Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn luyện từ và câu lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.82 KB, 125 trang )

TRƯỜNG ĐẠI
HỌC
SƯ PHẠM
LỜI
CẢM
ƠN HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
-------------------------Trong quá trình tìm hiểu,
nghiên cứu khóa luận này tôi không khỏi lúng
túng và bỡ ngỡ. Nhưng dưới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Th.S Lê Thị Lan
Anh, tôi đã từng bước tiến hành và hoàn thành khóa luận với đề tài Xây dựng
hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu
lớp 5.

THIỀU THỊ HÒA
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Lê Thị Lan Anh, các thầy

(cô) trong khoa Giáo dục Tiểu học cùng toàn thể các thầy (cô) giáo trong
trường Tiểu học Đống Đa – thành phố Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội,
tháng 5 năm
2012
TRẮC NGHIỆM KHÁCH
QUAN
TRONG


Sinh viên

PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5
Thiều Thị Hòa

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tiếng Việt

Người hướng dẫn khoa học

Th.S LÊ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2012

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài
chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Thiều Thị Hòa

2


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT


GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

LT&C

: Luyện từ và câu

SGK

: Sách giáo khoa

TNKQ

: Trắc nghiệm khách quan

TV

: Tiếng Việt

3


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

3

1. Lí do chọn đề tài

3

2. Lịch sử vấn đề

5

3. Mục đích nghiên cứu

8

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

8

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

8

6. Phương pháp nghiên cứu

8

7. Cấu trúc khóa luận


9

NỘI DUNG

10

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

10

1.1. Cơ sở lí luận

10

1.1.1. Một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan

10

1.1.2. Một số vấn đề về dạy học Luyện từ và câu môn tiếng Việt 5

22

1.2. Cơ sở thực tiễn

46

1.2.1. Nhận thức của giáo viên về trắc nghiệm khách quan và việc sử
dụng hình thức bài tập trắc nghiệm khách quan

47


1.2.2. Thực trạng sử dụng các công cụ kiểm tra, đánh giá trong dạy học
phân môn Luyện từ và câu lớp 5

50

1.2.3. Thực trạng sử dụng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
trong dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 5

51

1.2.4. Khó khăn và thuận lợi của việc sử dụng bài tập trắc nghiệm
khách quan trong dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 5

52

CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM
KHÁCH QUAN TRONG PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 5

4

54


2.1. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan

54

2.2. Quy tắc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan


55

2.3. Quy trình xây dựng bài tập trắc nghiệm khách quan

57

2.4. Hệ thống các bài tập Luyện từ và câu lớp 5

59

2.5. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan cho một số bài
trong chương trình Luyện từ và câu lớp 5

61

2.6. Hệ thống bài tập mẫu

72

Đáp án

105

KẾT LUẬN

113

Tài liêu tham khảo

115


Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dòng chảy thông tin mạnh cùng cơn lốc khoa học kĩ thuật đã và đang
từng ngày, từng giờ làm thay đổi da thịt những thành viên trong đại gia đình
nhân loại của chúng ta. Kết quả của sự thay đổi chóng mặt ấy đòi hỏi sự thích
ứng phát triển của nhân tố con người. Dĩ nhiên, trong đó khẳng định vai trò
của giáo dục là rất quan trọng cho sự phát triển của tương lai nhân loại. Đặc
biệt là giáo dục Tiểu học – bậc học nền tảng – nơi ươm mầm và nuôi dưỡng
những tài năng, chủ nhân tương lai của đất nước. Đó sẽ là điểm đặt đầu tiên
cho quá trình phát triển và kết nối những bậc học khác. Ở bậc Tiểu học, các
em có được sự hiểu biết, có nền tảng kiến thức vững chắc thì sau này các em
mới có đà phát triển. Từ đó nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có nhân cách
toàn diện để đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
“Giáo dục Tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần
thiết về tự nhiên – xã hội và con người, có những kĩ năng cơ bản về nghe, nói,
đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh, có hiểu
biết ban đầu về nghệ thuật.
Phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh” (Theo Điều 24 Luật Giáo dục - 1998). Vậy giáo dục tiểu học đã

trang bị cơ sở ban đầu quan trọng nhất của người công dân, lao động. Đó là
đào tạo những con người toàn diện phát triển về cả tri thức và nhân cách.
Ở bậc Tiểu học, cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt là một môn
học trung tâm, quan trọng chiếm nhiều thời lượng và nó có tính tích hợp cao.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm mục tiêu hình thành và phát triển ở

6


học sinh bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, từ đó góp phần rèn
luyện các thao tác tư duy. Môn Tiếng Việt còn là cơ sở để học những môn
học khác: Toán, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức,… và giúp các em có điều kiện
để lĩnh hội kiến thức của bài học. Ngoài ra, môn Tiếng Việt là môn học công
cụ nhằm góp phần đào tạo cho học sinh phát triển theo đặc trưng của mình.
Đó chính là tạo cho học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, để tư
duy. Và cũng thông qua đó giáo dục các em những tư tưởng, tình cảm trong
sáng, lành mạnh góp phần nhỏ trong việc hình thành những phẩm chất quan
trọng của con người để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra của hệ thống giáo
dục quốc dân.
Có bảy phân môn trong môn Tiếng Việt, đó là: Học vần, Tập viết, Chính
tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Đó đều là những phân
môn không thể thiếu trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân
môn Luyện từ và câu.
Phân môn Luyện từ và câu giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp
cho học sinh các kiến thức về từ và câu. Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở
rộng, hệ thống hóa làm phong phú vốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh
những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh những kĩ năng dùng từ,
đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình.
Đồng thời giúp cho học sinh hiểu được các câu nói của người khác.

Như chúng ta đã biết từ ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống
ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, nó quy định tầm quan trọng
trong việc dạy từ ngữ ở trường tiểu học. Vốn từ càng phong phú bao nhiêu thì
khả năng lựa chọn từ càng rõ bấy nhiêu. Do vậy, ở trường tiểu học từ ngữ
được dạy ở tất cả các môn học.

7


Để học sinh học tốt hơn phân môn Luyện từ và câu cũng như hiểu biết
hơn về từ ngữ thì trong chương trình, giáo viên phải hướng dẫn học sinh học
tập để các em hiểu và tiếp thu bài tốt hơn. Đồng thời, cũng phải có những câu
hỏi, bài tập để giúp các em củng cố và nâng cao kiến thức hơn nữa. Giờ học
Luyện từ và câu phần lớn được xây dựng từ các bài tập. Những bài tập Luyện
từ và câu được cấu thành từ một tổ hợp bài tập và được gọi là bài thực hành
luyện từ và câu.
Một trong những đổi mới của phân môn này là bên cạnh các bài tập
mang tính truyền thống thì xuất hiện nhiều dạng bài tập trắc nghiệm khách
quan khác nhau. Trắc nghiệm khách quan giúp học sinh phát huy khả năng tư
duy, tính nhạy bén đồng thời kiểm tra được nhiều nội dung, đánh giá được
học sinh.
Ở lớp 5, các em thuộc giai đoạn 2 của Tiểu học. Đó là lứa tuổi có đặc
điểm, tâm - sinh lý đang phát triển. Các em tiếp thu kiến thức một cách nhanh
chóng và có hiệu quả.
Trên thực tế đã có nhiều người dành nhiều thời gian để xây dựng hệ
thống bài tập trắc nghiệm khách quan cho nhiều môn học khác. Trên thị
trường cũng đã xuất hiện nhiều sách tham khảo cho giáo viên và học sinh
nhưng hầu hết những tài liệu này vẫn mang tính tổng quát, chưa đi sâu, cụ thể
vào các dạng bài tập.
Xuất phát từ tất cả những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn nghiên

cứu đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân
môn luyện từ và câu lớp 5” .
2. Lịch sử vấn đề
a. Trên thế giới
Vấn đề sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách
quan từ lâu đã được các nhà giáo dục quan tâm.

8


Vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII, tại châu Âu, các phương pháp trắc
nghiệm và đo lường thành quả học tập đã được chú ý và bắt đầu tiến hành trên
phạm vi rộng rãi. Ở Mỹ, từ đầu thế kỷ XVI đã dùng phương pháp này để pháp
hiện năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh. Sang đầu thế kỷ XX.
E.thodaicơ là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm như một phương pháp
khách quan và nhanh chóng để đo trình độ kiến thức của học sinh, bắt đầu
dùng với một số môn học. Ở Liên Xô, phương pháp kiểm tra bằng trắc
nghiệm khách quan cũng được sử dụng từ năm 1926. Bước vào thế kỉ XIX,
trắc nghiệm khách quan trở thành một phương pháp kiểm tra, đánh giá được
sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất, thu hút được sự quan tâm của đông đảo
mọi người.
Hiện nay, trắc nghiệm khách quan đã trở thành một trong những phương
tiện có giá trị trong giáo dục. Ở các nước trên thế giới đã sử dụng phương
pháp này trong các kì kiểm tra, thi tuyển.
b. Ở Việt Nam
Khoa trắc nghiệm tâm lý và giáo dục đã có lịch sử phát triển hơn một thế
kỷ ở các nước tiên tiến trên thế giới nhưng nó còn quá xa lạ đối với các thầy
(cô) giáo Việt Nam ở mọi cấp học.
Ở các trường đại học nước ngoài, môn trắc nghiệm giáo dục đã được
sinh viên làm quen ngay từ khi còn trên giảng đường đại học. Còn ở Việt

Nam thì từ cuối năm 1969, trắc nghiệm thành quả học tập mới được giảng dạy
lần đầu tiên ở lớp cao học giáo dục và tiến sĩ giáo dục tại trường Đại học Sư
phạm Sài Gòn.
Ở Việt Nam, tác giả Dương Thiệu Tống là người nghiên cứu khá sâu về
hình thức trắc nghiệm khách quan. Tác giả chính là người giảng dạy bộ môn
này cho các lớp cao học giáo dục và tiến sĩ giáo dục tại Việt Nam. Tác giả đã
viết hai công trình về trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, đó là:

9


+ Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập (phương pháp thực hành).
+ Trắc nghiệm tiêu chí (phương pháp thực hành).
Ngoài công trình trên ra còn có một số công trình nghiên cứu về hình
thức trắc nghiệm khách quan như kỷ yếu hội thảo khoa học của trường Đại
học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh – Viện nghiên cứu giáo dục – xuất bản năm
2006. Trong công trình có trình bày một số đề tài nghiên cứu về trắc nghiệm
khách quan. Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác được công bố
trên các tạp chí Nghiên cứu giáo dục, một số luận văn của các học viên, sinh
viên cao học có liên quan đến đề tài Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm
khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
Việc sử dụng trắc nghiệm khách quan vào thi cử được bắt đầu từ năm
1974 bằng việc thi tú tài ở miền Nam.
Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại
học, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội
thảo trao đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của
học sinh, sinh viên trong cả nước bằng việc sử dụng phương pháp này.
Hiện nay, một số nơi đã bắt đầu sử dụng trắc nghiệm khách quan trong
quá trình dạy học: Toán, Vật lí, Sinh học, …và một số môn đã có học phần thi
bằng phương pháp trắc nghiệm như môn tiếng Anh và một số môn cũng đã có

sách trắc nghiệm như: Hóa học, Sinh học, Giáo dục học,...
Ở nước ta, vào tháng 7 năm 1996, thí điểm thi tuyển sinh đại học bằng
trắc nghiệm khách quan được tổ chức đầu tiên tại trường Đại học Đà Lạt và
đã đạt được thành công. Sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan để
làm đề thi sẽ đảm bảo được tính công bằng và độ chính xác trong thi tuyển.
Như vậy, vấn đề sử dụng câu hỏi nói chung và đặc biệt sử dụng câu hỏi
trắc nghiệm khách quan trong dạy học phân môn Luyện từ và câu là một vấn
đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều người, nhiều cấp. Những

10


tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được là cơ sở lí luận và là gợi ý có giá trị khi
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của đề tài, đặc biệt là thiết kế câu hỏi trắc
nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
Trên cơ sở tham khảo những tư liệu có liên quan đến hình thức kiểm tra
trắc nghiệm khách quan, là người tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này, chúng tôi
tiếp thu gợi ý của những người đi trước và triển khai đề tài Xây dựng hệ thống
bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
3. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng được hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 5 một cách chính xác, hợp lí và nâng cao được chất lượng
học tập của học sinh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn
Luyện từ và câu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và kiến thức có hạn nên phạm vi nghiên cứu đề tài này chỉ
dừng lại ở việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân

môn Luyện từ và câu lớp 5.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn liên quan đến đề tài để làm cơ
sở xây dựng hệ thống bài tập.
5.2. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 5.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp quan sát

11


- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp hệ thống
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung khóa luận gồm hai
chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong
phân môn Luyện từ và câu lớp 5

12


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan

1.1.1.1. Khái niệm về trắc nghiệm
* Khái niệm trắc nghiệm
Theo từ điển Tiếng Việt: “trắc” có nghĩa là đo lường, “nghiệm” có nghĩa
là suy xét, chứng thực.
Trắc nghiệm theo Tiếng Anh là “thử”, “phép thử”, “sát hạch”
Lí luận về trắc nghiệm có rất nhiều cách hiểu khác nhau trong đó có một
số cách hiểu sau:
Theo Dương Thiệu Tống: “Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức
hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lời câu hỏi: thành tích
của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh
với một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến”
Theo A. Petropxi (1970) cho rằng: “Trắc nghiệm là bài tập làm trong
thời gian ngắn mà việc thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng,
chất lượng có thể coi là dấu hiệu của sự hoàn thiện một số chức năng tâm lí”.
Cho tới ngày nay người ta vẫn hiểu rằng trắc nghiệm là một bài tập nhỏ
hoặc câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn yêu cầu học sinh suy nghĩ rồi dùng
ký hiệu đơn giản để quy ước trả lời.
1.1.1.2. Phân loại trắc nghiệm
Trắc nghiệm là một hành động để đo lường năng lực của các đối tượng
nào đó nhằm những mục đích xác định. Trong giáo dục, trắc nghiệm được
tiến hành trong các bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với
môn học hoặc trong các kì thi cuối cấp, tuyển sinh.

13


Tuy nhiên theo ý kiến của tác giả Phó Đức Hòa và một số nhà nghiên
cứu khoa học khác thì người ta đi sâu vào nghiên cứu và phân loại câu hỏi
trắc nghiệm thành hai loại: trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận.
Trắc nghiệm khách quan (Objective Test) là bài kiểm tra trong đó nhà sư

phạm đưa ra các mệnh đề và các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học
phải chọn đáp án phù hợp.
Trắc nghiệm tự luận (Essay-type Test) là bài kiểm tra (truyền thống).
Trong đó nhà sư phạm đưa ra một hoặc vài yêu cầu đôi khi là bài toán nhận
thức và đòi hỏi người học phải phân tích các yêu cầu hoặc giải quyết bài toán.
1.1.1.3. Khái niệm trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan cũng có nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu trong
đó có một số ý kiến sau:
Trắc nghiệm khách quan là bài kiểm tra trong đó nhà sư phạm đưa ra các
mệnh đề và các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học phải chọn đáp án
phù hợp [6,114 ].
Trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều mệnh đề, câu hỏi hay
mô hình và được trả lời bằng các dấu hiệu đơn giản hay một cụm từ, đôi khi
là các con số…Trắc nghiệm khách quan mang tính quy ước vì bài trắc nghiệm
được chấm bằng cách đếm số lần học sinh trả lời đúng. Do đó hệ thống cho
điểm là khách quan và không phụ thuộc vào người chấm [6,117].
1.1.1.4. Phân loại trắc nghiệm khách quan
Tùy vào quan điểm của mỗi tác giả có thể phân loại trắc nghiệm theo các
cách khác nhau với những tên gọi khác nhau. Theo nhiều quan điểm của các
nhà khoa học, người ta đưa ra bốn loại trắc nghiệm khách quan như sau:
a. Trắc nghiệm đúng – sai (Yes or No)
Câu trắc nghiệm đúng – sai bao gồm:
- Phần 1: Là một câu hỏi hoặc một phát biểu (còn gọi là phần đề).

14


- Phần 2: Là phương án lựa chọn đúng – sai, phải – không phải, đồng
ý – không đồng ý.
Yêu cầu: Chọn 1 trong 2 phương án trả lời.

Ví dụ 1:
Viết vào  chữ Đ trước câu trả lời đúng nghĩa của từ bối rối:
 a, Mất bình tĩnh trước một sự việc.
 b, Lúng túng, mất bình tĩnh, không biết nên xử trí thế nào.
 c, Không nghĩ ra việc gì để làm trước một tình huống.
 d, Run sợ trước một việc gì đó.

- Ưu điểm:
+ Dễ sử dụng
+ Có thể ra nhiều câu một lúc vì tốn ít thời gian cho mỗi câu. Nhờ vậy
khả năng bao quát chương trình lớn hơn.
- Hạn chế:
+ Khuyến khích được sự đoán ngẫu nhiên của HS, độ may rủi là 50 %.
+ Thường chỉ dùng để kiểm tra ở mức độ biết và hiểu đơn giản, ít kích
thích tư duy, ít khả năng phân biệt trình độ HS.
- Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi:
+ Câu viết phải ngắn gọn, rõ ràng, câu hỏi phải xếp chính xác là đúng
hay sai.
+ Đặt ra một mệnh đề và yêu cầu người học xác định mệnh đề đó đúng
hay sai, không nên bố trí số câu đúng bằng số câu sai, không nên trích nguyên
câu trong SGK, …
b. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (Multiple choice Items)
Trắc nghiệm nhiều lựa chọn là loại câu thông dụng nhất, còn gọi là câu
đa phương án, loại câu này gồm 2 phần là phần câu dẫn và phần câu lựa chọn:

15


- Phần câu dẫn: Là một câu hỏi hay một câu lơ lửng tạo cơ sở cho sự lựa
chọn.

- Phần lựa chọn gồm nhiều phương án trả lời. Người trả lời sẽ lựa chọn
một phương án trả lời đúng hoặc đúng nhất hoặc không có liên quan gì đến
trong số các phương án cho trước. Những phương án còn lại là những phương
án gây nhiễu.
Ví dụ 2:
Cách viết nào đúng quy tắc viết tên người nước ngoài?
A. An-be anh-xtanh

C. An-be Anh-xtanh

B. An be Anh-xtanh

D. An-be-Anh-xtanh

- Ưu điểm:
+ Độ tin cậy cao, yếu tố ngẫu nhiên, mang tính đơn giản, đảm bảo độ giá trị.
+ Có thể đo được khả năng của người học: nhớ, thông hiểu, áp dụng,
phân tích, tổng hợp, …
- Hạn chế:
Có thể khuyến khích sự đoán mò của người học.
- Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi:
+ Phần câu dẫn phải diễn đạt rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu. Phần câu dẫn
đôi khi là câu hỏi hoặc câu nhận định chưa hoàn chỉnh.
+ Các phương án trả lời có cùng một cách viết, và gần giống nhau để
tăng độ nhiễu.
+ Các phương án nhiễu cần được diễn đạt sao cho hợp lí và cảm giác có
độ tin cậy cao.
+ Các phương án lựa chọn được sắp xếp ngẫu nhiên, không theo một
trình tự logic nào cả.


16


c. Trắc nghiệm điền khuyết (Completion Items)
Những câu hỏi và bài tập dạng này có chứa những chỗ trống để HS điền
những cụm từ này hoặc do HS tự nghĩ ra hay nhớ ra hoặc được cho sẵn trong
những phương án có nhiều lựa chọn.
Ví dụ 3:
Chọn từ thích hợp trong ngoặc để điền vào chỗ trống:
a. Đồng bào miền núi thường trồng lúa trên những thửa ruộng …
b. Những ngày lễ, hội, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường tập
trung bên … để múa hát.
c. Để tránh thú dữ, người dân tộc thường làm … để ở.
d. Truyện “Hũ bạc của người cha” là truyện cổ của dân tộc ….
(nhà rông, Chăm, nhà sàn, bậc thang)
- Ưu điểm:
+ Dễ sử dụng
+ HS khó có thể đoán mò vì HS phải viết câu trả lời của mình khi trả lời
câu hỏi trắc nghiệm.
+ Giúp HS luyện trí nhớ khi học tập.
- Hạn chế:
+ Thường dùng để kiểm tra ở mức độ biết và hiểu đơn giản.
+ Đôi khi khó đánh giá đúng nội dung câu trả lời khi HS viết sai chính tả
hoặc khi câu trắc nghiệm gợi ra nhiều hướng đáp án đúng.
+ GV thường có khuynh hướng chép nguyên văn các câu từ SGK
+ Việc chấm bài mất nhiều thời gian.
+ Tính khách quan kém, có thể chịu tác động bởi yếu tố chủ quan
của GV.
- Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi:
+ Không nên để quá nhiều chỗ trống trong mỗi câu, nên bố trí chỗ trống

đặt ở giữa hoặc cuối câu không nên đặt ở đầu câu.

17


+ Các phương án trả lời là các từ, cụm từ, các con số cho trước có thể
tương đương hoặc không tương đương với số lượng ô trống. Nếu các từ, cụm
từ không cho trước thì phải là các từ, cụm từ có nghĩa trong thực tế.
d. Trắc nghiệm ghép đôi (Matching Items)
Bài tập dạng này gồm 2 phần:
- Phần 1: Phần thông tin ở bảng truy (câu hỏi)
- Phần 2: Phần thông tin ở bảng chọn (câu trả lời)
Hai phần này được thiết kế thành 2 cột.
Yêu cầu đặt ra là lựa chọn yếu tố tương đương hoặc có sự kết hợp của
mỗi cặp thông tin ở bảng truy và bảng chọn. Giữa các cặp ở hai bảng có mối
liên hệ trên một cơ sở đã định. Có hai hình thức: Đối chiếu hoàn toàn (số mục
ở bảng truy bằng số mục ở bảng chọn), đối chiếu không hoàn toàn (số mục ở
bảng truy ít hơn số mục ở bảng chọn).
Ví dụ 4:
Tạo câu kể Ai làm gì? bằng cách nối cột A với cột B?
A

B

1) Đàn cò trắng

a. Kể chuyện cổ tích.

2) Bà em


b. Bay lượn trên cánh đồng.

3) Bộ đội

c. Giúp dân gặt lúa

- Ưu điểm:
Dễ xây dựng câu hỏi và dễ sử dụng, yếu tố may rủi, ngẫu nhiên giảm
dần, hạn chế sự đoán mò.
- Hạn chế:
+ Mất nhiều thời gian cho việc thiết kế loại câu trắc nghiệm này.
+ Thông tin có tính giàn trải, không nhấn mạnh được những điều quan
trọng hơn.

18


- Yêu cầu khi xây dựng câu hỏi:
+ Dãy thông tin nêu ra không nên quá dài, nên thuộc cùng một loại, có
liên quan đến nhau, sắp xếp nội dung của hai cột một cách rõ ràng, mang tính
đồng nhất.
+ Thông tin ở hai cột không nên bằng nhau, nên có thông tin dư ở một
cột để tăng sự cân nhắc khi lựa chọn. Thứ tự của các câu ở hai cột không
khớp với nhau để gây khó khăn trong việc lựa chọn và ghép đôi.
1.1.1.5. Ưu điểm và hạn chế của trắc nghiệm khách quan
a. Ưu điểm
- TNKQ cho phép trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều kiến
thức cụ thể, đi sâu vào những khía cạnh khác nhau của một kiến thức, chống
khuynh hướng học tủ.
- TNKQ tốn ít thời gian thực hiện (đặc biệt là khâu chấm bài).

- TNKQ đảm bảo được tính khách quan, công bằng. Khi cho điểm trong
kiểm tra truyền thống, cùng một bài làm có thể được đánh giá khác nhau, có
thể điểm số chênh lệch khá lớn tùy thuộc vào người chấm. Chấm bài TNKQ
sẽ tránh được sai lệch và hạn chế điều đó.
- Các câu hỏi, đáp án được quy định về số lượng, nội dung và đã được
chuẩn hóa nên dễ dàng sử dụng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp
và xử lý kết quả.
- TNKQ nếu có thể được sử dụng thích hợp có thể gây hứng thú và tính
tích cực học tập cho học sinh. Là một hình thức kiểm tra, một dạng bài tập
mới, so với các hình thức kiểm tra và dạng bài tập truyền thống TNKQ có thể
được nhiều học sinh ưa thích. Việc chấm bài được nhanh gọn, HS có thể sớm
biết kết quả bài làm của mình, HS có thể tự đánh giá bài làm của mình và bài
làm của những bạn khác.

19


b. Hạn chế
Tuy nhiên, cũng như bất kì một phương pháp nào, TNKQ cũng không
thể tránh khỏi những hạn chế:
- Để có được những bài tập có chất lượng đòi hỏi quá trình soạn thảo
phải công phu, tốn kém thời gian, yêu cầu người soạn câu hỏi không những
có kiến thức mà phải có cả kĩ năng cao.
- Khi đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm, GV khó biết được tư tưởng, nhiệt
tình, thái độ, hứng thú của HS với vấn đề được nêu ra.
- Các câu trắc nghiệm có thể không đo được khả năng phán đoán tinh vi
và khả năng giải quyết các vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu
hỏi tự luận soạn kỹ.
- Tốn nhiều giấy để in loại câu hỏi này so với các câu hỏi khác và HS
cần nhiều thời gian để đọc câu hỏi.

- Các bài tập trắc nghiệm chủ yếu rèn trí nhớ máy móc khó phát triển tư
duy và đánh giá được quá trình suy nghĩ dẫn tới kết quả làm bài trắc nghiệm.
Đây là nhược điểm lớn nhất của TNKQ.
Ngày nay, trắc nghiệm đang được sử dụng ngày càng phổ biến. Vì những
nhược điểm nói trên khó có thể khắc phục một cách triệt để nên trắc nghiệm
không phải là phương pháp thay thế phương pháp truyền thống mà cần phải
sử dụng phối hợp một cách hợp lý giữa chúng.
1.1.1.6. Vai trò của trắc nghiệm khách quan trong dạy học
Trắc nghiệm khách quan được dùng trong kiểm tra đánh giá đã mang lại
hiệu quả cao hơn so với các phương pháp kiểm tra đánh giá khác như:
- Kiểm tra được kiến thức trên diện rộng trong khoảng thời gian ngắn.
- Cung cấp cho học sinh kiến thức mới và củng cố kiến thức cơ bản qua
bài kiểm tra.
- Các thông tin phản hồi lại của học sinh nhanh chóng do việc kiểm tra
trên máy vi tính. Sau khi kiểm tra thì sẽ biết được ngay kết quả đạt được.

20


* Khả năng áp dụng của bài trắc nghiệm khách quan
Hiện nay với quan điểm dạy học tích cực thì trắc nghiệm khách quan
được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau:
- Sử dụng trong khâu học bài mới. GV có thể cho các em làm câu hỏi
trắc nghiệm khách quan, cho học sinh lựa chọn phương án nào là đúng nhất,
phát vấn thêm cho học sinh: Tại sao em lại chọn phương án đó?
- Sử dụng trong việc tự học của học sinh. Học sinh được giao những bài
tập về nhà sau mỗi buổi học nhằm tạo cho các em thói quen học bài theo một
cách mới không còn thụ động như trước nữa, tạo hứng thú cho các em trong
việc tìm kiếm và lĩnh hội kiến thức.
- Sử dụng trong việc kiểm tra - đánh giá. Trắc nghiệm khách quan được

sử dụng nhằm mục đích kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh đồng thời
giúp nhà trường tìm được những yếu kém trong giảng dạy để nâng cao chất
lượng dạy học.
- Sử dụng trong khâu ôn tập, củng cố, hoàn thiện và nâng cao. Sau mỗi
bài, mỗi chương đều nên có những bài kiểm tra bằng hình thức khách quan sẽ
giúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn mà không phải học vẹt như trước đây.
Phương pháp trắc nghiệm khách quan và tự luận đều có những ưu điểm
và hạn chế của nó. Vì vậy chúng ta cần biết kết hợp khéo léo trong giảng dạy
nhằm đạt kết quả cao nhất.
1.1.1.7. So sánh câu hỏi trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận
a. Định nghĩa
- Trắc nghiệm khách quan là bài kiểm tra, trong đó nhà sư phạm đưa ra
các mệnh đề và có các câu trả lời khác nhau, yêu cầu người học phải chọn đáp
án phù hợp.
- Trắc nghiệm tự luận là bài kiểm tra trong đó nhà sư phạm đưa ra một
hoặc nhiều yêu cầu đôi khi là bài toán nhận thức và đòi hỏi người đọc phải
phân tích các yêu cầu hoặc giải quyết các bài toán.

21


b. Những điểm tương đồng giữa câu hởi trắc nghiệm khách quan và trắc
nghiệm tự luận
Trắc nghiệm khách quan cũng như trắc nghiệm tự luận đều được dùng
với mục đích đo lường thành quả học tập quan trọng mà một bài kiểm tra có
thể khảo sát được.
+ Hai loại câu hỏi đều có thể sử dụng để khuyến khích học sinh học tập
nhằm đạt các mục tiêu dạy học.
+ Đều đòi hỏi ít nhiều sự vận dụng phán đoán chủ quan
+ Giá trị của hai loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự

luận đều phụ thuộc vào tính khách quan và độ tin cậy của chúng
c. Những điểm khác nhau giữa các câu hỏi trắc nghiệm khách quan và
tự luận
Để phân biệt dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan và dạng câu hỏi trắc
nghiệm tự luận, ta tìm hiểu bảng so sánh sau:

STT

Trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm tự luận

Câu hỏi buộc học sinh phải chọn Câu hỏi buộc học sinh tự diễn tả
1

câu trả lời đúng trong những câu trả lời bằng ngôn ngữ của chính
câu có sẵn.

mình.

Số câu hỏi gồm nhiều câu có Số câu hỏi tương đối ít và mang
2

tính chuyên biệt, học sinh chỉ tính tổng quát, học sinh phải trả lời
trả lời bằng câu nhất định.

3

dài dòng.


Học sinh phải dành nhiều thời Học sinh phải dành phần lớn thời
gian để đọc và suy nghĩ.

gian để nghĩ và viết.

Chất lượng của bài trắc nghiệm Chất lượng của bàu trắc nghiệm tự
4

khách quan được xác định phần luận tùy thuộc phần lớn vào kỹ
lớn do kỹ năng của người soạn năng của người chấm bài.

22


thảo.
Người soạn thảo tự do bộc lộ
kiến thức và các yêu cầu cá Người chấm tự do cho điểm theo xu
5

nhân qua việc đặt câu hỏi, học hướng riêng của mình, còn học sinh
sinh chỉ có quyền tự do bộc lộ cũng tự do bộc lộ cá tính của mình
hiểu biết qua tỉ lệ câu trả lời qua các câu trả lời bằng lối viết dài.
đúng.
Câu hỏi khó soạn thảo nhưng dễ

6

chấm bài và cho điểm chính
xác.


Câu hỏi dễ soạn thảo song khó
chấm và khó cho điểm chính xác.

Bài trắc nghiệm khách quan Giáo viên chấm bài thường khó
7

giúp giáo viên chấm thẩm định thẩm định được rõ ràng, chính xác,
được mức độ hoàn thành các mức độ hoàn thành các mục tiêu
mục tiêu học tập.

học tập.

Bài trắc nghiệm khách quan dễ Học sinh dễ hướng tới câu trả lời
8

hướng học sinh đến câu trả lời bằng ngôn ngữ hoa mĩ, khó xác
bằng sự phỏng đoán.

định.

Sự phân bố kết quả điểm của Sự phân bố kết quả điểm của học
9

học sinh hầu như hoàn toàn sinh hầu như được kiểm soát phần
được quyết định do số câu trả lớn bởi người chấm thi (ấn định
lời đúng của bài trắc nghiệm.

điểm tối đa hoặc tối thiểu).

Bảng: So sánh câu hỏi trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận

Qua bảng so sánh trên, ta thấy sự khác nhau rõ rệt nhất giữa hai loại câu
hỏi là ở tính khách quan, công bằng, chính xác đặc biệt là ở tính khách quan.
Do đó cần nắm vững bản chất, ưu nhược điểm của từng phương pháp để có
thể sử dụng hữu hiệu, đúng lúc, đúng chỗ.

23


1.1.1.8. Vài nét về bài tập trắc nghiệm khách quan
a. Định nghĩa bài tập
Theo từ điển Tiếng Việt 2009 của viện Ngôn ngữ học, NXB Trung tâm
từ điển: Bài tập là bài ra cho học sinh để tập vận dụng những điều đã học.
Như vậy, bài tập là nhiệm vụ mà GV đưa ra dưới hệ thống các câu hỏi
nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng sau khi học xong bài học,
đồng thời để vận dụng những điều đã học vào bài mới.
b. Bài tập trắc nghiệm khách quan
Việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học là
rất cần thiết vì:
Thứ nhất, theo chương trình đổi mới giáo dục, trong hệ thống bài tập
ngoài các bài tập truyền thống còn có các bài tập trắc nghiệm khách quan. Sự
có mặt của các bài tập trắc nghiệm khách quan này đã góp phần làm phong
phú hình thức, số lượng các loại bài tập và là cơ hội để mỗi học sinh sớm
được làm quen với một phương pháp đang được sử dụng phổ biến trên thế
giới. Đó là phương pháp kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
Thứ hai, các bài tập trắc nghiệm khách quan phủ kín nội dung kiến thức,
kĩ năng, mục tiêu cần kiểm tra, đảm bảo tính khách quan và thực hiện được
mục tiêu của môn học.
Thứ ba, đối với các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng,
các bài tập được xây dựng trong vở bài tập không phải luôn phù hợp với mọi
đối tượng học sinh ở các vùng miền khác nhau. Cho nên các bài tập do giáo

viên xây dựng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đó có bài tập trắc nghiệm
khách quan.
1.1.2. Một số vấn đề về dạy học Luyện từ và câu môn Tiếng Việt 5
1.1.2.1. Vị trí, nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
a. Vị trí, ý nghĩa của phân môn Luyện từ và câu ở Tiểu học

24


Phân môn LT&C là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng ở trường
tiểu học. Ngoài việc xây dựng thành phân môn độc lập, các kiến thức kĩ năng
về từ và câu còn được tích hợp trong các phân môn còn lại trong các phân
môn còn lại của Tiếng Việt và các môn học khác ở trường Tiểu học.
Vị trí quan trọng của phân môn này được qui định bởi tầm quan trọng
của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ.
Từ là một đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ. Muốn nắm được ngôn
ngữ nào đó đầu tiên phải nắm được vốn từ. Nếu như không làm chủ được vốn
từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng ngôn ngữ đó như một công cụ để
học tập và giao tiếp. Vì vậy dạy luyện từ cho HS tiểu học là phải làm giàu vốn
từ ngữ cho HS, phải chú trọng số lượng từ, tính đa dạng và tính năng động
của từ.
Tuy nhiên, từ không phải là đơn vị trực tiếp sử dụng trong giao tiếp.
Muốn giao tiếp, trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm với nhau con người
phải sử dụng một đơn vị ngôn ngữ tối thiểu và cơ bản là câu. Vì vậy dạy từ
ngữ cho HS phải gằn liền với dạy câu, dạy các quy tắc kết hợp từ thành câu,
quy tắc sử dụng câu nhằm đạt hiệu quả giao tiếp cao …
b. Mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu ở Tiều học
b.1. Mục tiêu
Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu là rèn luyện và phát triển kĩ
năng giao tiếp cho HS tiểu học thông qua việc phát triển vốn từ, rèn luyện kĩ

năng sử dụng từ chính xác, tinh tế để đặt câu, rèn luyện kĩ năng tạo lập câu và
sử dụng câu phù hợp với tình huống giao tiếp. Mục tiêu của phân môn được
thể hiện đầy đủ trong tên gọi Luyện từ và câu.
b.2. Nhiệm vụ
b.2.1. Về mặt luyện từ
Phân môn này có nhiệm vụ tổ chức cho HS thực hành làm giàu vốn từ,
cụ thể là:

25


×