Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Nghiên cứu vật liệu chịu axit trên cơ sở quartz và polyme hệ na2o sio2 h2o

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.43 KB, 46 trang )

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
MỞ ĐẦU

 

Vữa chịu axit là vật liệu dạng bột, chế tạo bằng cách nghiền mịn đồng 

thời cát thạch anh sạch (hoặc quartz) và Na2SiF6 (có thể nghiền từng nguyên 
liệu rồi trộn đều) và sau đó trộn với thủy tinh lỏng natri hoặc kali thành hồ có 
khả năng  tự đóng rắn thành vật liệu dạng đá chịu được đa số các axit vô cơ  
và hữu cơ, trừ axit HF, H2SiF6, kiềm. Vữa chịu axit được sử dụng để lót các 
thiết bị hóa học, các bể chứa, chế tạo sản phẩm chịu axit, làm vật liệu trang trí 
trong  kiến  trúc  (đưa  thêm  chất  màu  vào),  làm  matit,  vữa,  bê  tông  chịu  axit 
hoặc dùng trong lĩnh vực chế tạo gạch chịu axit – được dùng rộng rãi trong 
các lò phản ứng, tháp sấy, tháp hấp thụ, lát sàn, bồn, bể… nơi có tác nhân ăn 
mòn axit. Từ nhận định trên rõ ràng đề tài "Nghiên cứu vật liệu chịu axit trên 
cơ sở Quartz và polyme hệ Na2O – SiO2 – H2O" có ý nghĩa khoa học và thực 
tiễn quan trọng. 
Đề tài "Nghiên cứu vật liệu chịu axit trên cơ sở Quartz và polyme hệ 
Na2O – SiO2 – H2O" nhằm mục đích: 
- Xác định điều kiện thích hợp cho quá trình tổng hợp. 
- Chế tạo hệ Na2O – SiO2 – H2O có modun Silic cao (αSi = 4). 
- Nghiên cứu phụ gia cho quá trình đóng rắn vữa chịu axit. 
- Nghiên cứu phụ gia cho hệ Na2O – SiO2 – H2O để nâng cao độ axit. 
Phương  pháp  nghiên  cứu  tổng  hợp  tài  liệu  tham  khảo,  phương  pháp 
thực nghiệm 
 



Nguyễn Thị Thu Trang

-1-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
 
1.1. Công nghệ sản xuất vữa chịu axit trên cơ sở chất liên kết là polyme
vô cơ
1.1.1. Tổng quan polyme vô cơ [1,5]
Polyme  vô  cơ  là  loại  hợp  chất  có  trọng  lượng  phân  tử  lớn  được  hình 
thành từ các đơn nguyên tố hay đa nguyên tố để tạo thành polyme đồng loại 
và polyme khác loại. Polyme vô cơ cũng giống polyme hữu cơ đều hình thành 
từ các phân tử nhỏ gọi là monome để tạo thành phân tử lớn gọi là polyme do 
quá trình đa tụ hay ngưng tụ tạo thành. 
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đòi hỏi vật liệu 
có tính năng phù hợp. Động lực chính trong sự phát triển của các loại polyme 
vô  cơ  chính  là  các  tính  năng ưu  việt  của  chúng  mà  vật  liệu  polyme  hữu  cơ 
không có được, đó là tính bền nhiệt và tính chịu ăn mòn. 
Với các đặc tính như bền nhiệt, có tính bền vững trong phạm vi rộng, 
tính kị nước, khả năng chống bám dính, cách nhiệt tốt, polyme silicon được 
ứng dụng rộng rãi trong công nghệ bán dẫn, các chất cách điện ở nhiệt độ cao, 
làm vòng đệm trong động cơ phản lực, làm chất phụ gia cao cấp để tăng độ 

bóng hoặc dùng để xử lý nước cho công nghệ thuộc da. Loại vật liệu này có 
thể ở một số dạng như lỏng, nhớt, chất dẻo hay nhựa. 
Polyme chứa kim loại,  mà điển hình là polyme chứa liên kết Al-N có 
độ cứng rất cao, dẫn nhiệt và cách điện tốt, bền nhiệt bền hóa, nên được ứng 
dụng rộng rãi trong công nghệ chịu nhiệt cao như : 
- Phủ bảo vệ các chi tiết tiếp xúc với các kim loại nóng chảy như nồi 
nấu thủy tinh. 
- Phủ trên các bề mặt thép, graphit, hoặc các vật liệu phi kim loại mà 
tiếp xúc với môi trường ăn mòn mạnh. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-2-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
- Làm  chất  cách  điện  ở  nhiệt  độ  cao,  làm  đế  hay  nền  cho  các  mạch 
thích hợp. 
- Làm  các  thiết  bị  trao  đổi  nhiệt,  các  bộ thoát  nhiệt trong  các  thiết bị 
năng lượng điện. 
-    Cho vào các hợp kim của kim loại nhôm, và của một số các  kim loại 
khác để tăng mô đun đàn hồi, tăng độ bền nhiệt, có thể tạo ra các vật liệu bán 
dẫn. 
Gần  đây  xuất  hiện  một  loại  polyme  là  photpho  nitrin  clorit  với  khối 
lượng hạn chế, được ứng dụng nhiều trong thực tế như : 

- Làm các chất kết dính để gắn các vật liệu kim loại và phi kim loại. 
Tạo  các  lớp  sơn  phủ  chịu  nhiệt  cao.  Lớp  sơn  phủ  này  có  thể  chịu  nhiệt  độ 
3500C, so với sơn thông thường khả năng chịu nhiệt tăng lên rất nhiều. 
- Làm chất bôi trơn. Cho thêm khoảng 1÷3% vào mỡ bôi trơn, mỡ sẽ 
không bị phân hủy ở nhiệt độ cao. 
- Có thể tạo ra sản phẩm trung gian để làm các chất chịu nhiệt, ví dụ 
như hỗn hợp với 2,3-dibrompropanol với sự có mặt của các phụ gia hữu cơ 
piridin, tẩm vào vải bông làm cho vải bông chịu được nhiệt độ 1800C. Hoặc 
tạo lớp phủ trong hỗn hợp butyl ete photpho etylclorit và nitroxenlulo với các 
ete của axetic thì sẽ tạo được màng phủ dẻo, ít bắt lửa so với lớp phủ xenlulo 
thông thường. 
- Có thể tăng độ chịu nhiệt khi đun nóng, vì vậy có thể sử dụng làm 
chất hóa dẻo trong các vật liệu màng sơn phủ. 
Nhiều loại polyme có tiềm năng không giới hạn. Thực nghiệm đã xác 
định rằng độ bền nhiệt tăng theo độ phân cực của liên kết. Ví dụ trong các loại 
polysilan kim loại thì kim loại có độ dương điện lớn hơn nên liên kết kim loại 
oxy phân cực hơn liên kết Si-O do đó có độ bền nhiệt tăng lên rất nhiều. Từ 

Nguyễn Thị Thu Trang

-3-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
đó mở ra hướng nghiên cứu mới là thêm hoặc thay thế các kim loại khác nhau 

để tăng độ bền nhiệt cho vật liệu. 
Với  vật  liệu  bền  nhiệt  mà  có  thể  tan  trong  dung  môi  hữu  cơ  thường 
được dùng để tạo lớp màng, lớp sơn hoặc lớp màng chất dẻo bảo vệ chịu nhiệt 
độ và áp suất cao. 
Nhìn chung polyme vô cơ được sử dụng rộng rãi và đặc biệt trong môi 
trường khắc nghiệt ở nhiệt độ cao, ăn mòn mạnh, áp suất lớn.Tuy vậy loại vật 
liệu này có một yếu điểm là giòn, khó gia công chế tạo, chịu va đập kém. Do 
đó nhiệm vụ đề ra cho khoa học vật liệu là phải khắc phục nhược điểm này để 
nâng  cao  chất  lượng  vật  liệu.  Và  một  xu  hướng  hiện  nay  là  nghiên  cứu  và 
tổng hợp các polyme có nguồn gốc cả vô cơ và hữu cơ, tạo ra các vật liệu mới 
mà có thể tổ hợp nhiều ưu điểm và hạn chế những khuyết  điểm. 
Người  đầu  tiên  phân  loại  polyme  vô  cơ  là  nhà  khoa  học  người  Mỹ 
Maye, dựa trên  sự  thay  đổi về  cấu  trúc polyme ở  trạng thái  rắn.  Tuy nhiên, 
phương pháp này không phù hợp. 
Phương pháp phân loại thứ 2 do Korshok và Mozgova đưa ra. Polyme 
được chia làm hai loại : 
        -   Polyme đồng nhất : được tạo ra từ các nguyên tố cùng loại :B, C, Si, 
P, S, Ge, As, Se, Sn, Sb, Te, Bi. 
       -   Polyme không đồng nhất : được tạo ra từ các nguyên tố khác loại : B, 
C, N, O, F, Si, P, S, Cl, Ge, As, Se. 
Khả  năng  tạo  polyme  đồng  nhất  và  không  đồng  nhất  phụ  thuộc  vào  năng 
lượng liên kết của mắt xích. Dựa vào thực nghiệm người ta đã xác định được 
giá trị năng lượng liên kết của một số loại polyme như sau : 

Nguyễn Thị Thu Trang

-4-               K33C – Khoa Hóa học 
 



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Bảng 1.1.Năng lượng liên kết của một số loại polyme
Liên kết

Năng lượng

Liên kết

(kcal /mol)

Năng lượng
(kcal/mol)

C-C 

80,0 

Sb-Sb 

42,0 

S-S 

63,0 

Ge-Ge 


39,2 

P-P 

53,0 

As-As 

39,0 

Se-Se 

50,0 

N-N 

37,0 

Te-Te 

49,0 

O-O 

34,0 

Si-Si 

45,0 


C-N 

66,0 

B-O 

119,3 

As-O 

64,5 

B-N 

104,3 

Al-C 

610,6 

Si-O 

89,3 

C-S 

61,5 

B-C 


89,0 

Si-S 

69,9 

P-O 

81,7 

C-Si 

57,6 

 
Năng  lượng  liên  kết  của  các  liên  kết  N-N  và  O-O  được  ghi  lại  để  so 
sánh. Cả 2 nguyên tố đều không có khả năng tạo polyme đồng nhất vì năng 
lượng  liên  kết  của  chúng  thấp,  Korshok  và  Mozogova  đã  tổng  kết  rằng 
polyme đồng nhất chỉ tạo ra khi năng lượng liên kết của mắt xích lớn hơn 37 
kcal/mol. Năng lượng liên kết trong polyme đồng nhất nhỏ hơn 80 kcal/mol là 
giá  trị  năng  lượng  liên  kết  C-C  trong  hữu  cơ.  Như  vậy  polyme  vô  cơ  đồng 
nhất không bền bằng polyme hữu cơ ở điều kiện thường. Đối với polyme vô 
cơ không đồng nhất, nhiều loại có năng lượng liên kết lớn hơn liên kết C-C, 
và hầu hết là lớn hơn của polyme vô cơ không đồng nhất. Điều này giải thích 
được xu hướng tạo polyme không đồng nhất và độ bền nhiệt của các loại vật 
liệu này. 

Nguyễn Thị Thu Trang


-5-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Phương pháp phân loại thứ 3 lá của Sowerby và Audrieth sau này được 
Shaw phát triển thêm. Theo phương pháp này polyme được chia thành 3 dạng 
tùy thuộc vào phương pháp điều chế. 
- Polyme trùng ngưng : được tạo thành nhờ phản ứng trùng ngưng. 
- Polyme đa tụ : được tạo thành khi cộng mạch các phân tử monome 
chưa bão hòa. 
- Polyme phối trí : được tạo ra bằng các liên kết giữa nguyên tử kim 
loại với Ligan hữu cơ hoặc vô cơ phù hợp. 
Shaw cho rằng loại thứ 3 là không cần thiết vì trong polyme đa tụ bao 
gồm rồi. 
Ngày nay các tài liệu khác nhau có cách phân loại khác nhau. Nhưng đa 
số dựa vào nguyên tố đặc trưng tạo ra polyme, ví dụ như : 
- Polyme chứa Si. 
- Polyme chứa photpho. 
- Polysunfat. 
- Polyme kim loại. 
- Oxopolyme. 
Trong vật liệu polyme, chỉ một số ít biết được cấu trúc chắc chắn, phần 
còn lại là rất khó khăn. Một cách đơn giản để tìm hiểu các loại polyme là chia 
nhỏ  thành  từng  dạng  khác  nhau  là  dạng  rắn,  lỏng,  thủy  tinh  và  trong  dung 
dịch. 

+ Polyme vô cơ ở dạng rắn : 
Đây là dạng tồn tại phổ biến nhất. Trong dạng này, polyme có thể có 
cấu trúc mạch thẳng, mạch nhánh, cấu trúc lớp hoặc cấu trúc không gian.
Các nguyên tố trong polyme có cấu trúc này thường ở nhóm IIIB đến 
nhóm VIB trong bảng hệ thống tuần hoàn. Đó là các nguyên tố B, C, Si, Ge, 
Sn, P, As, Sb, Bi, Se, Te. Các nguyên tố VIB thường tồn tại ở mạng không 

Nguyễn Thị Thu Trang

-6-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
gian thay đổi phức tạp, nguyên tố nhóm VB có cấu trúc mắt xích, hay cấu trúc 
lớp,  nguyên  tố  nhóm  VIB  thường  có  xu  hướng  tạo  cấu  trúc  vòng  hay  mắt 
xích. 
+ Polyme vô cơ ở dạng lỏng : 
Rất  ít  loại  polyme  vô  cơ  được  nghiên  cứu  trong  trạng  thái  lỏng  tinh 
khiết.  Có  lẽ  hợp  chất  polyme  quan  trọng  nhất  ở  trạng  thái  này  là  polyme 
sunfua và halogen polysunfua. Loại vật liệu này tồn tại ở dạng polyme đồng 
nhất  và  công  thức  chung  là  H2Sn  và  X2Sn  (X    là  Cl  và  Br).  Tại  nhiệt  độ 
thường,  tất  cả  các  polyme  này  đều  tồn  tại  ở  dạng  lỏng  tinh  khiết, 
hydropolysunfua có màu  vàng hoặc trắng, clopolysunfua có  màu đỏ da cam 
và brompolysunfua có màu đỏ nâu.
+ Polyme vô cơ ở dạng thủy tinh :

Nghiên cứu polyme ở trạng thái thủy tinh chủ yếu hướng vào các loại 
photphat,  silicat và borat.  Tất  cả những vật  liệu này  đều  có khả năng tạo ra 
trạng thái thủy tinh khi làm nguội nhanh trạng thái nóng chảy của chúng.
Trong silicat lỏng ban đầu có thành phần 3M2O.2SiO2 thì tất cả hai ion 
(Si2O7)6- và M+ đều tồn tại, và sẽ tồn tại như vậy khi làm lạnh nhanh đều thu 
được trạng thái thuỷ tinh mà ở đó các anion (Si2O6)6- định hướng ngẫu nhiên 
và kết hợp với cation M+. Còn với SiO2 và GeO2 lỏng có cấu trúc mạng không 
gian, nó sẽ giữ nguyên cấu trúc này khi được làm lạnh để chuyển sang dạng 
thuỷ tinh. 
Cấu  trúc  của  các  photphat,  silicat  và  borat  ở  trạng  thái  nóng  chảy  và 
thủy tinh phụ thuộc rất nhiều vào tỉ lệ hỗn hợp các nguyên tố đó. Việc thêm 
oxit kim loại vào P2O5, SiO2 và B2O3 sẽ tạo ra photphat, silicat và borat tương 
ứng và dẫn tới việc phá vỡ cấu trúc không gian của các oxit phi kim, vấn đề 
này phụ thuộc vào phần trăm của oxit kim loại được thêm vào. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-7-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Khi nghiên cứu của cấu trúc polyme silicat, Zachariasen, đã cho rằng tỷ 
lệ M2O/SiO2=R, trong khoảng từ 0 đến 0,5 thì cấu trúc ở dạng nóng chảy và 
thủy  tinh  giống  cấu  trúc  ở  trạng  thái  rắn,  đó  là  cấu  trúc  không  gian,  và  độ 
phức tạp giảm dần theo giá trị của R. Khi R trong khoảng từ 0,5 đến 1 thì cấu 

trúc  không  gian  sẽ  chuyển  sang  cấu  trúc  lớp.  Khi  R=1  thì  cấu  trúc  là  dạng 
chuỗi hay vòng metasilicat. Khi R>1 thì sẽ có sự bẻ gãy cấu trúc đisilicat hoặc 
octosilicst.  Như  vậy  giá  trị  R  tăng  lên  thì  độ  phức  tạp  trong  cấu  trúc  của 
polyme vô cơ sẽ giảm. Tuy nhiên lý thuyết này đã thất bại khi giải thích sự 
thay  đổi cơ bản  trong ô  mạng silicat khi có  mặt  của  10%  mol  oxit kim loại 
kiềm hay  20% kim  loại kiềm thổ. Sự  thay  đổi này  không thể giải thích dựa 
vào sự bẻ gãy cấu trúc mạng không gian Si-O-Si. Do vậy Bockric và các cộng 
sự đã đề nghị rằng khi hỗn hợp có trên 12% mol M2O thì dạng nóng chảy hay 
dạng thủy tinh sẽ chứa ion (SinO2n-3). Chính ion này sẽ tồn tại trong hệ chứa 
tới trên 50% M2O. Tuy vậy hiện nay vẫn chưa có lý thuyết nào giải thích cặn 
kẽ, chi tiết về cấu trúc polyme ở dạng thủy tinh. 
+ Polyme trong dung dịch :
Nghiên  cứu  về  phần  này,  người  ta  quan  tâm  đến  việc  đo  khối  lượng 
phân tử  của  một  số  polyme  trong  dung dịch  nước và  không  phải dung  dịch 
nước. 
Trong dung dịch các polyme vô cơ có thể tạo thành các đa nhân anion, 
cation, hay có thể thành các chất điện ly cao phân tử. 
- Tính chất của polyme vô cơ :
Các  polyme  có  mạch  thẳng  hoặc  mạch  vòng có nguồn gốc vô cơ  hay 
hữu cơ đều được hợp thành từ các phân tử nhỏ để tạo thành các phân tử lớn, 
phân  tử  càng  lớn  độ  uốn  càng  cao  và  tạo  ra  tính  dẻo  của  polyme.  Nguyên 
nhân tạo ra tính dẻo là do cấu trúc trong phân tử lớn càng dài, do đó có nhiều 
mối nối các nguyên tử tạo ra phân tử lớn. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-8-               K33C – Khoa Hóa học 
 



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Ví dụ, mạch vòng polyme sunfua kim loại chứa vài chục ngàn nguyên 
tử liên kết với nhau tạo mắt xích có độ dài lớn vá tính dẻo cao. Ngoài yếu tố 
mạch dài do liên kết cộng hóa trị tạo nên trong các polyme vô cơ, còn có liên 
kết kim loại – á kim tạo được mạch vòng trong phân tử lớn hình thành mạch 
dài nối các nguyên tử bằng liên kết cộng hóa trị. Loại liên kết này đơn giản có 
tính đối xứng hình trụ nên  có thể quay xung quanh mối liên kết nguyên tử - 
nguyên tử, giống liên kết C-C của polyme hữu cơ. Do đó polyme vô cơ cũng 
có tính chịu uốn và tính dẻo như các polyme hữu cơ. 
Các  polyme  có  2  đặc  tính  quan  trọng  là  các  phân  tử  lớn  có  tham  gia 
chuyển  động  và  có  xác  suất  tạo  mạng  không  gian  trong  cấu  trúc.  Khi  hình 
thành  phân  tử  lớn,  các  polyme  có  các  phân  tử  nhỏ  tồn  tại  ở  trạng  thái  dịch 
chuyển về cân bằng. Dưới tác động nhiệt đủ lớn để cắt các phân tử nhỏ khỏi 
phân tử lớn, khi đó các phân tử nhỏ sẽ di chuyển nhanh hơn và có thể thoát ra 
khỏi phân tử lớn, làm cho polyme bị phá hủy bởi nhiệt. Sự chuyển động nhiệt 
có thể xảy ra trong phân tử lớn hay ở một số bộ phận phân tử nhỏ. Hoặc do độ 
uốn khúc  của  mạch  cấu trúc  phân  tử  lớn  làm  chuyển  động từng  phần  mạch 
polyme tạo ra sự chuyển động từng phần. 
Các  phân  tử  lớn  càng  có  tính  gấp  khúc  cả  ở  trạng  thái  lỏng  và  rắn. 
Trong trạng thái lỏng, các polyme có thể tồn tại ở dạng phân tử lớn riêng biệt, 
hay các hợp phần bị phân ly từ phân tử lớn ra, nó cũng có chuyển động độc 
lập trong mạch. Do tính đóng mạch đạt mức độ cao thấp khác nhau trong các 
polyme tạo ra cấu trúc sít đặc khác nhau, đó là nguyên nhân khác nhau trong 
các polyme tạo độ giãn nở và độ hòa tan trong các dung môi khác nhau của 
các polyme. Khi đa tụ tại polyme, các  mối nối trong  mạch cấu trúc càng sít 
đặc, độ giãn nở nhỏ và  khả năng khuếch tán dung  môi  vào  vật  liệu  càng ít. 

Điều này tạo ra tính bền nhiệt và bền hóa cho vật liệu. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-9-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Trong  phân  tử  polyme  mạch  nhánh  thì  chúng  đều  có  xu  hướng  cuộn 
tròn các nhánh lại để tạo các phân tử nhỏ do có hiện tượng gấp khúc tồn tại 
bên trong. Tuy nhiên khi tạo cấu trúc cuộn tròn thì polyme sẽ kém bền, điều 
này thể hiện các polyme có phân tử lớn nhưng độ nhớt lại nhỏ. 
Như vậy, việc hình thành polyme tinh thể hay vô định hình là tùy thuộc 
vào điều kiện hình thành  polyme như : nhiệt độ, thời gian tạo mầm kết tinh, 
phương pháp polyme hóa. 
Ví dụ polyme photpho nitrin clorit ở nhiệt độ phòng sau một tuần sẽ có 
tinh  thể  (PNCl2)  kết  tinh  và  mất  dần  tính  dẻo  do  trong  polyme  tinh  thể  các 
phân  tử lớn được  sắp  xếp  rất chặt và  giữ  nguyên  vị  trí  trong mạch  cấu  trúc 
nhờ lực kết giữa các phân tử. Đây là tính vật lý quan trọng của polyme vì nó 
phản đặc cấu trúc của polyme. Với polyme mạch vòng vô định hình cong cơ 
nhiệt có 3 khu vực đặc trưng cho 3 trạng thái : 
    Năng lượng 
   I: Trạng thái thủy tinh 
         E                                                                  
                                                                              II: Trạng thái dẻo 

 
 
                                                                              III: Trạng thái chảy nhớt 
                                                                             
                                                                                tg:Nhiệt độ giòn 
 
          
 
     III                              tz: Nhiệt độ thủy tinh hóa 
                                                                              
II                                                     tm: Nhiệt độ chảy mềm 
                                                                               
                                                                                tp: Nhiệt độ phân hủy 
  I                                            Nhiệt độ                                                  
                                                                      E: Khả năng biến dạng 

tg       tz                   tm 
tp       
 
 
Hình 1.1.Đường cong cơ nhiệt của polyme 

Nguyễn Thị Thu Trang

-10-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

 
Khi thay đổi nhiệt độ và tải trọng tác dụng và vật liệu đủ để gây ra biến 
dạng rõ rệt ở các phân tử chưa thoát khỏi phân tử lớn để chuyển động tự do 
nhưng làm cho hệ có độ giãn nở cao. Nhiệt độ đủ để gây ra biến dạng đó là 
nhiệt độ giòn tg của polyme. Polyme tồn tại ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ giòn 
sẽ có biến dạng dẻo do tinh hóa tz, thì năng lượng chuyển động nhiệt của phân 
tử đủ lớn làm cho tập hợp của các phân tử chuyển động, đến khi nhiệt độ lớn 
hơn tz thì sẽ có chuyển động tự do của các phân tử nhỏ, polyme ở trạng thái 
dẻo và biến dạng thuận nghịch. Đây chính là nhiệt độ giới hạn gia công của 
polyme tạo sản phẩm. 
Trong  trạng  thái  biến  dạng  thuận  nghịch,  năng  lượng  nhiệt  đủ  lớn  để 
các phân tử chuyển động tự do và nhờ có sự quay của các phân tử lớn, biến 
dạng  dẻo  phát  triển  nhanh  trong  toàn  khối  vật  liệu.  Thời  gian  lay  động  rất 
nhỏ, do đó toàn bộ năng lượng dồn cho chuyển động tự do các phân tử (lớn và 
nhỏ) lay động nhưng không thoát ra khỏi vị trí cấu trúc trong mạng. 
Ở trạng thái chảy nhớt, các phân tử đều chuyển động. Sự dịch chuyển 
này tùy thuộc vào kích thước phân tử. Khi sự chảy nhớt kèm theo sự quay các 
phân tử lớn sẽ làm tăng tính biến dạng cho đến trạng thái chảy lỏng. Do đó độ 
nhớt khi chảy lỏng sẽ tăng dần trong vật liệu polyme. 
Polyme vô định hình sẽ ở nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ chuyển hóa sang 
dạng bán lỏng. Nhiệt độ thủy tinh hóa được xác định qua hai yếu tố: 
-

Khả năng uốn khúc của khung xương và nhóm cạnh. 

-

Độ thể tích tự do được xác định bằng các nhóm cạnh. 


1.1.2. Công nghệ sản xuất vữa chịu axit trên cơ sở chất liên kết là polyme
vô cơ
Chất liên kết polyme vô cơ [11,14]
Polyme vô cơ được sử dụng đầu tiên vào thời kỳ Badarian ở Ai Cập, nó 
là thủy tinh silicat kiềm được sử dụng như một loại men để tráng vòng trang 

Nguyễn Thị Thu Trang

-11-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
sức. Cho đến thế kỷ XIX thì polyme vô cơ đã có những bước phát triển đáng 
kể  khi  mà  Thomas  Graham  lần  đầu  tiên  công  bố  về  natri  polyphotphat  còn 
được biết đến dưới tên gọi  muối  madrell hay  muối kurrol được Taman phát 
hiện ra năm 1892. Từ những năm 1950, đã có nhiều công trình nghiên cứu để 
tổng  hợp  polyme  vô  cơ  gồm:  polyphotphat,  polysilicat,  polyborat.  Các  vật 
liệu này đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp. 
Polyme của hợp chất Si có rất nhiều loại như (SiC)n có cấu tạo tinh thể 
hình khối lập phương, có tỉ trọng lớn hơn 3,2 g/cm3. Chúng có nhiệt độ chảy 
lỏng rất cao 26000C và độ rắn chỉ sau kim cương, vì vậy thường được làm bột 
mài, điện cực và có tính dẫn điện tốt. Cacbuasilic được chế tạo bằng cách đốt 
nóng  hỗn  hợp  cát  thạch  anh  và  cốc  trong  lò  điện  ở  18000C  –  20000C  theo 
phản ứng: 

         SiO2 + 3C → 2CO + SiC 
Ngoài Cacbuasilic, còn có Nitricsilic (S2N4)n cũng thuộc polyme rắn có 
tỉ trọng 3,44g/cm3. Loại này rất bền hóa ở nhiệt độ 19000C mới bị phân hủy. 
Phổ  biến  nhất  trong  các  loại  polyme  của  Silicat  hay  Natrisilicat.  Loại 
này được chế tạo rất đơn giản chỉ việc cho SiO2 tác dụng với kiềm ở nhiệt độ 
thấp hay nhiệt độ cao tùy theo phương pháp khô hay ướt. Natrisilicat có thể 
tồn tại ở dạng rắn lỏng. 
Theo phương pháp ướt có Silicat ở dạng lỏng: 
2NaOHdd  +  SiO2  →   Na2SiO3dd  +  H2O 
Theo phương pháp khô có phản ứng: 
Na2CO3    +   SiO2 →   Na2SiO3     +  CO2 
Nếu đem Na2SiO3 rắn hòa tan trong nước được dung dịch nhớt gọi là 
thủy tinh lỏng. Muốn có thủy tinh rắn phải thay đổi tỉ lệ mol giữa Na2O/SiO2 
và thêm các phụ gia để làm giảm độ tan của Na2CO3 trong nước. Khi phân ly 
trong nước Natrisilicat  tạo ra các cation Na+ và các anion monome dưới dạng 

Nguyễn Thị Thu Trang

-12-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
[H3SiO4]-. Khi dung dịch đặc hơn các mức độ polyme hóa khác nhau theo cơ 
chế: 
          


            O-                                 O-                            O-         O- 
            │                                  │                             │         │                                                       
    HO─Si─OH      +        HO─Si─OH   →  HO─Si─O─Si─OH  +  H2O                    
            │                                  │                             │         │                                   
             OH                              OH                          OH       OH                                  
       
         O-                       O-        O-                         O-        O-          O- 
         │                        │         │                       │         │           │ 
HO─Si─OH  + HO─Si─O─Si─OH→HO─Si─O─Si─O─Si─OH + H2O        
         │                        │         │                        │         │         │ 
         OH                     OH       OH                    OH     OH      OH 
 
         
         O-                                O-                               O- 
         │                                 │                                │ 
HO─Si─OH     +        HO─Si─O ─ H  → HO ─  Si─O ─ H    +  H2O 
         │                                 │                                │ 
        OH                               OH        n                   OH 
    n+1 
 
 
Cân bằng giữa các polyme và monome phụ thuộc vào nồng độ và pH 
của dung dịch do môi trường có tác động làm thủy phân polyme. Axit silisic 
là axit yếu nên ít bị phân ly do đó dung dịch Natrisilicat có tính kiềm, khi bị 
axit hóa  thì  các cation  Natri được thay  thế  bằng  các proton,  còn axit  Silixic 
tạo thành sẽ nhanh chóng tạo thành ngưng tụ để giải phóng nước và tạo gel 
của poly axit Silixic dưới dạng xH2O.ySiO2. Chúng có cấu tạo mạch thẳng ở 
dạng lớp hay không gian của tứ diện, bên trong tứ diện còn chứa một số nhóm 
hydroxyl. Phân tử lượng của poly axit Silixic có thể đạt tới 107 hoặc cao hơn. 

Độ  bền  vững  của  nó  trong  dung  dịch  phụ  thuộc  vào  nồng  độ  pH  của  môi 
trường. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-13-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Khi pha loãng nồng độ sẽ tạo ra polyme có phân tử lượng thấp hơn. Gel 
của  poly  axit  Silixic  ở  pH=  5÷6  bị  tách  ra  dới  dạng  kết  tủa.  Khi  đốt  cháy, 
dung dịch gel bị trương nở trong nước và kèm theo quá trình ngưng tụ tiếp tục 
để tách nước của poly axit Silixic. Khi mất nước hoàn toàn sẽ được polyme 
xốp và giòn, chứa nhiều nhóm hydroxyl được dùng làm chất phụ gia tốt. Nếu 
cho  ngưng  tụ  đồng  thời  dung  dịch  axit  Silixic  và  Nhôm  hydroxyl  sẽ  tạo 
polyme có cấu trúc không gian gọi là các Silicat phức tạp, có thể có cấu trúc 
mắt xích, lớp hay không gian được dùng làm chất hấp phụ chọn lọc trong kĩ 
thuật. 
Nhận thấy những đặc điểm, tính chất ưu việt của polyme trên cơ sở Si. 
Một xu  hướng  mới  đưa ra để nghiên cứu và tổng hợp là các màng phủ  trên 
polyme  Si.  Các  màng  này  được  phủ  trên  bề  mặt  kim  loại  sẽ  có  nhiều  ứng 
dụng rộng rãi trong việc bảo vệ các thiết bị chịu ở nhiệt độ cao, chống lại sự 
xâm thực, khả năng ăn mòn của môi trường trong các thiết bị chịu axit. 
Màng phủ vô cơ trên cơ sở Silic chia làm 2 loại: 
- Màng phủ trên cơ sở keo Si và kim loại kiềm. 

- Màng phủ trên cơ sở keo Si và nhóm ankyl. 
+  Màng  phủ  trên  cơ  sở  keo  Si  và  kim  loại  kiềm:  Các  kim  loại  kiềm 
thường là: Natri, Kali, Liti. Quá trình tổng hợp màng trên cơ sở Si và kim loại 
kiềm tương đối đơn giản, khi hòa tan trong nước chúng phụ thuộc vào tỷ lệ 
của Silic và các oxit của các kim loại kiềm, khi tỷ lệ đó khác nhau thì sẽ tạo ra 
các màng có tính chất khác nhau. 
Sau đây là bảng tỷ lệ có thể sử dụng để tổng hợp các màng phủ [12] 

Nguyễn Thị Thu Trang

-14-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Bảng 1.2. Tỷ lệ thành phần nguyên liệu tạo màng phủ
Stt

Tên màng

Thành phần

Tỷ lệ




Natri Silic 

SiO2:Na2O 

(2,4÷4,5)/1 



Kali Silic 

SiO2:K2O 

(2,1÷5,3)/1 



Liti Silic 

SiO2:Li2O 

(2,1÷8,5)/1 

 
+  Màng phủ trên  cơ sở keo  của  Si  và  Ankyl:  Các  hợp  chất  tạo  màng 
trên  keo  Si-Ankyl:  Methyl  silicat,  Etyl  silicat…  Với  mỗi  loại  Ankyl  khác 
nhau. Tuy nhiên sự hình thành keo Si-Ankyl phụ thuộc vào hệ số: hàm lượng 
nước, nồng độ axit, kích cỡ của nhóm Ankyl [12]. 
Cơ sở: (R: gốc Ankyl) 
  
 

        RO                                      RO 
           │                                        │ 
R─O─Si─OH  +  H+   →  R─O─Si─O(+)─H 
           │                                        │  │   
         RO                                     RO  H 
 
    
 
 
        RO                            RO                    RO      RO 
           │                              │                       │        │ 
R─O─Si─O(+)─H  + HO─Si─OR → RO─Si─O─Si─OR + H2O + H+ 
           │   │                        │                       │        │ 
        RO    H                     RO                     RO     RO 
 
Ngoài ra các polyme axit Silixic còn phản ứng với ion Zn2+ tạo ra gel Silicat: 
   
 
 
 
 

Nguyễn Thị Thu Trang

-15-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

 
 
        HO        OH      OH         OH       OH 
           │        │         │            │         │ 
2HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─OH      +    Zn+ 
           │        │         │            │         │ 
        HO        OH      OH          OH      OH 
 
                        
                 
  
 
 
 
      HO         OH     OH        OH     OH 
         │         │        │          │        │ 
HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─OH 
         │         │        │          │        │      
         O         OH     OH       OH     OH 
         │                                                                       
         Zn                                                                     +  H2 
         │ 
         O     OH      OH      OH      OH       OH 
         │     │         │         │         │          │ 
        HO─Si─O─Si─O─Si─O─Si─O─Si─OH 
         │     │         │         │         │          │ 
      HO     OH      OH      OH      OH        OH 
 

                                    
 
                      + Zn2+                           
                                 
               
 
 
            
 

Nguyễn Thị Thu Trang

-16-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
                │ 



 Zn            Zn 
                │ 




O             O 
                │ 



Si ─  O─Si 



               │ 
O            O 



               │ 
 Zn           Zn 

 
               │ 



O             O 
                │ 



Si ─  O─Si 
                │ 




O             O 
                    
 n

                │ 
 Zn           Zn 



                │ 
 



 

Polyme kẽm silicat 

Chất kích thích đóng rắn:
Nhằm  làm  quá  trình  liên  kết,  đóng  rắn  và  tính  bền  nước  của  vật  liệu 
chịu axit. Người ta thường dùng Na2SiF6 hay silic hoạt tính như: Tripen, chất 
thải silic.  Na2SiF6  thủy  phân  với  nước trong  thủy  tinh  lỏng  tạo  HF,  HF  này 
một phần bay ra làm tăng lỗ xốp và CO2, H2O dễ dàng xâm nhập cấu trúc làm 
quá trình đóng rắn nhanh hơn. HF dư trong Na2SiF6 sẽ trung hòa kiềm và có 
khả  năng  tạo  nên  H2SiO3  làm  tăng  tính  bền  của  nước  vật  liệu.  Na2SiF6  cho 
vào từ 2 ÷ 6% tính theo trọng lượng phối liệu, nhiều quá thì quá trình đóng 

Nguyễn Thị Thu Trang


-17-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
rắn nhanh và cường độ giảm. Ngược lại ít quá thì quá trình đóng rắn chậm và 
tính bền nước giảm. 
Phụ gia chịu axit:
Dùng  các  khoáng  Quartz  (độ  chịu  axit  từ  99,5  ÷  99,9%).  Andezit 
(91,98%),  đá  Đan  mạch  (98,5  ÷  99,5%),  diabaz,  đá  hoa  cương.  Độ  bền  của 
vữa chịu axit phụ thuộc vào độ mịn của phụ gia, độ mịn càng lớn độ axit càng 
tăng. Yêu cầu cỡ hạt  <0,15mm, độ bền 94 ÷ 97%, độ ẩm <2%. 
Hiện nay, lượng chất thải rắn Na2SiF6 rất lớn hàng nghìn tấn mỗi năm  
(như  nhà  máy  supephotphat  và  hóa  chất  Lâm  Thao),  lượng  bã  thải  từ  công 
nghiệp sản xuất phèn nhôm cũng lớn nên  việc tận dụng bã thải làm nguyên 
liệu sản xuất vữa chịu  axit  có ý nghĩa thực tiễn trong  sản xuất  vữa phục vụ 
trong nước và giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do các nguồn phế thải. 
Luận  văn  này  tập  trung  nghiên  cứu  sản  xuất  vữa  chịu  axit  trên  cơ  sở 
chất liên kết là Na2O - SiO2 - H2O, chất kích thích đóng rắn là Na2SiF6 có sử 
dụng SiO2 hoạt tính đi từ các loại phụ gia chịu axit. Tổng hợp polyme vô cơ 
Natrisilicat. Nghiên cứu ảnh hưởng của phụ gia chịu axit (Quartz) đến độ bền 
axit của vữa. Từ đó đưa ra mỗi loại công thức phù hợp với mỗi loại phụ gia 
chịu axit. Sau đó thử các tính năng cơ lý hóa của vật liệu. 
 
 

 
 
 
 
 
     
 

Nguyễn Thị Thu Trang

-18-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ 
THỰC NGHIỆM

2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Các phương pháp phân tích [2,3]
2.1.1.1. Phương pháp phân tích thể tích xác định hàm lượng Na2O
Cho 10ml dung dịch cần phân tích vào bình định mức 100ml bằng nước 
cất. Lấy từ bình định mức ra 5ml vào bình nón và chuẩn độ bằng HCl 0,1N 
với chỉ thị phenolphtalein, cho đến khi dung dịch chuyển từ màu hồng sang 
không màu. Xác định thể tích HCl đã sử dụng. 
Phần trăm khối lượng Na2O được xác định theo công thức: 

%Na2O = 

V.N.a.31.100
.100%  
b.c.d.1000

Trong đó: 
V (ml): Thể tích dung dịch HCl chuẩn 
N (N): Nồng độ đương lượng gam của dung dịch HCl chuẩn 
a (ml): Thể tích pha loãng định mức dung dịch ban đầu 
b (ml): Thể tích dung dịch lấy để phân tích 
c (ml): Thể tích dung dịch đã được pha loãng lấy chuẩn độ 
d (g/ml): Tỷ trọng của dung dịch đã lấy 
31 và 1000: Là các hệ số chuyển đổi 
2.1.1.2. Phương pháp phân tích khối lượng xác định hàm lượng SiO2
Dùng phương pháp phân tích khối lượng để xác định hàm lượng SiO32- 
có trong dung dịch thông qua SiO2. 
Lấy 10ml dung dịch cần phân tích cho dư axit HCl 20% và sẽ tạo kết 
tủa (thử bằng phenolphtalein): 
                SiO32-   +   2H+    →   2H2SiO3 

Nguyễn Thị Thu Trang

-19-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


 
Lấy kết tủa thu được đem lọc chân không, sau đó đem sấy khô ở 1000C, 
tiếp tục đem rửa bằng nước ấm cho đến khi hết Cl- (thử bằng AgNO3). Kết tủa 
đem  sấy  khô  trước  khi  đưa  vào  lò  nung  ở  9000C  trong  1  giờ,  theo  phương 
trình phản ứng: 
                 H2SiO3   →    SiO2   +    H2O 
                        Phần  trăm  SiO2  trong  phản  ứng  được  tính  theo  công  thức: 
 

                                                      

Trong đó:   
                ∆ m(g): Là khối lượng kết tủa thu được sau khi nung 
               d (g/ml): Là tỷ trọng của dung dịch đem phân tích 
                 V (ml): Là thể tích của dung dịch khi lấy đem phân tích 
2.1.1.3. Phương pháp xác định tỷ trọng của polyme vô cơ 
Lấy  các  polyme  đã  tổng  hợp và  thủy  tinh  lỏng  ban  đầu  cho  vào  bình 
định mức đến vạch định mức, rồi đem đi cân. 
Tỷ trọng của các polyme được xác định theo công thức sau: 
D = (mdm + TTlong – mdm)/vdm 
2.1.1.4. Phương pháp đo độ nhớt của của polyme bằng nhớt kế Ostwald
Cơ sở lý thuyết: 
Tác  dụng  của  một lực  ngoài  vào  lớp  dung dịch  mỏng nằm  song  song 
với  mặt thoáng làm  cho nó chuyển động với một vận tốc không lớn lắm u1, 
đồng thời khi đó các lớp dưới cũng sẽ chuyển động theo với vận tốc giảm dần 
tỷ  lệ  thuận  với  khoảng  cách.  Trị  số  lực  ngoài  sẽ  bằng  ma  sát  nội  nhưng  có 
hướng ngược lại và tỷ lệ thuận với tiết diện S đồng thời cũng tỷ lệ thuận với 
gradien tốc độ giữa các lớp du/dx. 
 

 

Nguyễn Thị Thu Trang

-20-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                      F =  .S.

du
dx

 

Trong đó: hệ số tỷ lệ    được gọi là hệ số nhớt hay độ nhớt. Thứ nguyên 

của    là Poaz (g.cm-1.s-1). 
Về  thực  nghiệm,  độ  nhớt  có  thể  được  xác  định  bằng  nhiều  phương 
pháp: phương pháp hạt rơi, phương pháp nghiên cứu độ chảy của dung dịch 
qua mao quản, … Trong luận văn này sử dụng phương pháp nhớt kế Ostwald.
Đo độ nhớt bằng nhớt kế Ostwald:
Nhớt kế Ostwald được mô tả ở hình dưới, là một dụng cụ thủy tinh hình 
chữ U gồm nhánh 1 và 2. Nhánh 2 là mao quản có đường kính  xác định, có 
khắc  vạch  định  mức  a,  b.  Khi  đó,  ta  xác  đinh  được  thời  gian  mà  chất  lỏng 
chảy từ mức a đến mức b. 
Trước khi tiến hành đo, cần phải rửa sạch nhớt kế tránh rửa bằng nước 
cất. Nhớt kế được đặt trong bình ổn nhiệt độ, mức nước cần vượt qua mức a 
của nhánh 2. Dùng pipet hút 10ml chất lỏng vào nhánh 1. Dùng ống cao su 
nối vào nhánh 1 và bơm từ từ (để tránh có bọt lẫn trong chất lỏng) chất lỏng 
lên quá mức a chừng 1cm. Khi đó, chất lỏng vẫn còn ở đáy bầu to của nhánh 
1. Để chất lỏng chảy tự nhiên và dùng đồng hồ bấm giây xác định thời gian 

Nguyễn Thị Thu Trang

-21-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
chất lỏng chảy từ mức a đến mức b. Làm lại ít nhất 3 lần để lấy giá trị trung 
bình. 
Đặt máy ổn nhiệt ở nhiệt độ cố định, xác định độ nhớt của nước nguyên 

chất, sau đó của những dung dịch cần đo với các nồng độ khác nhau. 
 
                       2                1 
 
 
 
           a 
 
 
            b 
 
 

Hình 2.1. Nhớt kế Ostwald
Khi cho chất lỏng chảy qua mao quản thì độ nhớt của nó tỷ lệ thuận với 
thời gian chảy t và khối lượng riêng   theo hệ thức: 
                           = k.t  

 
Trong đó:          k là hằng số nhớt kế. 
Có thể xác định k bằng cách đo thời gian chảy của nước cất. Tiến hành 
đo ở cùng điều kiện nhiệt độ và thể tích chất lỏng, ta có: 
                                                         0  k .0 .t 0  

Nguyễn Thị Thu Trang

-22-               K33C – Khoa Hóa học 
 



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Với    0 :  là  độ  nhớt  của  nước  cất,  giá  trị  độ  nhớt  của  nước  cất  trong 
bảng 2.1. 
          0 : là khối lượng riêng của nước cất 

        t0: là thời gian chảy của nước cất từ mức a đến mức b. 
Từ đó ta có: 
0 0 .t0

 

t

Hay:                             0 .

.t
 
0 .t0

 
Bảng 2.1 Độ nhớt của nước cất ở các nhiệt độ khác nhau

Nhiệt độ 

 


 

 

 

 

 

 

 

(0C) 



10 

20 

25 

30 

40 

50 


60 

 

 

 

 

 

 

 

 
0  

(Poaz) 

 

1,972  1,308  1,005  0,894  0,801  0,656  0,549  0,469 
 

2.1.1.5. Phương pháp nhiễu xạ tia X [10]
XPS  (X-ray  photoelectron  spectroscopy)  là  kĩ  thuật  bắn  phá  bề  mặt 
bằng photon tia X, sau đó tiến hành đo các photoelectron phát ra như hàm số 
năng  lượng  eletron.  Sự  phát  xạ  này  là  riêng  biệt  đối  với  từng  nguyên  tố  và 

trạng thái oxy hóa của nó. Nhờ vậy cho phép ứng dụng trong phân tích hóa 
học. Vì năng lượng phát ra từ photoelectron tương đối nhỏ nên chiều sâu của 
phép đo chỉ hạn chế khoảng 1-20A0. Thành phần của lớp bề mặt rất mỏng là 
hàm số của chiều sâu được xác định bằng cách quét bỏ các lớp trên bề mặt và 
phân tích các lớp sâu hơn. 

Nguyễn Thị Thu Trang

-23-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
Rất nhiều các tính chất quan trọng của vật liệu và xúc tác được nghiên 
cứu  bằng  phương  pháp  này:  trạng  thái  oxy  hóa  của  các  cụm  hoạt  tính,  sự 
tương tác của kim loại với oxyt của chất mang, sự thay đổi số oxy hóa dưới 
tác dụng hoạt hóa xúc  tác hay  bản chất  của các tạp chất bề  mặt như  là chất 
độc bị hấp thụ hóa học. 
XPS  cũng  được  ứng  dụng  để  đo  độ  phân  tán  của  pha  oxyt  mà  bằng 
phương pháp hấp thụ hóa học không thể xác định được. Chẳng hạn dùng XPS 
để đo độ phân tán của ZnO2 trên SiO2 sau khi xử lý nhiệt khác nhau, hay đo 
độ phân tán của Mo trên Al2O3 và SiO2 sau khi tiến hành oxy hóa khử, hay 
sunphit hóa (Muralidhar et al 1984). 
Khi  chùm  tia  Rơnghen  tới  bề  mặt  tinh  thể  và  đi  vào  bên  trong  mạng 
lưới tinh thể thì mạng lưới tinh thể này đóng vai trò như cấu tử nhiễu xạ. Các 
nguyên tử, ion bị kích thích bởi chùm tia X tới sẽ tạo thành các tâm phát ra 

các tia phản xạ. Mặt khác, các nguyên tử, ion này được phân bố trên các mặt 
phẳng song song. Do đó, hiệu quang trình của hai tia phản xạ bất kì trên hai 
mặt phẳng song song cạnh tranh nhau được tính như sau: 
       V=2d.sin  

Trong đó: 
d (A0): Khoảng cách giữa hai mặt phẳng song song 

  (độ): Góc giữa chùm tia X và mặt phẳng phản xạ 
Do  hiên  tượng  giao  thoa  bức  xạ,  để  các  sóng  phản  xạ  trên  hai  mặt 
phẳng  cùng  pha  thì  hiệu  ứng  quang  trình  phải  bằng  số  nguyên  độ  dài  bước 
sóng. 
Do đó,  2d.sin =n  (n = 1, 2, 3,…ta có phản xạ bậc 1, bậc 2, b 
  
                                 
 

Nguyễn Thị Thu Trang

-24-               K33C – Khoa Hóa học 
 


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 
                                       n =2.d.sin  
 

 
 
 



 

 

                                                                                                 



 

           
                            






                           2   

 

       


                                                                                         
 

 
Hình 2.2. Nhiễu xạ tia X
Đây là hệ thức Vuff-Bragg. So sánh d tìm được với d chuẩn sẽ xác định 
được thành phần cấu trúc mạng tinh thể của chất nghiên cứu. 
Tia X tạo bởi tương tác giữa chùm tia X điện tử với các điện tử trong 
lớp vỏ nguyên tử. 
Tia    được sinh ra bởi sự thay đổi bên trong hạt nhân nguyên tử 
Các mẫu nghiên cứu đều khảo sát trên máy nhiễu xạ Rơnghen tại khoa 
Hóa Học-ĐHKHTN Hà Nội. 
2.1.1.6. Phương pháp phân tích nhiệt
Phương  pháp  phân  tích  nhiệt  vi  sai  (  Differentictial  Scanning 
Callorimetry viết tắt DSC) là kĩ thuật phân tích nhiệt dùng để đo nhiệt độ và 
dòng truyền trong vật liệu tham hàm thời gian và nhiệt độ.
Khi tiến hành gia nhiệt lò theo chương trình định sẵn, mẫu nghiên cứu 
sẽ chịu tác  dụng của nhiệt  mà  có  thể  xảy  ra các thay  đổi: khối lượng,  nhiệt 
hàm (thu nhiệt hay tỏa nhiệt và có thể xảy ra phản ứng phân hủy hay chuyển 
pha). Nếu gọi các thay đổi đó là Y thì Y sẽ là hàm của nhiều thông số. Phổ 

Nguyễn Thị Thu Trang

-25-               K33C – Khoa Hóa học 
 


×