽ, tỉnh táo hơn trong việc phản ánh thực
tế làng quê khi chiến tranh đã lùi xa hàng chục năm:
Gốc cây hòn đá cũ càng
trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay
vẫn đồng cạn vẫn đồng sâu
chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa
(Về làng)
Dùng lại của dân gian từ “cũ càng”, thay điệp từ “trên” trong bài ca
dao quen thuộc bằng điệp từ “vẫn”, câu thơ của Nguyễn Duy đã gợi lên sự
ngưng đọng, bất biến, sự tồn tại dai dẳng của sự nghèo nàn, đơn điệu như căn
bệnh truyền kiếp của nông thôn Việt Nam từ bao đời nay. Và khi có điều kiện
được Nhìn từ xa Tổ quốc, những câu thơ của Nguyễn Duy viết về sự đói
nghèo lam lũ của đồng quê lại càng đau đớn xót xa:
Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu...
Xứ sở từ bi sao thật lắm ma
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm...
Sự nghèo khổ lam lũ của người dân quê còn được Nguyễn Duy thể
hiện thật chân thực, cảm động qua chính cuộc đời của những người thân trong

gia đình ông. Với Nguyễn Duy, những cơ cực của đời bà:
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
(Đò Lèn)
Đó còn là sự vất vả nhọc nhằn của đời cha:

22
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
suốt đời thồ nặng
trĩu cả hai vai, việc nước việc nhà
(Cầu Bố)

Là sự hi sinh thầm lặng của đời mẹ:
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Quê hương nghèo khó, lam lũ, là phần lắng sâu nhất, da diết nhất, xót
xa nhất của quê hương đọng lại trong tâm trí nhà thơ. Nếu người xưa viết về
cánh cò cánh vạc, con trâu cái cày như là sự hiện thân của những mảnh đời
lam lũ, thì giờ đây, Nguyễn Duy lại nhìn thấy ở đó bóng dáng của chính ông

bà, cha mẹ mình:
Bà và mẹ hoá cánh cò cánh vạc
Ông và cha man mác kiếp trâu cày
(Về đồng)
Sự hoà quyện giữa quê hương và gia đình ấy đã đem đến cho Nguyễn
Duy cái nhìn của người trong cuộc. Ông viết về những vất vả nhọc nhằn của
quê hương mình, người thân mình như nó vốn tồn tại bao đời nay trong cuộc
sống người nông dân, không say mê tô hồng, không tàn nhẫn bôi đen, tự tin
về sự “bảo lãnh” của hiện thực cho thơ mình.
Việc nhìn thẳng, nói thẳng sự thật cuộc sống lam lũ của người dân quê
trong thơ Nguyễn Duy luôn gắn liền với khao khát đổi thay của nhà thơ. Cái
bất biến trong thơ Nguyễn Bính là những gì thơ mộng, êm đềm nhất của làng
quê nên Nguyễn Bính sợ hãi sự thay đổi:
Những hôm em đi tỉnh về

23
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng tôi
(Chân quê)

Nhưng cái bất biến trong thơ Nguyễn Duy là sự đói nghèo, nên dù nhà
thơ có cảm nhận sâu sắc đến bao nhiêu vẻ đẹp của “cái tạo hình cuốc đất”,
“cái tạo hình gồng gánh” thì ông vẫn mạnh dạn phủ định: “cái đẹp ấy lẽ ra

không nên tồn tại nữa”. Đánh thức tiềm lực nóng lòng trông chờ một sự đổi
thay:
Đường làng cây cỏ lưa thưa
thanh bình từ ấy sao chưa có gì
mồ hôi đã chảy ròng ròng
máu và nước mắt sao không có gì
(Về làng)
Và trước sự ngưng đọng bất biến của căn bệnh đói nghèo truyền kiếp ở
làng quê ấy, nhà thơ cảm thấy mình là người có lỗi, người mắc nợ:
Ta nhớ ta còn cắm những món nợ lớn
nơi đồi núi trọc lốc xơ xác
nơi thửa ruộng bạc phếch nứt nẻ
nơi dòng nước cạn kiệt tôm cá
nơi đám mây chưa kịp mọng thành mưa
(Nhớ nhà)
Đó là tâm trạng của một người con luôn có ý thức trách nhiệm với quê
hương đất nước.
Từ xưa đến nay, những nhà thơ được mệnh danh nhà thơ đồng quê
phải là những người lưu giữ được trong thơ mình “hồn quê”. “Hồn quê” là
một khái niệm có nội hàm rộng, biến sinh theo hoàn cảnh lịch sử, gắn liền với
bản sắc văn hoá làng quê. Có người cho rằng chỉ thơ Nguyễn Bính mới thấm
thía tâm tình nhà quê và chỉ có ông mới thâu tóm được hồn quê thì e rằng

24
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐH sư phạm Hà Nội 2

chưa thật công bằng, bởi bức tranh quê đầy rẫy sự sống và rộn rịp những sắc
màu vui tươi trong thơ Đoàn Văn Cừ, những cảnh quê thơ mộng trong thơ
Bàng Bá Lân, Anh Thơ như những bông hoa khả ái từ xa mới đem về đều là
những mảnh của hồn quê đất nước. Vậy thơ Nguyễn Duy viết về quê hương
mình có lắng đọng một hồn quê? Sự vất vả nhọc nhằn, đói nghèo lam lũ hiện
lên trong thơ ông cũng chính là một mảnh của hồn quê đất Việt. Đây là mảnh
hồn của “đồng quê binh lửa”, “đồng quê biến động và ưu tư”, đúng như
Nguyễn Duy tự nhận xét về thơ mình . Có thể nhận thấy rõ hơn điều này khi
so sánh “hồn quê” trong thơ Nguyễn Duy với “hồn quê’ trong thơ Hữu
Thỉnh - một nhà thơ mang đậm dấu vết “nhà quê” không phải vì ông tự giới
thiệu về mình là “cuống rạ bơ vơ”, là đem “nguyên mùi rơm tươi” vào thành
phố, mà bởi vì trong thơ ông đầy ắp những hình ảnh làng quê như: cỏ hội hè,
cau ấp bẹ, cánh diều để chỏm, cây rơm gầy, bầu trời trên giàn mướp, cuốc
kêu ngoài bãi xa...Nhưng về cơ bản, đó vẫn là một hồn quê thanh bình, là nơi
trú ngụ bình yên của dĩ vãng. Nguyễn Duy là người sớm hướng đến mảnh hồn
quê vất vả nhọc nhằn đã có lúc bị khuất lấp đi trong hiện thực nóng bỏng của
chiến trường ấy không phải chỉ vì: “Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo / quen
cái thói hay nói về gian khổ”, mà còn bắt nguồn từ một tình yêu sâu nặng,
một bản lĩnh vững vàng, một tài năng thực sự.
Trong thơ Việt Nam sau 1975, đây đó ta vẫn bắt gặp những câu thơ viết
về nông thôn như thế này:
Mẹ tôi gạt cỏ bước lên
Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn
(Hữu Thỉnh)
Nhà bạn cũng giống nhà tôi
Mái gianh vách đất nhìn trời qua vung
(Đồng Đức Bốn)


25
Nguyễn Thị Hường

K33A-Ngữ văn


×