Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Một góc nhìn về khủng hoảng tài chính đông á và những bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.72 KB, 32 trang )

1

MỤC LỤC
Lời mở đầu...............................................................................................................3
Chương 1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính......................................................4
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính:.....................................................................4
1.2. Các dạng khủng hoảng đặc thù:............................................................................4

Chương 2. Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á...................................................6
2.1. Nguyên nhân của cuộc khủng khoảng....................................................................6
2.1.1. Tóm tắt quá trình cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á:.....................................6
2.1.2. Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng:.............................................................7
2.1.2.1 Nhóm nguyên nhân chủ quan...................................................................................7
2.1.2.2. Nhóm nguyên nhân khách quan:...........................................................................12

2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á ở một số nước:.............13
2.2.1. Thái Lan- ngòi nổ của cuộc khủng hoảng:.......................................................13
2.2.2 Philippines- Nước kế tiếp tuyến lửa..................................................................15
2.2.3 Malaysia.............................................................................................................16
2.2.4. Indonesia...........................................................................................................16
2.2.5. Hồng Kông........................................................................................................17
2.2.6. Hàn Quốc-sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế lớn:..........................................17
2.7 Nhật Bản:..............................................................................................................18
2.3. Tác động của cuộc khủng hoảng:..........................................................................18
2.3.1. Tác động tiêu cực..............................................................................................18
2.3.2. Tác động tích cực:.............................................................................................20

Chương 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á đến Việt Nam và
những bài học rút ra..............................................................................................22
3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á đến Việt Nam:....................22
3.1.1. Tác động tiêu cực:.............................................................................................22


3.1.2. Tác động tích cực:.............................................................................................24
3.2. Vì sao Việt Nam không chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng:........24
3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam:..............................................26
3.4. Những chính sách gợi ý cho Việt Nam:.................................................................26

Kết luận..................................................................................................................31
Tài liệu tham khảo.................................................................................................32

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


2

MỤC LỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)....................................................8
Bảng 1.2: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)...................................................8
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước Đông Á (%)........................19
Biểu đồ 3.1: Tăng trưởng GDP thực tế và tỉ lệ làm phát 1990-2008 (%)..............23

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


3

Lời mở đầu

Trong thập kỉ 90, châu Á là tâm điểm của mọi sự chú ý trên thế giới với tốc độ
phát triển thần kì trong suốt 5 năm liền nhưng rồi chững lại vào năm 1996 do sự
tăng trưởng chậm của xuất khẩu và sự suy giảm của thu nhập quốc dân. Những
những nghi ngờ về sức mạnh thực sự của những “con hổ” châu Á trở nên nghiêm
trọng vào năm 1997 khi Đông Á trải qua một cú sốc kinh tế lớn gọi là cuộc khủng
hoảng tài chính Đông Á, bắt nguồn từ Thái Lan, sau đó lan sang Hàn Quốc,
Malaysia, Indonesia, Philipine, Hong Kong và Singapore. Mặc dù được gọi là cơn
khủng hoảng "Đông Á", nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và với
những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
Trong sự lây lan kinh hoàng đó, Việt Nam đã gần như “miễn nhiễm”. Nhưng
điều kiện và đặc điểm kinh tế hiện đại của Việt Nam đã khác so với thập kỉ trước.
Đó là sự ra đời của thị trường chứng khoán và sự đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Chúng ta đang dần hòa nhập vào những sân chơi lớn của khu vực và thế
giới bằng việc tham gia vào các tổ chức mậu dịch tự do, mở cửa tài khoản vốn và
tiến hành tự do hóa tài chính. Trong khi đó, sự thua lỗ của các doanh nghiệp nhà
nước, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng, tính cạnh tranh kém của hàng hóa Việt
Nam, và những bất cập trong chính sách điều hành kinh tế vĩ mô vẫn đang là những
vấn đề nhức nhối. Vì vậy, nguy cơ nền kinh tế Việt Nam xảy ra một cuộc khủng
hoảng tương tự trong tương lai là hoàn toàn có thể. Do đó, việc tìm hiểu về cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Á và những bài học rút ra cho Việt Nam sau cuộc
khủng hoảng là vô cùng cần thiết để tránh mắc phải những sai lầm đáng tiếc trong
công cuộc “ hóa rồng” của đất nước ta. Đó cũng chính là lý do cho đề tài “Một góc

nhìn về khủng hoảng tài chính Đông Á và những bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam”.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ



4

Chương 1. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính:
“ Khủng hoảng tài chính-tiền tệ chính là sự đổ vỡ trầm trọng các thành phần của
thị trường tài chính-tiền tệ kéo theo sự vỡ nợ của hàng loạt các ngân hàng và tổ
chức tài chính do sự sụt giảm nhanh chóng về giá tài sản mà kết quả cuối cùng của
nó là sự đông cứng và bất lực của thị trường tài chính và sự sụt giảm nghiêm trọng
của các hoạt động kinh tế.”
Theo định nghĩa của Sundarajan và Balino năm 1991: “Khủng hoảng tài chính là
tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có những khoản nợ lớn hơn
giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các cán cân đầu tư khác, dẫn
tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc chính phủ bắt buộc phải có
những can thiệp.”
Theo định nghĩa của Miskin thì khủng hoảng tài chính lại là sự đổ vỡ của thị
trường tài chính mà trong đó do những lựa chọn bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở
nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị trường tài chính không thể có những quỹ hiệu quả
cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất.

1.2. Các dạng khủng hoảng đặc thù:
Khủng hoảng ngân hàng: là dạng khủng hoảng rất hay gặp do ngân hàng là
trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên sẽ
mắc phải rủi ro từ sự “bất cập kỳ hạn thanh toán” cũng như “bất cập về chủng loại
tiền”. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi
lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể thanh toán các
nghĩa vụ khi đến hạn. Hơn nữa, ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng
hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng toàn hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp
khủng hoảng, các ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện
tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn


Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


5

hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt
động, từ đó dẫn đến việc nền kinh tế bị giảm năng lực sản xuất.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng nền kinh tế không đủ ngoại tệ để thanh
toán các nghĩa vụ nợ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ,
buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá
nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng kép: xảy ra khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng
xảy ra đồng thời với nhau.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: xảy ra khi giá chứng khoán biến động
mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh), vượt ngoài tầm kiểm soát và do
hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị
“đông cứng” vì không có giao dịch, tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào
so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán).
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai)– thành phần cấu thành
quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm
hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân
vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập khẩu trừ đi xuất khẩu) bị thâm
hụt hay tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào gây nên thâm hụt nặng nề.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ



6

Chương 2. Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á
2.1. Nguyên nhân của cuộc khủng khoảng
2.1.1. Tóm tắt quá trình cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á:
Khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Đông Á xảy ra khi nền kinh tế tích lũy đủ 4
nguyên nhân gây ra khủng khoảng là:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp.
- Sự kém hiệu quả của các công ty tài chính
-Sự lên giá của đồng nội tệ
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán.
Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái cố định quá lâu sẽ
dẫn đến yếu kém về xuất khẩu cũng như việc giữ lãi suất cao hơn các đồng tiền
mạnh ở nước ngoài, thì trước sau gì nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia
đó sẽ càng lớn, khả năng giữ tỷ giá cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc thả nổi
đồng nội tệ, tức là tăng tỷ giá hối đoái có nguy cơ rất cao.
Khi một số nhà đầu tư tiên đoán được quốc gia sở tại sắp hết dự trữ để duy trì tỷ
giá hối đoái cố định, họ sẽ bán tài sản đầu tư ở nước đó đem ra nước ngoài. Lúc đầu
chính phủ các nước sở tại thường bán dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cũ. Song đến
một lúc nào đó, nguồn dự trữ ngoại tệ gần như cạn kiệt thì bắt buộc nước đó phải
thả nổi tỷ giá. Lúc này, các nhà đầu tư nước ngoài còn lại chưa bán tài sản (cổ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu…) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang ngoại tệ
mạnh để tối thiểu hóa thiệt hại. Áp lực này càng làm tỷ giá tăng vọt.
Khi tỷ giá tăng, thì nợ nước ngoải ở các ngân hàng cũng như công ty tài chính
bằng đồng nội tệ sẽ tăng vọt theo, trong khi đó người dân lại đổ xô rút tiết kiệm
khỏi ngân hàng. Các ngân hàng vốn làm ăn yếu kém sẽ dẫn đến bị phá sản.
Việc các ngân hàng phá sản sẽ gây tâm lý lo âu cho người dân gửi tiết kiệm ở
các ngân hàng khác, khiến họ đổ xô đi rút tiền ở các ngân hàng khác, dẫn đến sự

sụp đổ dây chuyền của rất nhiều các ngân hàng.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


7

Tỷ giá hối đoái tăng mạnh sẽ làm nợ ở các doanh nghiệp tính bằng tiền nội địa
sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không còn
nguồn tín dụng cho các doanh nghiệp này hoạt động nữa. Các doanh nghiệp nào
hoạt động kém hiệu quá thì sẽ càng sớm bị đẩy đến tình trạng thua lỗ và phá sản.
Khi các doanh nghiệp bị phá sản, ngân hàng, các công ty tài chính khác lại không
thể đòi được nợ, dẫn đến sự phá sản tiếp theo của hàng loạt ngân hàng và công ty tài
chính.
Mặt khác, khi các nước bị khủng hoảng, tỷ giá hối đoái tăng cao làm tăng tính
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu từ nước đó, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến
những nước áp dụng tỷ giá hối đoái cố định. Điều này làm cho cán cân thương mại
ở những nước đó càng trở nên thâm hụt, nguồn dự trữ ngoại tệ càng thiếu hụt, dẫn
đến khả năng thanh toán của một quốc gia bị đe dọa. Đây là áp lực buộc các nước
này phải phá giá đồng nội tệ để đẩy mạnh xuất khẩu, đảm bảo khả năng thanh toán
của quốc gia. Đây là tác động dây chuyền của việc phá giá nội tệ của một nước đến
các nước khác khi khủng hoảng xảy ra.

2.1.2. Nguyên nhân xảy ra cuộc khủng hoảng:
Giờ đây, khi thế giới nhìn lại những gì đã xảy ra, chúng ta sẽ thấy khó hiểu ở hai
hiện tượng khác nhau: một châu Á hùng mạnh đạt được thành tựu kinh tế như một
huyền thoại và một châu Á yếu ớt khi đột ngột mắc phải “sự truyền nhiễm” của
“dịch khủng hoàng tài chính”. Vậy điều gì đã khiến các nước này trượt khỏi quỹ

đạo tăng trưởng đó? Phải chăng trong mỗi “con hổ” đều đã tiềm ẩn những mầm
mống của căn bệnh, dẫn đến sự bất ổn của toàn châu Á.
2.1.2.1 Nhóm nguyên nhân chủ quan
- Thâm hụt tài khoản vãng lai lớn. Từ năm 1991-1996, nền kinh tế ở khu vực
Đông Á tăng trưởng nóng với tốc độ 7% đến 8%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng
nhanh đã tạo ra sức ép lên giá cả do chi phí sản xuất ngày càng tăng, từ đó tạo ra sự
mất cân đối bên trong của nền kinh tế. Đối với Thái Lan chỉ số giá tiêu dùng tăng
nhanh, đạt mức 5,6% năm 1996 so với 3,4% năm 1993. Chính phủ vì thế phải tăng
mức lương tối thiểu, trung bình 8,5%/năm, trong khi đó năng suất lao động chỉ tăng

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


8

trung bình 3%. Đặc điểm này diển ra tương tự như ở Malaysia, Indonesia và
Philippines. Mặt khác, các nước phải tăng vốn vay từ bên ngoài để bù đắp cho việc
thiếu hụt trong nước nhằm đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa sản xuất, tăng cường đầu
tư cơ sở hạ tầng.
Theo cảnh báo của IMF, nếu thâm hụt ngân sách trên 5% so với GDP thì sẽ
đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng. Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy tình trạng
thâm hụt ngân sách ở các nước Đông Nam Á đang ở ngưỡng đáng báo động, cũng
có nghĩa là những nền kinh tế này đang mất cân đối nghiêm trọng với bên ngoài.

Bảng 1.1: Thâm hụt tài khoản vãng lai (%GDP)
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thâm hụt là do kim ngạch xuất khẩu
ở các nước này sụt giảm mạnh.


Bảng 1.2: Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á (%)
Vậy câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao trước khi khủng hoảng, chính phủ các
nước lại không lo lắng nhiều về tình trạng thâm hụt này? Lãnh đạo các nước đã đưa
ra lập luận kinh tế hết sức hợp lý rằng sự gia tăng phần lớn thâm hụt của nền kinh tế

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


9

châu Á chủ yếu phản ánh một sự đầu tư cao hơn chứ không phải do tiêu dùng thì
cuối cùng nó sẽ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế và tăng khả năng hoàn trả
nợ vay. Vì lập luận này, để bù đắp sự thâm hụt tài khoản vãng lai, chính phủ đã tích
cực vay các khoản ngắn hạn của nước ngoài để bù đắp chi tiêu trong nước, tích lũy
tình trạng mất khả năng thanh toán của toàn bộ nền kinh tế, dẫn đến khủng hoảng.
Điều đáng tiếc là phần lớn các khoản vay để chi tiêu lại được đầu tư vào việc
phát triển bất động sản hơn là để cải thiện chất lượng và sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu. Thêm vảo đó, chính phủ các nước này nói chung đã xem tình trạng xuất
khẩu sụt giảm chỉ có tính chu kỳ, cơ bản là do cầu ở Nhật và Châu Âu yếu đi, đồng
đô la lên giá. Họ hy võng cả hai yếu tố này bằng cách nào đó sẽ thay đổi, nhưng hy
vọng đó đã tắt ngấm khi ngọn lửa khủng hoảng bùng lên.
- Sự đánh giá quá cao đồng bản tệ.Trước khủng hoảng, các nước châu Á
luôn giữ cho đồng bản tệ có một tỷ giá tương đối ổn định so với đồng đô la, điều
này đã dẫn đến sự mất giá hoàng loạt của các đồng tiền trong khu vực. Xét về mặt
lý thuyết, chế độ tỷ giá hối đoái cố định theo hệ thống Bretton Woods, có ý nghĩa
tích cực trong việc ổn định hóa đòng tiền nội tệ và hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, nếu lạm dụng quá nhiều vào tỷ giá cố định trong điều kiện đồng
nội tệ trên thực tế bị giảm giá so với đồng tiền mạnh khác cũng như cơ cấu kinh tế

mất cân đối lớn sẽ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng.
Trong giai đoạn phát triển thần kì của châu Á, lạm phát cũng hoành hành các
nước châu Á làm hàng hóa ở khu vực này có nguy cơ bị mất khả năng cạnh tranh
trong dài hạn. Ở những nước mà năng suất tăng đủ để bù đắp cho sự chênh lệch về
tỷ lệ lạm phát thì sự lên giá thực của đồng bản tệ có thể bị hấp thụ. Nhưng đáng tiếc,
điều này đã không xảy ra ở các nước châu Á, trong giai đoạn này năng suất lao
động còn thấp. Chính sự mất cạnh tranh trong xuất khẩu làm trầm trọng thêm tình
trạng thâm hụt tài khoản vãng lai ở các nước này. Đáng lẽ, năm 1996, khi những
triệu chứng của việc thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước này đang ở mức báo
động, thì chính phủ đã phải áp dụng một chế độ tỷ giá linh hoạt hơn. Nhưng ngược
lại, việc kiên trì bảo vệ tỷ giá, khiến khoản thâm hụt đã vượt xa so với nguồn dự trữ

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


10

ngoại hối. Do đó, các nước trong khu vực Đông Á đành bất lực thả nổi tỷ giá vì dự
trữ ngoại tệ đã không đủ để cứu vãn thị trường ngoại hối khi có những đợt đầu cơ
tiền tệ xảy ra.
Mặt khác, một chế độ tỷ giá ổn định đã khiến người ta quên đi rủi ro về tỷ
giá trong các khoản vay và cho vay ngắn hạn. Do chi phí chênh lệch rủi ro tín dụng,
rủi ro lạm phát nên lãi suất trong nước tính bằng đồng bản tệ thường cao hơn lãi
suất thế giới, chủ yếu là lãi suất tính bằng đồng đô la. Các đối tượng như ngân hàng,
công ty và đôi khi là cá nhân thường thích vay từ nước ngoài bằng đồng đôla vì chi
phí lãi suất thấp và dường như không phải chịu rủi ro về tỷ giá. Tương tự, các nhà
đầu tư nước ngoài cho rằng thị trường mới nổi ở Đông Á cho mức lợi tức cao hơn ở
Mỹ cũng như là cho vay ngắn hạn có vẻ như an toàn vì khả năng đồng tiền mất giá

trong ngắn hạn là rất thấp. Vì vậy, chế độ tỷ giá cố định đã gián tiếp chồng chất
thêm những món nợ ngắn hạn với nước ngoài ở các nước Đông Á.
- Các luồng vốn ngắn hạn đổ vào quá nhiều. Từ năm 1990 đến 1997, lượng
vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng 5 lần từ 42 tỷ USD lên 256 tỷ
USD. Đông Á là nơi thu hút một lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% trong nửa
đầu thập niên 90 (theo NHTG 1998).
Suất sinh lời thấp ở các nước phát triển và sự thần kỳ trong tăng trưởng của
Đông Á là động lực thúc đẩy các dòng vốn di chuyển từ Mỹ, EU, Nhật Bản tới các
nền kinh tế Đông Á. Chênh lệch lãi suất giữa các nền kinh tế Đông Á và các trung
tâm tiền tệ thế giới luôn ở mức dương. Dòng vốn tư nhân càng được thúc đẩy vào
thập niên 90, khi Mỹ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và sự nới lỏng chính sách
tài chính ở châu Âu. Lãi suất nước ngoài thấp hơn lãi suất nội địa, tỷ giá hối đoái
được cố định rõ ràng là một khuyến khích cho các tổ chức kinh doanh và tài chính
trong nước đi vay vốn nước ngoài. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ
và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm
các công ty ở châu Á bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân
hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và
nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với các nhà đầu tư

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


11

nước ngoài. Nhìn vào một nền kinh tế tăng trưởng như vũ bão, lượng vốn đầu tư ồ
ạt chảy vào thì không ai nghĩ đến khả năng không thể đảo nợ của các nước Đông Á
trong giai đoạn này. Từ đây đã xuất hiện sự bất cân xứng thông tin dẫn đến vấn đề
lựa chọn nghịch diễn ra.

Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay ngắn hạn lại được đầu
tư vào dài hạn. Một tỷ trọng lớn vốn vay của ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng
được đầu tư vào bất động sản. Ở Indonesia, các khoản cho vay trong khu vực bất
động sản tăng 37%/ năm giai đoạn 1992-1997. Ở Thái Lan, các khoản cho vay bất
động sản tăng đến 42%/ năm giai đoạn 1990-1995. Ở Hàn Quốc, các khoản cho vay
ngân hàng lại tập trung vào các tập đoàn tài chính lớn. Chính điều này đã khiến nền
kinh tế các nước Đông Á mất khả năng thanh toán nợ trong ngắn hạn. Vì vậy, các
nước Đông Á đứng trên bờ vực vỡ nợ ngắn hạn khi có khủng hoảng xảy ra.
- Khu vực tài chính yếu kém và sự giám sát lỏng lẻo. Bài học đắt giá nhất mà
các nước đã trải quả khủng hoảng năm 1997 rút ra được là: trong một nước không
thể tồn tại tình trạng: tốc độ tăng trưởng nóng nhưng khu vực tài chính lại yếu kém.
Một nhà kinh tế học đã viết: “ Khi mọi việc tốt đẹp thì tài chính hoạt động ở đằng
sau một cách âm thầm và lặng lẽ. Nhưng khi mọi thứ trở nên xấu đi thì thất bại của
khu vực tài chính lại là niềm đau to lớn nhất.”
Trong giai đoạn năm 1997-1998, ở châu Á, ngân hàng giữ vai trò chủ đạo
trong việc rót những khoản tiết kiệm trong nước vào đầu tư. Ngân hàng là nơi
thường xuyên nhận các khoản tiền gửi ngắn hạn nhưng lại dùng vốn tái đầu tư vào
dài hạn, từ đó làm xuất hiện “sự bất cập về kì hạn”. Bên cạnh đó, các khoản nợ
nước ngoài của ngân hàng thường được tính bằng các đồng tiền mạnh như yên
Nhật, đô la, nhưng khi các ngân hàng cho những người đi vay trong nước vay từ
nguồn vốn nước ngoài này thì lại tính các khoản nợ bằng đồng nội tệ, làm xuất hiện
“sự bất cập về tiền tệ”. Sự bất cập kép trên quả thực là một vấn đề nan giải đối với
nhiều ngân hàng lớn và tổ chức phi ngân hàng ở châu Á trong gia đoạn này. Chính
bộ đôi bất cập trên là nguyên nhân giải thích cho sự sụp đổ của hàng loạt các ngân
hàng khi khủng hoảng xảy ra. Triệu chứng đầu tiên của dịch khủng hoảng toàn châu

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ



12

Á chính là sự sụt giá nhanh chóng của đồng nội tệ, “sự bất cập về tiền tệ” đã làm
cho các khoản nợ ngắn hạn của ngân hàng tính bằng ngoại tệ tăng vọt. Mặt khác,
khi nội tệ trượt giá, các nhà đầu tư sẽ ồ ạt rút vốn khỏi các ngân hàng để chuyển
sang ngoại tệ, lúc này, do sự “bất cập về kì hạn”, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh
toán trong ngắn hạn, dẫn đến sụp đổ.
Bên cạnh đó, sự lỏng lẻo trong việc giám sát hoạt động của các ngân hàng
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Để hạn chế sự cạnh tranh
không lành mạnh cũng như hoạt động yếu kém, một số nước đã hạn chế sự thành
lập của các ngân hàng, để đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Chính vì tâm lý khi các ngân hảng có một lượng lợi nhuận ổn định, các ngân hàng
sẽ phát triển mạnh theo đà tăng trưởng kinh tế, họ lại nới lỏng việc điều tiết hoạt
động ngân hàng, dẫn đến việc các ngân hàng cho vay qua mức, cũng như giám sát
nguồn vốn đầu tư, dẫn đến việc hình thành các bong bóng bất động sản. Mặt khác,
khi nền kinh tế đang tăng trưởng rất lạc quan, không ai lại để ý đến sự minh bạch
trong các báo cáo kế toán đầy mập mờ của các ngân hàng. Vì vậy, khi bong bóng
bất động sản vỡ, mọi người mới giật mình trước những khoản nợ kê đọng đã trở
thành gánh nặng khổng lồ cho nền kinh tế.
2.1.2.2. Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Sự đầu cơ và rút vốn hàng loạt. Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài
chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt
khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện những dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân
hàng- tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước ngoài đã tăng cường họat động đầu
cơ tiền tệ. Theo nguồn tin nước ngoài thì rất nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300
quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ USD đã nhảy vào thị trường khu
vực này trong 2 tháng 7-8/1997. Ngoài các quỹ do Soros kiểm soát còn có các quỹ
tín dụng lớn như Tiger, Orbis, Pumar, Panther và Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó
Peso, Ringgit, Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ USD để đầu cơ. Đối với các

nước có tỷ giá hối đoái cố định, các nhà đầu cơ kiếm lời bằng cách bán khống nội tệ
khiến cầu ngoại tệ tăng lên và rút ngoại tệ ra khi nội tệ sụt giá.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


13

Sau những đợt tấn công man rợ của giới đầu cơ vào thị trường Thái Lan,
khiến bong bóng tài sản ở nước này bắt đầu vỡ. Các nhà đầu tư bắt đầu hoang mang
lo sợ chính phủ không thể giữ tỷ giá cố định được nữa cũng như nguồn dự trữ ngoại
hối không còn đủ để trả các khoản nợ ngắn hạn. Nắm được điểm yếu chết người
này, hoạt động rút vốn chuyển ra nước ngoài được thực hiện ráo riết. Các nhà đầu
tư ồ ạt rút vốn khỏi ngân hàng, khiến cho ngân hàng khó trong thời điểm đó không
thể trả tiền cho tất cả mọi người. Mặt khác, ngân hàng cũng đòi lại vốn vay, từ chối
đảo nợ và cho vay mới, còn các đầu tư chứng khoán thì bán tháo chứng khoản, đổi
ngoại tệ chuyển ra nước ngoài.
- Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới. Nhật Bản, một trong những thị
trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990.
Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố
khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng
loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại
sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới
sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm
phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các
nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi
suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước
Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên

kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông
Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.

2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á ở một
số nước:
2.2.1. Thái Lan- ngòi nổ của cuộc khủng hoảng:
Trước cuộc khủng hoảng Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với
tốc độ tăng trưởng ổn định, 7% đến 8% từ năm 1991-1996, lạm phát thấp, ngân
sách chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


14

vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có. Lúc này, Thái Lan nổi lên như một
“con hổ” đang thỏa sức vẫy vùng ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, bản thân nó
đã tích tụ những mầm mống của căn bệnh làm triệt tiêu hoàn toàn sức đề kháng và
khi vừa trúng mũi tên đầu tiên, nó lập tức bị gục ngã.
Từ năm 1991-1996, đầu tư vào Thái Lan rất cao, hằng năm chiếm 40% GDP.
Bên cạnh đó, hệ số ICOR của nền kinh tế Thái Lan trong thời gian này trung bình là
5,22. Điều này cho thấy vốn đầu tư vào Thái Lan hiệu quả rất kém.
Các doanh nghiệp kinh doanh cũng trở nên kém hiệu quả. Một đặc điểm đặc biệt
ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ
trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính và sử dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài.
Việc sử dụng gần 90% vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn
sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty vì phải trả lãi thường xuyên và bằng
ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì

hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản
bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/ năm vào năm 1991 xuống chỉ còn
1%/năm vào năm 1996. Trong nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16.3%/năm còn
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã và đang tích luỹ
nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả. Các ngân hàng và công ty tài
chính Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp
trong nước. Trong cùng thời gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) của hệ
thống ngân hàng Thái Lan giảm còn 0,09%/ năm. Rõ ràng Thái đang tích luỹ nguy
cơ khủng hoảng “phá sản các ngân hàng”.
Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán trong suốt các năm 19911996, cán cân thương mại thâm hụt liên tục tổng cộng là 35,26 tỷ đôla. Thâm hụt tài
khoản vãng lai năm 1996 tới 4,7 tỷ đôla. Lý do của tình trạng này là xuất khẩu bị
kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích, lạm phát cao, đồng baht lên giá. Để bù đắp
thâm hụt thương mại, Thái Lan phải vay nợ nước ngoài , nợ nước ngoài tăng 35,99
tỷ đôla (năm 1991) lên 89 tỷ (năm 1996), gấp 2,47 lần trong 5 năm. Nợ ngắn hạn

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


15

năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan thực
tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Kết quả là tỷ giá hối
đoái tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia
này càng cao.
Cuối năm 1996 đầu 1997, nguy cơ khủng hoảng ở Thái Lan đã tích lũy đến mức
cao. Những người đầy đủ thông tin sẽ lo lắng các ngân hàng và tổ chức tài chính
phá sản thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi những tổ chức này. Từ đầu năm 1997 đến tháng

3/1997, các cá nhân và nhà đầu tư đã bắt đầu rút tiền ra khỏi ngân hàng và các công
ty tài chính. Tháng 4/1997, chính phủ phải ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính,
nâng tổng số công ty bị đóng cửa lên 58/91 công ty cả nước. Để cố định tỷ giá hối
đoái trong điều kiện số lượng mua tăng vọt, chính phủ buộc phải bán ngoại tệ, làm
dự trữ ngoại tệ giảm mạnh.
Thấy trước được nguy cơ chính phủ có thể mất khả năng bán ngoại tệ để duy trì
tỷ giá hối đoái, ngày 2/7/1997, Thủ tướng Thái Lan đã tuyên bố thả nổi tỷ giá, kết
quả là tỷ giá tăng từ 25Baht/USD lên 53Baht/USD (tháng 1/1998). Chỉ số thị trường
chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm
1997. Trong 5 tháng đầu năm 1998, đã có 4000 doanh nghiệp bị phá sản, hàng loạt
các ngân hàng và tổ chức tài chính ngừng hoạt động mà tiêu biểu nhất là sự phá sản
của công ty tài chính lớn nhất Thái Lan-Finance One.

2.2.2 Philippines- Nước kế tiếp tuyến lửa
Khi đồng Baht ở Thái Lan mất giá, các tay đầu cơ tiền tệ đã nhanh chóng quay
sang tấn công các nước láng giềng. Malina đã cố gắng kháng cự sự tấn công vào
đồng Peso bằng cách chi ra hàng trăm triệu đô la để chống đỡ cho đồng Peso trước
khi phải chịu thua và thả nổi đồng peso vào ngày 11/7. Đồng peso cũng bắt đầu rớt
giá không phanh từ 26 peso ăn 1USD xuống còn 40 peso ăn 1 USD vào cuối đợt
khủng hoảng.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


16

2.2.3 Malaysia
Năm 1997, tài khoản vãng lai ở quốc gia này thâm hụt bằng 6% GDP. Tháng

7/1997, đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách
bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. 4 ngày sau, Standard
& Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia. 1 tuần sau, thị trường chứng khoán
Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất kể từ 1993. Mùng 2 tháng 10,
đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức
đưa ra chương trình kiểm soát vốn. Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ vẫn không tránh
khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit
vào các kế hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu. Năm 1998, sản lượng đầu ra
của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%,
ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của
Malaysia giảm mạnh 6,2% năm 1998.

2.2.4. Indonesia
Tháng 7/1997, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar
Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14/8
thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn
toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn
cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ đô la, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng
Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu đô la ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá
Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình
hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua đô la vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến
cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này
tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở

Tiểu luận môn học:


Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


17

Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng
hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải
từ chức tổng thống.

2.2.5. Hồng Kông
Từ năm 1983, tỷ giá hối đoái giữa đồng đôla HK và đồng đô la Mỹ được cố định
ở mức 7,8 HKD bằng 1 USD. Đến năm 1997-1998, khi khủng hoảng tài chính Đông
Á xảy ra, các nhà đầu cơ lại tiếp tục tấn công vào đồng HKD. Tháng 10 năm 1997,
đô la HK bị tấn công đầu cơ. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ đô la
vào thời điểm, nên Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ
đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ
ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%.
Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hồng Kông nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên
thành 23%. Do dự đoán được việc tăng lãi suất của chính quyền Hồng Kông, các
nhà đầu cơ đã tấn công trên cả 2 mặt trận vào tháng 8 năm 1998. Họ vửa vay tiền
KHD và sau đó bán HKD để mua vào USD, vừa bán khống cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán Hồng Kông. Lý do là khi chính quyền Hồng Kông tăng lãi suất để
bảo vệ tỷ giá, giá chứng khoán sẽ giảm. Do vậy dù không thu được lợi nhuận từ
việc tấn công tiền tệ thì vẫn thu lợi từ việc bán khống cổ phiếu. Điều mà các nhà
đầu cơ không lường trước được là chính quyền Hồng Kông trong nỗ lực chống lại
sự xuống giá, đã dùng tiền dự trữ là 120 tỷ đô Hồng Kông để mua vào các loại
chứng khoán. Đến năm 2001, chính quyền đã bán ra số cổ phiếu này và thu về
khoảng 30 tỷ đô la Hồng Kông. Kết quả cuối cùng là giá cổ phiếu không giảm, các
nhà đầu cơ thất bại trong việc tấn công tỷ giá cũng như bán khống cổ phiếu.


2.2.6. Hàn Quốc-sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế lớn:
Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Á, đến tháng 10 năm 1997,
khủng hoảng bắt đầu cập bến Hàn Quốc. Nhiều chuyên gia đã nói, sự khủng hoảng
và suy thoái kinh tế ở Hàn Quốc chính là sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế lớn.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


18

Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc.
Thế nhưng chưa đầy 10 tháng, 7 trong 30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến
khi tập đoàn thép Hanbo-tập đoàn lớn thứ 14 của hàn Quốc phá sản vì không đủ sức
thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn Quốc mới thực sự bị chấn động. Như
một bênh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt tập đoàn khác lần lượt cũng bị
cuốn vào vòng xoáy phá sản. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn
nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này. Vì trong thời điểm đó, Hàn
Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong
nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Do tâm lý lo sợ về
khả năng trả nợ của các ngân hàng đã dẫn đến sự kiện ngày 28 tháng 11 năm 1997,
tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3,
sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá
chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường
chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2%. Trong khi đó, đồng Won
giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.

2.7 Nhật Bản:

Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt
trời mọc - Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn
nguời lao động mất việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng
yên từ tháng 5/1998 có lúc lên cao 146,5 yên/ USD vào cuối tháng 8/1998 ở mức
145,5 yên/1USD. Tốc độ tăng trưởng chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ
năm 5% xuống còn 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998.

2.3. Tác động của cuộc khủng hoảng:
2.3.1. Tác động tiêu cực
Cơn bão khủng hoảng tài chính Đông Á đã đánh dấu sự kết thúc giai đoạn “phát
triển thần kỳ” của các nước châu Á. Sau khủng hoảng, nền kinh tế khu vực đã bước
vào giai đoạn mới, phát triển ôn hòa và dựa vào sức mình là chính. Sau đó, tăng

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


19

trưởng kinh tế ở đã quay trở lại, nhưng do hậu quả kéo dài của cuộc khủng hoảng,
các nền kinh tế châu Á không thể đạt được tốc độ như trước, những nước bị ảnh
hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng đã không thể “hóa rồng” như hy vọng mà chỉ
có thể là một con hổ vẫy vùng trong khu vực.

Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước Đông Á (%).
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD,
bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế
giới khoảng 500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn

cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo
tính toán khoảng 150 tỷ đô la đã bị rút khỏi Đông nam Á. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm tiếp
theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư.
Hẩu hết các nước gánh chịu khủng hoảng, nền kinh tế vĩ mô bị ảnh hưởng
nghiêm trọng: đồng nội tệ mất giá cũng như sự bất ổn của toàn bộ thị trường tiền tệ.
Điều này đã kéo theo rất nhiều hệ lụy khác. Nội tệ mất giá dẫn đến hậu quả là hàng
xuất khẩu mất đi sức cạnh tranh cũng như lỗ hổng thâm hụt tài khoản vãng lai càng
lớn. Bên cạnh đó, sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm
gánh nặng nợ nần lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng
thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các công ty phục vụ thị trường trong

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


20

nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Ở Indonesia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ
nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã nhảy từ 35% lên đến 140%.Hệ thống ngân hàng
và thị trường chứng khoán ở các nước này gần như sụp đổ. Tình hình “bong bóng
bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó
đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó
bán. Lạm phát cũng tăng cao, kết hợp với việc thiếu các luồng vốn đầu tư do lãi suất
tăng cao và mất lòng tin đã khiến cho hàng loạt hoạt động sản xuất bị đình đốn.
Trong cuộc khủng hoảng, hảng loạt công ty bị phá sản đã khiến tình trạng thất
nghiệp tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người cũng giảm sút và không thể quay lại
mức đã đạt được năm 1996. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình
quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn

8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD,
của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Khủng hoảng kinh tế không những làm giảm mức sống của người lao động (do
lạm phát gia tăng) còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở
Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia
tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu.

2.3.2. Tác động tích cực:
Khi nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, mọi người đều phải thừa nhận
rằng ngoài việc gây ra những tác động tiêu cực, nó cũng là điểm dừng để mở ra một
giai đoạn mới nhiều triển vọng hơn.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình hình
cung cầu trên thị trường sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu được lượng ngoại tệ can
thiệp để neo giữ một tỷ giá cố định, giúp tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia và về lâu
dài. Với đồng bản tệ rẻ sẻ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ
đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


21

Thứ hai, nhiều nước như Thái lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin…sẽ nhận
được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ các mục tiêu
cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ
cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia, tạo sức ép buộc các chủ đầu

tư kinh doanh phải thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy sản xuất những
sản phẩm mới có sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi kém hiệu quả sẻ
bị cắt giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích, quá trình tư nhân hóa, giảm
thiểu khu vực Nhà nước, giảm bớt sự độc quyền và bao cấp của chính phủ.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng dịp để chính phủ và nhân dân cũng như các tổ chức
tài chính-tiền tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách thể chế lẫn những yếu tố
thuộc con người…từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh
tế-xã hội bền vững ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể
hữu cơ. Quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa sẻ được đẩy lên một nấc mới, một phần
nhờ các chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rãi theo hướng này ở các nước khu
vực sau khi đã “uống thuốc của IMF”; phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo thận trọng hơn
và thích hợp hơn của mỗi nước; phần nữa nhờ sự xuất hiện những cơ chế thúc đẩy
và giám sát mới mang tính khu vực, sự bổ sung ccủa IMF và các tổ chức tài chính
khu vực, đồng thời cũng là kết quả của sự hợp tác giữa các nước khu vực trong nỗ
lực vượt qua khủng hoảng.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


22

Chương 3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Á đến Việt Nam và những bài học rút ra.
3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á đến Việt
Nam:
3.1.1. Tác động tiêu cực:
Việt Nam không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng khoảng khu vực, nhưng
trong thời kì đổi mới, Việt Nam đang mở rộng cửa hướng đến khu vực và thị trường

thế giới. Do đó, cũng phải hứng chịu một phần tác động từ cơn bão tài chính năm
1997.
- Về xuất khẩu. Xuất khẩu là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh
tế Việt Nam phát triển. Trong 2 năm 1997-1998, nền kinh tế các nước trong khu
vực bị ảnh hưởng nặng nề sau đợt khủng hoảng, nên cầu ở các nước này giảm
mạnh, vì vậy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Năm 1997,
xuất khẩu của Việt Nam đạt 9,185 triệu USD, tốc độ tăng xuất khẩu là 26% thì đến
năm 1998, xuất khẩu bị chựng lại, chỉ đạt 9,306 triệu USD, đạt tốc độ là 1,9%. Bên
cạnh đó, do đồng nội tệ ở các nước bị giảm giá nên hàng hóa xuất khẩu của họ cũng
giảm linh hoạt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt cả về chất lượng,
cũng như giá cả. Vì vậy, để không bị hất khỏi thị trường khu vực, hàng xuất khẩu
Việt Nam cũng phải giảm giá theo.
Ngoài ra, với tình hình sản xuất khó khăn và chất lượng chưa cao, một đợt hàng
ngoại giá rẻ từ các nước khu vực đã làm tình hình sản xuất ở Việt Nam thêm đình
đốn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP và lạm phát. Do là một thành viên trong khu
vực chịu khủng hoảng, nên Việt Nam cũng không tránh khỏi sự sụt giảm GDP.
Năm 1997, GDP của Việt Nam còn tăng 8,15%, đến năm 1998 GDP chỉ còn tăng
5,76%, đến năm 1999 chỉ còn tăng 4,77%. Trong thời gian tương ứng, tăng trưởng

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


23

công nghiệp xây dựng và dịch vụ cũng bị giảm (công nghiệp - xây dựng từ 12,62%
xuống 8,33% và 7,68%; dịch vụ từ 7,14% xuống 5,08% và 2,25%). Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng bị lây nhiễm lạm phát ở các nước xảy ra khủng hoảng. Tốc độ tăng

giá tiêu dùng năm 1997 là 3,6% thì đến năm 1998 đã vọt lên 9,2%.

Biểu đồ 3.1: Tăng trưởng GDP thực tế và tỉ lệ làm phát 1990-2008 (%)
Tỷ giá hối đoái. Giai đoạn năm 1997-1998 đã ghi nhận 3 lần điều chỉnh tỷ giá
vào tháng 7-1997 (bình quân 11.690 VND/USD), tháng 2-1998 ( bình quân 12.664
VND/USD) và tháng 8-1998 (bình quân 13.715 VND/USD). Mục tiêu của 3 đợt
điều chỉnh này là để tăng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trong thị
trường khu vực trước các sự phá giá đồng nội tệ của các đối thủ cạnh tranh.
Dòng vốn nước ngoài (FDI). Sau đợt tấn công của cuộc khủng hoảng năm 1997,
các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn khỏi châu Á, vì vậy, Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng. Dòng vốn FDI của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề, vì 60% nguồn vốn này
đến từ các nước châu Á và ¼ đến từ các quốc gia ASEAN. Số lượng dự án đăng ký
mới giảm sút từ 349 năm 1997 xuống còn 285 và 327 trong các năm 1998 và 1999.
Nhưng quy mô vốn đầu tư mới thực sự là yếu tố suy giảm mạnh. Năm 1997 có 5,6
tỉ USD FDI đăng ký vào Việt Nam. Con số này chỉ còn 5 tỉ USD trong năm 1998.
Và trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng ký chỉ còn khoảng 50% của năm 1997.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


24

Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 1998 - 2000 dừng ở mức trên 2,3 tỉ USD
mỗi năm.

3.1.2. Tác động tích cực:
Khi khủng hoảng xảy ra, Việt Nam đã tranh thủ thêm một số bài học rút ra từ khu
vực và điều chỉnh chính sách nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Thực tế từ khi nổ ra

cuộc khủng hoảng khu vực đến này, đã có một loạt các chủ trương chính sách và
chương trình mới theo hướng cải cách, cụ thể như Nghị quyết 4 của Trung Ương
Đảng tháng 12/1997, chính thức kêu gọi đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước, thái độ thận trọng hơn của nhà nước khi bảo lãnh vay nợ của các
doanh nghiệp, những cải tiến trong quy định về đầu tư nước ngoài trực tiếp.v.v.
Khả năng đầu tư tài chính từ các nước trong và ngoài khu vực giảm xuống có
nghĩa tốc độ tài trợ của nước ngoài vào Việt Nam sẽ được điều chỉnh cho phù hợp
hơn với tốc độ cải cách thực tế, như vậy giảm tình trạng đầu tư có tính rủi ro cao
hay quá mức cần thiết. Trong tương lai, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chú ý nhiều
hơn tới tính hợp lý của môi trường đầu tư tổng thể và khả năng thương mại của từng
khoản đầu tư cụ thể.
Việc tăng cường sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực để giành được vốn
đầu tư nước ngoài mà giờ đây trở nên khan hiếm hơn cuối cùng sẽ tác dụng thúc
đẩy Việt Nam tiến hành các biện pháp cải cách cụ thể hơn nhằm thu hút được một
phần đầu tư nước ngoài này và tránh bị tụt hậu quá nhiều so với các nước khác
trong khu vực.

3.2. Vì sao Việt Nam không chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc
khủng hoảng:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm gần đây chủ yếu dựa
vào xuất khẩu và vốn nước ngoài (FDI và ODA), nay các nguồn này đang có chiều
hướng giảm sút. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nước thấp, bởi vậy sẽ dễ gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế.

Tiểu luận môn học:

Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


25


Cán cân thanh toán vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt kéo dài ở mức cao
so với GDP gây sức ép với tỷ giá hối đoái và tăng số dư nợ nước ngoài của Việt
Nam. Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài và ở mức cao gây sức ép tăng vay nợ và
làm hao hụt dự trữ ngoại tệ vốn đã nhỏ bé của nước ta.
Nợ nước ngoài của Việt Nam tăng khá nhanh từ sau khi nước ta bình thường hoá
quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế.
Cơ cấu vốn đầu tư còn nhiều bất hợp lý, hệ thống tài chính ngân hàng chưa đáp
ứng yêu cầu còn non yếu trong quản lý, kinh doanh, đặc biệt trong khâu phòng ngừa
rủi ro.
Những nguyên nhân trên là lí do chính tại sao Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực tuy vậy không nặng nề như các quốc gia khác do:
- Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa nhập sâu
vào thị trường tài chính khu vực, tại thời điểm khủng hoảng thị trường chứng khoán
chưa hình thành. Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên ít
chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng
- Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp, dài hạn (chiếm trên 80%).
- Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ chính phủ từ nguồn ODAvà chủ yếu là nợ
trung, dài hạn (chiếm 90%) nên sức ép đột biến của viêc thanh toán nợ không mạnh.
Việc vay trả nợ của các doanh nghiệp được quản lý chặt chẽ thông qua ngân hàng
nhà nước.
- Chính sách tỷ giá được điều chỉnh từng bước linh hoạt. Cụ thể từ năm 1986
đến 1990 tỷ giá đồng Việt Nam so với USD tăng từ 80 VND/USD lên 6.500
VND/USD. Năm 1991 lên 12.000 VND/USD.
- Việc giảm đáng kể cán cân thâm hụt thương mại (nhập siêu năm 97 giảm
37,5% so với năm 96, 8 tháng đầu năm 98 giảm 9,2% so với cùng kì năm 97). Tiến
bộ trong giải ngân ODA và FDI so với các năm trước đã góp phần làm giảm sức ép
về cán cân thanh toán của Việt Nam.

Tiểu luận môn học:


Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ


×