Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Ô nhiễm chất thải chăn nuôi ở một số xã vùng gò đồi huyện sóc sơn, thành phố hà nội thực trạng và giải pháp giảm ô nhiễm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.39 KB, 36 trang )

Chương 1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên Thế giới ngành chăn nuôi hiện sở hữu khoảng 70% đất nông nghiệp, bao
gồm chuồng trại, bãi chăn và đất trồng cây thức ăn, đóng góp khoảng 40% tổng
GDP nông nghiệp toàn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh việc sản xuất và cung cấp một số
lượng lớn sản phẩm thiết yếu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, ngành
chăn nuôi cũng đã gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực về môi trường. Ngoài chất thải
rắn và chất thải lỏng, chăn nuôi hiện đóng góp khoảng 18% hiệu ứng nóng lên của
trái đất (global warming) do thải ra các khí gây hiệu ứng nhà kính, trong đó có 9%
tổng số khi CO2 sinh ra, 37% khí mêtan (CH4) và 65% oxit nitơ (N2O).[ 4]
Số liệu của Cục Chăn nuôi (Bộ NN -PTNT), năm 2009 cả nước ta có 220
triệu con gia cầm; 8,5 triệu con trâu, bò; 27 triệu con lợn; trên 1,3 triệu con dê và 11
vạn con ngựa. Mỗi năm chăn nuôi thải ra trên 73 triệu tấn chất thải rắn (phân khô,
thức ăn thừa) và 25-30 triệu khối chất thải lỏng (phân lỏng, nước tiểu và nước rửa
chuồng trại). Trong đó, khoảng 50% lượng chất thải rắn (36,5 triệu tấn), 80% chất
thải lỏng (20 - 24 triệu m3) xả thẳng ra tự nhiên, hoặc sử dụng không qua xử lý là
những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Thực tế đó buộc chúng ta
phải hướng tới một ngành chăn nuôi chất lượng cao không chỉ đáp ứng được nhu
cầu ngày càng tăng của con người về các thực phẩm mà đồng thời còn phải chịu
trách nhiệm với chính con người về môi trường và xã hội khi sản xuất ra những sản
phẩm đó. [ 5]
Không nằm ngoài bối cảnh chung của ngành, hoạt động chăn nuôi ở Sóc
Sơn- Hà Nội dù nhỏ lẻ hay quy mô lớn đều đang gây ô nhiễm môi trường. Vì thế
tìm phương hướng, giải pháp để xử lý chất thải chăn nuôi thực sự trở nên cấp bách
đối với chính quyền, các cơ quan chức năng và người dân địa phương.
1


Nhằm nâng cao nhận thức về vấn đề ô nhiễm chất thải chăn nuôi của những
người có liên quan và tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề quản lý chất
thải chăn nuôi trong hoàn cảnh cụ thể của địa phương để bảo vệ cảnh quan, môi


trường sống và phát triển sản xuất bền vững, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“ Ô nhiễm chất thải chăn nuôi ở một số xã vùng gò đồi huyện Sóc Sơn, thành phố
Hà Nội – thực trạng và giải pháp giảm thiểu ô nhiễm”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khảo sát vấn đề xử lý chất thải chăn nuôi của các cơ sở chăn nuôi
- Mô tả thực trạng ô nhiễm môi trường từ chất thải chăn nuôi tại khu vực
nghiên cứu.
- Đề xuất một số biện pháp thích hợp xử lý chất thải chăn nuôi để khắc phục
tình trạng ô nhiễm.

2


Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Vị trí của ngành chăn nuôi [ 2]
Việt Nam là một nước nông nghiệp có nhiều tiềm năng ở châu Á và Thế giới,
đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều, cao su và đứng đầu thế giới
về xuất khẩu hồ tiêu. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nông
nghiệp nước ta đang có sự chuyển biến vững chắc từ nền kinh tế nông nghiệp thuần
nông sang nền kinh tế nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây trồng, con vật nuôi có
giá trị kinh tế cao. Sự kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt là hướng mũi nhọn, làm
tiền đề thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Hiện nay ngành chăn nuôi ngày càng có vị trí quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt khi vấn đề lương thực đã được giải quyết cơ bản. Chăn nuôi hiện
đang là một trong những mũi nhọn trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng hàng hóa đa dạng hóa vật nuôi. Chăn nuôi đặc biệt đóng vai trò
quan trọng trong kinh tế hộ gia đình và là một trong những nguồn thu chủ yếu của
nông hộ. Số liệu tổng kết cho thấy, chăn nuôi nhỏ lẻ đáp ứng đến 60% nhu cầu tiêu
dùng trong nước, đồng thời là nguồn thu nhập đáng kể của các hộ nông dân cá thể.
Chăn nuôi thực sự đang là một trong những phương thức quan trọng góp phần thực

hiện xóa đói, giảm nghèo trong nông thôn.
2.2. Hiện trạng phát triển chăn nuôi ở Việt Nam [ 5]
Sản lượng lương thực tăng nhanh trong thời gian gần đây đưa Việt Nam từ
một nước thiếu lương thực trong thập kỷ 80 trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ
2 - 3 thế giới. Sản xuất lương thực đạt sản lượng cao đã tạo điều kiện tốt cho sự phát
triển công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và đưa chăn nuôi phát triển
nhanh và ổn định.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới, ngành chăn nuôi
đã đạt được những kết quả đáng kể. Tốc độ tăng đàn gia súc, gia cầm trong 10 năm
3


gần đây tính trung bình 3,0 - 6,0%, trong đó đàn lợn tăng 6,77%; bò tăng 4,1% (bò
sữa tăng mạnh 48,06%); gia cầm tăng 6 - 9%/năm.
2.2.1. Tình hình chăn nuôi lợn
Lợn là loài vật nuôi có khả năng lợi dụng tốt các phụ phẩm công-nông nghiệp,
khả năng sinh sản cao, quay vòng khá nhanh. Chăn nuôi lợn đã trở thành nghề
truyền thống của nông dân và là ngành chăn nuôi chủ yếu ở nước ta. Lợn được nuôi
phổ biến ở tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp, đặc biệt tập trung nhiều ở vùng
đồng bằng sông Hồng: 22,5% tổng số đầu con và 26% tổng sản phẩm. Đàn lợn vẫn
được nuôi chủ yếu theo phương thức bán thâm canh trong nông hộ (90 - 95%) với
quy mô nhỏ (3 - 5 con/hộ), số hộ nuôi quy mô lớn hơn từ 6 con trở lên chỉ chiếm
1,8%. Một tỷ lệ nhỏ đàn lợn (5 - 10%) được nuôi trong các trang trại (200 - 300 con)
theo phương thức thâm canh (công nghiệp).
Lợn vẫn là nguồn cung cấp thịt chính (77% tổng lượng thịt các loại), nhưng
tiêu thụ trong nước là chủ yếu, mỗi năm chỉ xuất khẩu được 5000 - 10000 tấn thịt.
2.2.2. Tình hình chăn nuôi gia cầm
Gia cầm là loài vật nuôi có khả năng sinh sản nhanh nhất, vòng đời ngắn nhất,
vốn đầu tư ít và quy mô chăn nuôi linh hoạt, vì vậy trong những năm gần đây gia
cầm là đối tượng nuôi quan trọng trong các chương trình xoá đói giảm nghèo. Gia

cầm được nuôi ở tất cả các vùng sinh thái nông nghiệp. Đàn gà 75% tập trung ở các
tỉnh phía Bắc (từ khu 4 cũ trở ra), trong khi đàn vịt lại phân bố tập trung nhiều ở
đồng bằng sông Cửu Long (hơn 50% tổng đàn vịt cả nước). Phần lớn gia cầm (70 80%) được nuôi theo phương thức quảng canh, bán thâm canh trong các nông hộ,
mỗi hộ 20 - 30 con, một số ít nuôi thâm canh (công nghiệp) trong các trang trại với
quy mô 1000 - 2000 con. Thịt gia cầm sản xuất ra chiếm 15% lượng thịt các loại,
chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước. Trứng gia cầm sản xuất ngày càng tăng nhưng
còn ở mức độ thấp (dưới 50 quả/người/năm). Các giống gia cầm nuôi chủ yếu vẫn là
các giống địa phương (80%) năng suất thấp, các giống cao sản nhập nội năng suất
4


cao hãy còn ít (20%). Những năm gần đây xu hướng chăn nuôi các giống gà thả
vườn, lông màu đang được quan tâm và phát triển với tốc độ nhanh.
2.2.3. Tình hình chăn nuôi trâu bò
Trâu, bò là các loài vật nuôi ăn cỏ, có thể lợi dụng tốt đồng cỏ và các phụ
phẩm nông – công nghiệp để tạo thành thịt, sữa, sức kéo. Đàn bò phân bố ở nhiều
vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau nhưng tập trung ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và
duyên hải miền Trung (45,5% tổng đàn), 5 vùng sinh thái còn lại chiếm 54,5%,
riêng Tây Nguyên đất đai rộng, điều kiện thuận lợi nhưng đàn bò chỉ chiếm 10,8%.
Đàn trâu phân bố tập trung ở miền núi và trung du phía Bắc ( 52%), tiếp đó là khu 4
cũ ( 22%). Đàn trâu, bò phần lớn nuôi trong nông hộ (2 - 3 con/hộ) theo phương
thứcquảng canh, bán thâm canh. Bò sữa được quan tâm phát triển mạnh trong những
năm gần đây chủ yếu ven các thành phố lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh và được nuôi
thâm canh. Thịt trâu, bò chỉ chiếm 8% tổng lượng thịt các loại, lượng sữa sản xuất
ra còn ít, mới chỉ chiếm 8,6% lượng sữa tiêu thụ ở Việt Nam.
2.3. Định hướng phát triển chăn nuôi đến năm 2020 [ 13]
Ngày 16/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
10/2008/QĐ - TTG về việc phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020,
trong đó nêu rõ:
2.3.1. Mục tiêu sản xuất chăn nuôi đến năm 2020

Mục tiêu chung của phát triển chăn nuôi là:
- Đến năm 2020 ngành chăn nuôi cơ bản chuyển sang sản xuất phương thức
trang trại, công nghiệp, đáp ứng phần lớn nhu cầu thực phẩm đảm bảo chất lượng
cho tiêu dùng và xuất khẩu;
- Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, trong đó
năm 2010 đạt khoảng 32% và năm 2015 đạt 38%;
- Đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm, khống chế có hiệu
quả các bệnh nguy hiểm trong chăn nuôi;
5


- Các cơ sở chăn nuôi, nhất là chăn nuôi theo phương thức trang trại, công
nghiệp và cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm phải có hệ thống xử lý chất thải,
bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường.
2.3.2. Định hướng phát triển chăn nuôi đến năm 2020
Liên quan đến định hướng phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, Quyết định
số 10/2008/QĐ - TTG chỉ rõ:
1. Chăn nuôi lợn: phát triển nhanh quy mô đàn lợn ngoại theo hướng trang
trại, công nghiệp ở nơi có điều kiện về đất đai, kiểm soát dịch bệnh và môi trường;
duy trì ở quy mô nhất định hình thức chăn nuôi lợn lai, lợn đặc sản phù hợp với điều
kiện chăn nuôi của nông hộ và của một số vùng. Tổng đàn lợn tăng bình quân 2,0%
năm, đạt khoảng 35 triệu con, trong đó đàn lợn ngoại nuôi trang trại, công nghiệp
37%.
2. Chăn nuôi gia cầm: đổi mới và phát triển chăn nuôi gia cầm theo hướng
trang trại, công nghiệp và chăn nuôi chăn thả có kiểm soát:
- Tổng đàn gà tăng bình quân trên 5% năm, đạt khoảng trên 300 triệu con,
trong đó đàn gà nuôi công nghiệp chiếm khoảng 33%;
- Đàn thủy cầm giảm dần còn khoảng 52 -55 triệu con; đàn thủy cầm nuôi
công nghiệp trong tổng đàn tăng dần, bình quân 8% năm.
3. Đàn bò sữa: tăng bình quân trên 11% năm, đạt khoảng 500 ngàn con, trong

đó 100% số lượng bò sữa được nuôi thâm canh và bán thâm canh.
4. Đàn bò thịt: tăng bình quân 4,8% năm, đạt khoảng 12,5 triệu con, trong đó
bò lai đạt trên 50%.
5. Đàn trâu: ổn định với số lượng khoảng 2,9 triệu con, nuôi tập trung chủ yếu
ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
6. Đàn dê, cừu: tăng bình quân 7% năm, đạt khoảng 3,9 triệu con. Phát triển
chăn nuôi dê Theo hướng trang trại kết hợp nuôi nhốt và bán chăn thả ở vùng núi
phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ. Các tỉnh Ninh Thuận, Bình
6


Thuận và một số địa phương có điều kiện sinh thái phù hợp có thể mở rộng chăn
nuôi cừu.
2.4. Chất thải chăn nuôi [ 3]

2.4.1. Các loại chất thải phát sinh trong chăn nuôi [3]
Trong quá trình hoạt động, nguồn gây ô nhiễm môi trường từ các cơ sở chăn
nuôi bao gồm chất thải rắn như lông, phân, rác, thức ăn thừa và chất thải lỏng như
nước tiểu, nước rửa chuồng, vệ sinh máng ăn, máng uống, nước tắm rửa cho gia súc.
Theo tác giả Nguyễn Thị Hoa Lý (2001), trung bình một con lợn mỗi ngày
thải ra môi trường 1,5 - 3,5 kg phân và 10 - 50 lít nước thải; một con bò thải 3,5 – 7
kg phân và 50 - 150 lít nước thải, 100 con gà thải 7 – 30 kg phân mỗi ngày.
7


Các nhà khoa học đã phân chia các chất ô nhiễm trong chất thải chăn nuôi
thành các loại: các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học, các chất hữu cơ bền vững,
các chất vô cơ, các chất có mùi, các chất rắn, các loại mầm bệnh ... Các chất ô
nhiễm này có thể tồn tại cả trong khí thải, nước thải, chất thải rắn.
2.4.1.1. Khí thải

* Các chất có mùi
Bảng 4.1. Các chất tạo mùi trong nước thải chăn nuôi
Chất tạo mùi

Công thức

Mùi đặc trưng

Amin

CH3NH2

Cá ươn

Amoni

NH3

Khai

Diamin

NH2(CH2)4NH

Thịt thối

Hydrosulfua
Mercaptan
Phân


H2S

Trứng thối

CH3SH

Hôi

C8H5NHCH3

Thối

Sulfit hữu cơ (CH3)2SCH3SSCH3

Bắp cải rữa

( Nguồn: Nguyễn Thị Hoa Lý, 2005)[11]
Các chất có mùi phát sinh từ phân và nước thải, gây ô nhiễm không khí.
Không khí trong chuồng nuôi chứa khoảng 100 hợp chất khí. Mùi phân đặc biệt hôi
thối khi tích luỹ phân để phân huỷ trong trạng thái yếm khí, khí độc hại toả ra môi
trường xung quanh ở nồng độ cao có thể gây nôn mửa, ngạt thở, ngất xỉu hoặc chết
người. Lượng NH3 và H2S vượt quá giới hạn cho phép sẽ gây mùi hôi và kích thích
vật nuôi, đặc biệt là lên đường hô hấp. Các chất gây mùi còn được đánh giá bởi hàm
lượng chất rắn bay hơi và mỡ dư thừa trong chất thải. Các chất dư thừa ở dạng chưa
phân huỷ tạo điều kiện cho vi sinh vật gây thối rữa phát triển.
* Các chất khí ô nhiễm
CO2 là loại khí không màu, không mùi vị, nặng hơn không khí (1,98 g/l). Nó
được sinh ra trong quá trình thở và các quá trình phân hủy của vi sinh vật. Nồng độ
8



cao sẽ ảnh hưởng xấu đến sự trao đổi chất, trạng thái chung của cơ thể cũng như khả
năng sản xuất và sức chống đỡ bệnh tật do làm giảm lượng oxy tồn tại. Trong các
chuồng nuôi có mật độ cao và thông khí kém, hàm lượng cacbonic tăng cao có thể
vượt quá tiêu chuẩn và trở nên rất có hại đối với cơ thể vật nuôi.
H2S là loại khí độc tiềm tàng trong các chuồng nuôi gia súc gia cầm. Nó
được sinh ra do vi sinh vật yếm khí phân huỷ protein và các vật chất hữu cơ có chứa
Sunfua khác. Khí H2S có mùi rất khó chịu và gây độc thậm chí ở nồng độ thấp. Súc
vật bị trúng độc H2S chủ yếu do bộ máy hô hấp hít vào, H2S tiếp xúc với niêm mạc
ẩm ướt, hoá hợp với chất kiềm trong cơ thể sinh ra Na2S. Niêm mạc hấp thu Na2S
vào máu, Na2S bị thuỷ phân giải phóng ra H2S sẽ kích thích hệ thống thần kinh, làm
tê liệt trung khu hô hấp và vận mạch. Người ta có thể xác định được mùi H2S ở nồng
độ rất thấp (0,025ppm) trong không khí chuồng nuôi.
NH3 là một chất khí không màu, có mùi khó chịu, ngưỡng giới hạn tiếp nhận
mùi là 37 mg/m3. Nó có mùi rất cay và có thể phát hiện ở nồng độ 5 ppm. Nồng độ
NH3 điển hình trong chuồng có môi trường được điều hoà và thông thoáng tốt là 20
ppm và đạt 50 ppm nếu để phân tích tụ trên nền cứng. Vào mùa đông tốc độ thông
gió chậm hơn thì có thể vượt 50 ppm và có thể lên đến 100 – 200 ppm. Hàm lượng
amoniac trong các cơ sở chăn nuôi phụ thuộc vào số lượng chất thải, chất hữu cơ
tích tụ lại trong các lớp độn chuồng, tức là phụ thuộc vào mật độ nuôi gia súc, gia
cầm, độ ẩm, nhiệt độ của không khí và của lớp độn chuồng, nguyên liệu và độ xốp
của lớp độn chuồng. Thường thì khu vực bẩn chứa nhiều NH3 hơn khu vực sạch.
Nồng độ của NH3 được phát hiện trong các trại chăn nuôi thường < 100 ppm.
CO là một chất khí có hại trong không khí chuồng nuôi. Trong không khí
bình thường CO ở nồng độ là 0,02 ppm. Loại khí này gây độc cho vật nuôi và con
người do cạnh tranh với Oxy (O2) kết nối với sắt trong hồng cầu. Ái lực liên kết này
cao hơn 250 lần so với O2 do đó nó đã đẩy oxy ra khỏi vị trí của nó. Khí CO kết hợp
với sắt của hồng cầu tạo thành khí carboxyhemoglobin làm cho O2 không dược đưa
9



tới mô bào gây nên tình trạng thiếu oxy trong hô hấp tế bào. Nồng độ CO cao tới
250 ppm trong các khu chăn nuôi lợn sinh sản có thể làm tăng số lượng lợn con đẻ
non, lợn con đẻ ra bị chết nhưng xét nghiệm bệnh lý cho thấy không có liên quan tới
các bệnh truyền nhiễm.
CH4 Chất khí này được thải ra theo phân do vi sinh vật phân giải nguồn dinh
dưỡng gồm các chất xơ và bột đường trong quá trình tiêu hoá. Loại khí này không
độc nhưng nó cũng góp phần làm ảnh hưởng tới vật nuôi do chiếm chỗ trong không
khí làm giảm lượng oxy. Ở điều kiện khí quyển bình thường, nếu khí CH4 chiếm 8790% thể tích không khí sẽ gây ra hiện tượng khó thở ở vật nuôi và có thể dẫn đến
tình trạng hôn mê. Nhưng quan trọng hơn là hàm lượng khí metan chỉ chiếm 1015% thể tích không khí đã có thể gây nổ, đây là mối nguy hiểm chính của khí metan.
2.4.1.2. Nước thải
Nước thải phát sinh từ trang trại chăn nuôi do làm vệ sinh chuồng trại, máng
ăn, máng uống, nước tắm rửa cho gia súc hàng ngày, nước tiểu do gia súc bài tiết ra
môi trường. Thành phần nước thải chăn nuôi biến động rất lớn phụ thuộc vào quy
mô chăn nuôi, phương pháp vệ sinh, kiểu chuồng trại và chất lượng nước vệ sinh
chuồng trại....Trong nước thải, nước chiếm 75 – 95%, phần còn lại là các chất hữu
cơ, vô cơ và mầm bệnh.
- Các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học
Gồm các chất như: Cacbonhydrat, protein, chất béo.....Chất hữu cơ tiêu thụ
ôxy rất mạnh, gây hiện tượng giảm ôxy trong nguồn tiếp nhận dẫn đến suy thoái và
giảm chất lượng nguồn nước.
- Các chất rắn tổng số trong nước
Bao gồm chất rắn lơ lửng và chất rắn hoà tan, chất rắn bay hơi và chất rắn
không bay hơi do các chất keo protein, hydratcacbon, chất béo có trong nước thải
hoặc được tạo ra khi gặp điều kiện như: pH, nhiệt độ, độ cứng thích hợp. Lượng
chất rắn lơ lửng cao trong nước gây cản trở quá trính xử lý chất thải.
10


Chất rắn lơ lửng trong nước thải chăn nuôi chủ yếu là cặn phân vật nuôi trong

quá trình vệ sinh chuồng trại, trong phân có Nitrogen, phốt phát và nhiều vi sinh vật.
Phần lớn N trong phân ở dạng Amonium (NH4+) và hợp chất nitơ hữu cơ. Nếu
không được xử lý thì một lượng lớn Amonium sẽ đi vào không khí ở dạng Amoniac
(NH3). Nitrat và vi sinh vật theo nước thải ra ngoài môi trường có thể nhiễm vào
nguồn nước ngầm và làm đất bị ô nhiễm.
- Các chất hữu cơ bền vững
Bao gồm các hợp chất Hydrocacbon, vòng thơm, hợp chất đa vòng, hợp chất
có chứa Clo hữu cơ trong các loại hoá chất tiêu độc khử trùng như DDT,
Lindan.....các chất hoá học này có khả năng tồn lưu trong tự nhiên lâu dài và tích lũy
trong cơ thể các loại sinh vật.
- Các chất vô cơ
Bao gồm các chất như Amoniac, ion PO43+, K+, SO42-, Cl+. Kali trong phân là
chất lỏng tồn tại như một loại muối hoà tan, phần lớn là từ nước tiểu gia súc bài tiết
ra khoảng 90%. Kali trong thức ăn cũng được gia súc bài tiết ra ngoài. Ion SO42được tạo ra do sự phân hủy các hợp chất chứa lưu huỳnh trong điều kiện hiếu khí
hoặc yếm khí.
Clorua là chất vô cơ có nhiều trong nước thải, nồng độ Clorua vượt quá mức
350mg/l sẽ gây ô nhiễm đất, nước ngầm và nước bề mặt........
- Các vi sinh vật
Trong nước thải có chứa một tập đoàn khá rộng các vi sinh vật có lợi và có
hại, trong đó có nhiều loại trứng ký sinh trùng, vi trùng và virus gây bệnh như:
E.coli, Salmonella, Shigella, Proteus, Arizona....Trong những trường hợp vật nuôi
mắc các bệnh truyền nhiễm khác thì sự đào thải vi trùng gây bệnh trong chất thải trở
nên nguy hiểm cho môi trường và cho các vật nuôi khác.
2.4.1.3. Chất thải rắn
11


Chất thải rắn từ hoạt động chăn nuôi bao gồm phân, rác, chất độn chuồng,
thức ăn dư thừa, xác gia súc chết hàng ngày. Tỷ lệ các chất hữu cơ, vô cơ, vi sinh
vật trong chất thải phụ thuộc vào khẩu phần ăn, giống, loài gia súc và cách dọn vệ

sinh. Trong chất thải rắn chứa : nước 56 - 83%, chất hữu cơ 1 - 26%, nitơ 0,32 –
1,6%, P 0,25 – 1,4%, K 0,15 – 0,95% và nhiều loại vi khuẩn, virus, trứng giun sán
gây bệnh cho người và động vật.
2.4.2. Ô nhiễm chất thải chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi ở Việt Nam
2.4.2.1. Tình trạng ô nhiễm chất thải chăn nuôi [2][3][7]...
Hầu hết các nghiên cứu về ô nhiễm môi trường do chăn nuôi tại các địa
phương khác nhau, trên các mô hình chăn nuôi khác nhau và đối tượng vật nuôi
khác nhau đều có chung một số nhận xét:
- Việc phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm đã kéo theo sự gia tăng về mức độ
ô nhiễm môi trường ở các vùng nông thôn. Trong quá trình phát triển sản xuất chăn
nuôi với qui mô ngày càng lớn như hiện này, một lượng chất thải sinh ra gây tác hại
xấu đến môi trường. Với mật độ gia súc cao có thể gây ô nhiễm từ bên trong
chuồng trại, ô nhiễm từ hệ thống lưu trữ chất thải và ô nhiễm từ nguồn nước thải
sinh ra trong việc dội chuồng và tắm rửa gia súc.
- Vấn nạn ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi hiện bức xúc ở nhiều địa phương.
Trang trại, gia trại và hàng vạn hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đã trở thành tâm điểm về tình
trạng ô nhiễm môi trường.
- Sự ô nhiễm đất, không khí và nguồn nước do các chất thải chăn nuôi đã làm
ảnh hưởng đáng kể tới hệ sinh thái và sức khoẻ con người.
- Đặc biệt nguy hiểm ô nhiễm môi trường về vi sinh vật (các mầm bệnh
truyền nhiễm) làm phát sinh các loại dịch bệnh như ỉa chảy, lở mồm long móng, tai
xanh, cúm gia cầm H5N1. Ngoài ra chất thải chăn nuôi còn là một nguồn lây lan các
virus nhiễm bệnh trong gia cầm và có thể lây sang con người.
2.4.2.2. Vấn đề xử lý chất thải chăn nuôi [7]
12


- Ở Việt Nam khía cạnh môi trường của ngành chăn nuôi chưa được quan tâm
đúng mức.
- Chất thải chăn nuôi phần lớn được xả trực tiếp ra môi trường. Theo số liệu

Cục Chăn nuôi (Bộ NN - PTNT), mỗi năm chăn nuôi thải ra trên 73 triệu tấn chất
thải rắn (phân khô, thức ăn thừa) và 25-30 triệu khối chất thải lỏng (phân lỏng, nước
tiểu và nước rửa chuồng trại). Trong đó, khoảng 50% lượng chất thải rắn, 80% chất
thải lỏng xả thẳng ra tự nhiên, hoặc sử dụng không qua xử lý là những tác nhân gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Ý thức về vệ sinh nông thôn, bảo vệ môi trường chăn nuôi của người dân
chưa cao, chưa được trang bị đầy đủ. Cơ sở vật chất đối với chăn nuôi chưa đạt yêu
cầu của việc sản xuất sạch, sản xuất thân thiện với môi trường.
- Hiện tượng chuồng gia súc, gia cầm ở ngay trong khuôn viên nhà, chen chúc
trong khu dân cư không phải là hiếm gặp vì chăn nuôi hộ gia đình là một phương
thức hiệu quả, tận dụng được các sản phẩm dư thừa hàng ngày giúp các hộ tăng thu
nhập.
- Chăn nuôi quy mô lớn tuy nằm tách biệt với khu dân cư nhưng công nghệ
xử lý chất thải thì phần lớn vẫn là chôn lấp do thiếu kinh phí và công nghệ.
- Các giải pháp để khắc phục mang tính cơ bản như quy hoạch lại tổng thể
ngành chăn nuôi đã được thực hiện qua nhiều năm nhưng kết quả việc triển khai vẫn
chậm so với tốc đô phát triển dân cư, hiệu quả ngăn chặn ô nhiễm từ lĩnh vực chăn
nuôi vẫn chưa đạt so với yêu cầu đặt ra.
- Một số ít nghiên cứu dùng phân gia súc làm phân bón, phát triển hệ thống
khí sinh học … đã được thực hiện.
- Yêu cầu đặt ra là làm thế nào để việc phát triển chăn nuôi phải đi đôi với
việc bảo vệ môi trường và sức khoẻ con người. Việc chọn lựa thực hiện những
phương án thân thiện với môi trường vẫn được xem là những giải pháp có ưu thế
nhất trong tình hình hiện nay.
13


Chương 3. ĐỐI TƯỢNG – NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Chất thải chăn nuôi tại các xã vùng gò đồi huyện Sóc Sơn
- Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi
- Vấn đề quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều tra các phương thức xử lý chất thải chăn nuôi tại các hệ thống chăn
nuôi trong khu vực.
- Chăn nuôi kết hợp ( VAC, VC )
- Chăn nuôi thâm canh công nghiệp ( C).
3.2.2. Phân tích một số chỉ tiêu phản ánh tình trạng ô nhiễm
- Ảnh hưởng tiêu cực tới cảnh quan môi trường
- Ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người dân trong khu vực
- Ô nhiễm môi trường nước
3.2.3. Tìm hiểu và đề xuất các giải pháp thích hợp để khắc phục ô nhiễm trong
chăn nuôi
3.3. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp tra cứu tài liệu: tìm tài liệu từ thư viện, trên mạng internet
2. Phương pháp điều tra thực địa: tìm hiểu; phỏng vấn trực tiếp người chăn nuôi.
3. Giám sát môi trường: đo đạc, lấy mẫu ngoài hiện trường, phân tích mẫu trong
phòng thí nghiệm để xác định các thông số về môi trường.

Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

14


4.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế huyện Sóc Sơn và vùng nghiên cứu [1][17]
Sóc Sơn là huyện ngoại thành Hà Nội, diện tích tự nhiên 30.651ha, dân số
270.000 người với trên 60.000 hộ gia đình, nông dân chiếm 95,15%.
Đất nông nghiệp toàn huyện là 13.000 ha (chiếm trên 40% diện tích đất tự
nhiên ), đất lâm nghiệp 6.630 ha. Đây là điều kiện rất có lợi về trồng trọt, phát triển

chăn nuôi, nhất là kinh tế trang trại. Những năm gần đây một số xã như Phú Cường,
Mai Đình, Quang Tiến, Phù Linh đã dành nhiều đất cho dự án, các xã còn lại vẫn
giữ được những thửa ruộng "bờ xôi ruộng mật". Nâng cao giá trị thu nhập trên đơn
vị canh tác bằng cách xây dựng các mô hình thâm canh hiệu quả được coi là khâu
đột phá ở nhiều xã thời gian qua. Từng bước đưa nông nghiệp phát triển theo hướng
sản phẩm hàng hóa giá trị cao gắn với nông nghiệp đô thị sinh thái là điểm nhấn
trong nông nghiệp Sóc Sơn.
Phát huy lợi thế "3 vùng" (đồi gò, đất trũng và đất giữa) Sóc Sơn tập trung sản
xuất chuyên canh, phát triển các mô hình kinh tế trang trại lâm nghiệp, cây ăn quả,
chăn nuôi đại gia súc, gia cầm tại vùng đồi gò, thâm canh lúa và thủy sản ở vùng đất
trũng ven sông, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, rau, hoa tại các vùng đất giữa
phía nam và trung tâm huyện; xây dựng một số thương hiệu sản phẩm gắn với lợi
thế của từng xã như chè, rau sạch, bò thịt, lợn nạc, gà đồi; quy hoạch và kêu gọi đầu
tư các điểm thu mua, cơ sở chế biến nông sản, cơ sở giết mổ tập trung, tạo điều kiện
thuận lợi cho tiêu thụ và quảng bá sản phẩm nông nghiệp.
Năm 2010, huyện Sóc Sơn đã chuyển đổi 750 ha diện tích các vùng trũng, cao
hạn sản xuất lúa năng suất thấp sang các cây trồng, vật nuôi cho giá trị thu nhập cao.
Huyện quy hoạch hơn 20 ha sản xuất rau hữu cơ ở các xã Thanh Xuân, Đông Xuân;
10 ha trồng hoa ly, hướng dương, cúc, hoa hồng ở xã Xuân Giang; còn lại là mô
hình trang trại VAC tổng hợp theo vùng gồm chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá điêu hồng, cá
rô phi đơn tính và các loại con đặc sản như ba ba, ếch, rắn... ở các xã Phú Cường,
Bắc Sơn, Nam Sơn, Tân Hưng, Việt Long, Quyết Tiến...
15


Hiện toàn huyện có khoảng 130 trang trại đạt tiêu chuẩn theo tiêu chí mới, với
tổng diện tích sử dụng 750ha đất, bình quân mỗi trang trại là: 5,09ha, trên địa bàn 26
xã, thị trấn trong toàn huyện, chủ yếu tập trung ở 9 xã vùng đồi gò là: Minh Trí,
Minh Phú, Bắc Sơn, Nam Sơn, Hồng Kỳ, Phù Linh, Tiên Dược, Quang Tiến và
Hiền Ninh.

Số trang trại trên được hình thành theo hai loại hình:
- Thứ nhất, trang trại tổng hợp (trồng trọt kết hợp chăn nuôi) gồm: 98 trang trại,
chiếm 75,3%. Phần lớn loại này được phát triển các loại cây ăn quả như, vải thiều,
nhãn, hồng, xoài, na dai… và kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bình quân một
trang trại thu nhập tiền lãi 40 – 150 triệu đồng/năm.
- Thứ hai, trang trại chăn nuôi gồm 32 trang trại, chiếm 24, 7%, ở các xã: Bắc
Phú, Xuân Giang, Phú Cường, Phù Lỗ, Phú Minh, Mai Đình… chủ yếu nuôi lợn
siêu nạc phục vụ cho xuất khẩu và gà công nghiệp. Bình quân thu nhập một trang
trại mỗi năm 40 – 100 triệu đồng tiền lãi. Ngoài ra còn 8 trang trại chuyên nuôi
trồng thuỷ sản bước đầu đã cho thu hoạch.
Kinh tế trang trại đã tạo ra giá trị hàng hoá lớn. Hằng năm, cung cấp cho thị
trường hàng nghìn tấn nông sản (chủ yếu là hoa quả) cùng hàng nghìn tấn thịt lợn
xuất khẩu, thu hút hàng nghìn lao động. Thực tế này khẳng định, phát triển kinh tế
trang trại là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với điều kiện của một địa phương có
tính đặc thù “bán sơn địa” như ở Sóc Sơn.
Bên cạnh những tích cực, kinh tế trang trại ở Sóc Sơn còn bộc lộ một số hạn
chế như, giá trị sản phẩm hàng hoá và mức thu nhập bình quân 1ha canh tác còn
thấp. Các mô hình còn đơn điệu, kém hiệu quả. Hầu hết các chủ trang trại đều chọn
hướng phát triển theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”, hoặc theo kinh nghiệm
“quảng canh”, nên chưa đủ “tầm” so với nguồn tiềm năng sẵn có.
4.2. Khảo sát việc quản lý, xử lý chất thải chăn nuôi tại khu vực nghiên cứu
16


Vùng gò đồi huyện Sóc sơn gồm 9 xã: Minh Trí, Minh Phú, Bắc Sơn, Nam
Sơn, Hồng Kỳ, Phù Linh, Tiên Dược, Quang Tiến và Hiền Ninh – nơi đây tập trung
nhiều trang trại với nhiều loại hình sản xuất : Chăn nuôi kết hợp ( VAC, VC, AC ) ;
chăn nuôi thâm canh công nghiệp ( C ). Mỗi năm khu vực này tạo ra hàng trăm tấn
chất thải rắn và hàng nghìn mét khối chất thải lỏng từ hoạt động chăn nuôi. [6 ]
Nguồn chất thải rắn và lỏng do vật nuôi thải ra bị tích tụ lại dẫn đến các chất

đạm (nitơ) chuyển thành 1 lượng khá lớn khí NH3. Trong điều kiện hiếu khí, NH3
được VSV chuyển thành NO3 thấm xuống đất, một phần NO3 được vi khuẩn kỵ khí
biến thành NO, NO2, N2O; phần còn lại, theo thời gian, ngấm vào nước gây ô
nhiễm nguồn nước. Mùi hôi của phân, nước tiểu do vật nuôi thải ra với số lượng lớn
phát tán vào không khí đã ảnh hưởng xấu đến đời sống hàng ngày của người dân.
Các chất kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng, cũng đang là tác nhân gây ô nhiễm
đất và nước.[ 6]
Ô nhiễm chất thải chăn nuôi đã trở thành nỗi ám ảnh đối với người chăn nuôi
khi dịch bệnh ngày càng nhiều, nỗi ám ảnh đối với người dân sống ở nông thôn và
cả các nhà chuyên môn. Để hạn chế gây ảnh hưởng xấu đến môi sinh và tạo thêm
nguồn phân bón hữu cơ cho sản xuất nông nghiệp đã có khá nhiều phương án xử lý
chất thải chăn nuôi như gắn chăn nuôi với trồng trọt, công nghệ biogas, ủ
phân,…được lựa chọn áp dụng.
4.2.1. Xử lý chất thải chăn nuôi trong các trang trại
Chúng tôi điều tra hoạt động xử lý chất thải chăn nuôi trong 3 kiểu hệ thống
sản xuất: VAC, VC, C. Mỗi kiểu hệ thống chọn 20 cơ sở có quy mô chăn nuôi mức
độ vừa ( từ 10 đầu lợn thịt, lợn nái hoặc 5 bò thịt, bò sinh sản hoặc 500 gà công
nghiệp trở lên ). Nghiên cứu tiến hành theo các chỉ tiêu: có xử lý chất thải hay
không? Xử lý bằng phương pháp nào? Kết quả được trình bày ở các bảng 1, bảng 2,
bảng 3.
4.2.1.1. Tỷ lệ các cơ sở chăn nuôi có xử lý chất thải
17


Bảng 1 . Tỷ lệ xử lý chất thải chăn nuôi tại các cơ sở sản xuất
Chỉ tiêu

Cơ sở có xử lý
Chất thải rắn


Chất thải lỏng

Đơn VAC
VC
C
vị
(n=20) (n=20) (n=20)
tính
%
40,00 30,00 60,00

Cơ sở không xử lý

%

60,00

70,00

40,00

Cơ sở có xử lý

%

30,00

20,00

60,00


Cơ sở không xử lý

%

70,00

80,00

40,00

Kết quả ở bảng 1 cho thấy:
- Ở cả 3 kiểu hệ thống chăn nuôi, chỉ có từ 30 đến 60% chất thải rắn được xử
lý và tỷ lệ này đối với chất thải lỏng cũng tương tự, dao động từ 20 đến
60,00%.
- Hệ thống chăn nuôi chuyên con có tỷ lệ xử lý chất thải rắn và chất thải lỏng
cao hơn các hệ thống khác.
4.2.1.2. Hình thức xử lý và sử dụng chất thải chăn nuôi

18


Đun bếp
Biogas
Chất
thải

Sưởi ấm cho lợn

Xử lý

Nước
thải
sau
biogas

Thắp sáng
Đổ ra môi trường
Đưa xuống ao cá



Bón cây
Đưa xuống ao

Ao lắng
Đổ ra môi trường

Đưa thẳng xuống ao
Không
xử lý

Bón cây
Bán
Đổ ra môi trường

Sơ đồ: XỬ LÝ CHẤT THẢI CHĂN NUÔI

19



Phương pháp xử lý chất thải chăn nuôi hiệu quả và phổ biến nhất hiện được
áp dụng nhiều ở Sóc Sơn là dùng bể lên men vi sinh vật yếm khí sinh ga hay còn gọi
là công nghệ Biogas.
Cấu tạo bể Biogas gồm 4 phần : Bể phân huỷ - là nơi diễn ra quá trình phân
huỷ các chất rắn trong chăn nuôi; bể điều áp - có vai trò ổn định và duy trì áp lực khí
trong bể phân huỷ đồng thời đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống; bể nạp nhiên
liệu - đây là nơi nạp nhiên liệu trước khi đưa vào bể; ống dẫn khí - có chức năng dẫn
khí sinh học đến nơi sử dụng. Toàn bộ lượng chất thải sẽ được các vi sinh vật lên
men yếm khí tạo ra các khí sinh học: CH4 chiếm 60 – 70%, CO2 chiếm 20 – 30% và
các khí khác như H2, H2S…H2O. Việc xử lý chất thải bằng công nghệ Biogas giúp
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giải quyết vấn đề chất đốt ở nông thôn, tăng hiệu
quả nguồn phân bón cho cây trồng, nước thải của hầm Biogas còn sử dụng để nuôi
cá.
Xử lý chất thải rắn trong chăn nuôi bằng phương pháp ủ phân hữu cơ: tất cả
phân gia súc gia cầm đều được thu dọn chứa trong nhà chứa, sau khi đủ lượng phân
tiến hành xây đống phân ủ oai, có thể thực hiện theo hai phương pháp ủ nóng hay ủ
nguội. Phương pháp ủ nguội phân chuồng được nén chặt xen kẽ chất độn chuồng
với độ ẩm 70%, sau đó dùng đất hay ny lon che phủ cả đống phân, sau 6-8 tháng
phân đã oai mục hoàn toàn, còn phương pháp ủ nóng như việc ủ nguội nhưng không
cần nén chặt đống phân và định kỳ 2 tháng dùng dụng cụ xáo đống phân lại, cứ làm
như thế khoảng 2 lần là phân oai mục, 4-6 tháng phân oai mục. Xử lý chất thải rắn
trong chăn nuôi bằng phương pháp ủ phân hữu cơ tạo nguồn phân bón cho cây và
nguồn thức ăn cho cá.
Phương pháp ao lắng: Chất thải chăn nuôi được đưa vào ao, sau đó dùng một
số yếu tố như dùng lực động học để phân loại chất thải thành chất thải rắn và chất
lỏng. Xử lý nước thải bằng phương pháp ao lắng giúp thanh lọc môi trường.
20


Một lượng nhỏ chất thải chăn nuôi được trao đổi, mua bán giữa những người

làm nông nghiệp. Những người có nhu cầu về phân bón, thức ăn cho cá...từ rác thải
chăn nuôi sẽ đi thu gom bằng cách mua lại ở các hộ không có nhu cầu sử dụng rác
thải chăn nuôi. Khi đã thu gom đủ lượng cần thiết sẽ tiến hành xây đống phân ủ hoai
để tạo nguồn phân bón cho cây và nguồn thức ăn cho cá.
Để bổ sung dữ liệu nghiên cứu chúng tôi đã tìm hiểu thêm tại hệ thống chăn
nuôi chuyên con với đối tượng là gà thịt, gà đẻ công nghiệp, kết quả nhận thấy:
- Các cơ sở chăn nuôi gà đều không có hệ thống xử lý chất thải bằng công
nghệ biogas do dặc thù của chăn nuôi gia cầm là không sử dụng nước để rửa chuồng
hoặc để tắm cho chúng mà chuồng trại được tiến hành vệ sinh bằng cách hót bỏ
phần chất độn chuồng - thường là vỏ trấu, mùn cưa mỗi khi bị ướt hoặc có nhiều
phân loãng.
- Phân và chất thải từ chăn nuôi gà phần lớn được buôn bán cho các người
trồng rau, trồng hoa trong khu vực như Mê Linh, Đông Anh. Phân được tích trữ
trong khu vực chăn nuôi, khi có một số lượng nhất định thì mang đi bán hoặc người
mua đến mua tại cơ sở. Như vậy là nguồn phân gà không xử lý được vận chuyển tự
do từ nơi này đến nơi khác, trở thành mối đe dọa lớn cho chăn nuôi và cho người
dân khi mà dịch cúm gia cầm vẫn chưa khống chế được hoàn toàn.
- Một số hộ nông dân cũng sử dụng phân gà như là loại phân hữu cơ chủ yếu
bón cho cây rau và cây hoa trong vườn, trang trại của gia đình mà không xử lý phân
hoặc có ủ phân nhưng lại không đúng kỹ thuật, mất dinh dưỡng và ô nhiễm. Chủ
yếu phân được thu gom, đánh đống, đóng bao ở đầu ruộng, rải thêm vôi vào và lấy
bạt phủ lại cho quá trình phân huỷ diễn ra tự nhiên. Sau thời gian ngắn tiến hành bón
cho rau, sẽ là nguồn lây nhiễm nguy hiểm nếu phân đó được lấy từ các trại gà có
mầm bệnh virus cúm.

21


4.3. Thực trạng ô nhiễm do chăn nuôi
Trong những năm gần đây, sản xuất chăn nuôi đang phải đương đầu với

những khó khăn không chỉ về mặt kỹ thuật như cung cấp thức ăn, sức khỏe gia súc,
chọn, tạo giống và quản lý mà cả những yếu tố môi trường, kinh tế và xã hội.
Những khó khăn trong việc quản lý và xử lý chất thải chăn nuôi là những vấn
đề đầu tiên. Sự ô nhiễm đất, không khí và nguồn nước ngầm do chất thải chăn nuôi
đã làm ảnh hưởng đáng kể tới hệ sinh thái và sức khỏe con người. Ô nhiễm mùi và
nước thải từ các chất thải chăn nuôi trong chuồng trại, các hệ thống dự trữ hoặc từ
quá trình sử dụng phân bón trên đồng ruộng cũng đang là vấn đề quan tâm của nhân
dân trong các khu vực chăn nuôi.
4.3.1. Ảnh hưởng của chất thải chăn nuôi đến cảnh quan nông thôn và sinh hoạt
của người dân.
Quan sát thực tế chúng tôi nhận thấy cho dù là hệ thống sản xuất trang trại
VAC, VC, hay mô hình chăn nuôi trong nông hộ nhỏ lẻ, gia trại thì chất thải chăn
nuôi thực sự đang ảnh hưởng tiêu cực đến cảnh quan nông thôn, làm mất đi vẻ trong
lành của thôn quê.
 Chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ len lỏi trong khu dân cư, mặc dù lượng chất thải chăn
nuôi bình quân/ hộ không quá lớn nhưng không được xử lý để bón ruộng như
trước đây nữa và cũng không đủ lớn để xây hầm biogas nên đa số người chăn
nuôi chọn cách rửa chuồng và xả trực tiếp ra cống, rãnh công cộng. Vì thế hiện
tượng phổ biến nhất là phân, chất thải chăn nuôi ngập ngụa trong các cống rãnh
ven đường, tắc nghẽn và lưu cữu. Ngày nắng hay ngày mưa mùi phân gia súc bốc
lên rất khó chịu, ruồi muỗi sinh sản nhiều. Cộng thêm mật độ dân cư ngày càng
cao, chuồng trại chăn nuôi ngày càng gần nhà ở, ô nhiễm chất thải chăn nuôi
càng trở nên nghiêm trọng. Trong tương lai chúng ta chỉ chấp nhận sự phát triển
chăn nuôi có quy hoạch ở các trang trại xa khu dân cư và có hệ thống xử lý môi
22


trường nhưng trước mắt không thể không chấp nhận hệ thống chăn nuôi nhỏ lẻ
nông hộ vì đó là tập quán lâu đời, là nguồn thu nhập của nông dân nghèo. Vấn đề
là làm thế nào để giảm thiểu ô nhiễm?

 Trong khu dân cư còn tồn tại hình thức chăn nuôi gia trại, quy mô lớn hơn chăn
nuôi truyền thống tùy thuộc điều kiện chuồng trại, vốn, lao động và kinh nghiệm
của chủ hộ. Tuy nhiên quy trình sản xuất thì thay đổi không nhiều, chăn nuôi
phần nhiều vẫn dựa vào kinh nghiệm và tập quán, đặc biệt là vấn đề xử lý chất
thải. Các gia trại chăn nuôi cũng là một nguồn ô nhiễm đáng kể đe dọa cộng
đồng dân cư. Nhiều gia đình có xử lý chất thải song quy trình vệ sinh chuồng trại
lại không đảm bảo thường xuyên nên mùi hôi thối vẫn phát tán ra khu dân cư lân
cận.
 Chăn nuôi trang trại tập trung – nơi lẽ ra mọi vấn đề về môi trường phải được
cam kết đảm bảo thì vì nhiều lý do khác nhau ô nhiễm vẫn xảy ra. Để có dẫn
liệu cụ thể, chúng tôi chọn 5 trang trại chăn nuôi tập trung chuyên con ( nuôi lợn
nạc, gà công nghiệp ), ở mỗi trại phát 30 phiếu điều tra cho người dân sống ở khu
vực lân cận. Kết quả xử lý phiếu điều tra như sau:

23


Bảng 2. Phàn nàn của người dân liên quan đến các cơ sở chăn nuôi

Nội dung phàn nàn

Số phiếu có ý

Tỷ lệ

kiến phàn nàn /số

(%)

phiếu thu về

Mùi khó chịu

150/150

100,00

Gia tăng ruồi, muỗi

150/150

100,00

Tiếng ồn lớn

43/150

28,67

Nước ao hồ ô nhiễm

64/150

42,67

Tắc nghẽn hệ thống thoát nước công cộng

41/150

27,33


Ảnh hưởng đến hoa màu

17/150

11,33

Làm chết cá

10/150

6,67

Mất mỹ quan khu dân cư

59/150

39,33

Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe

57/1550

38,00

Nguy cơ lây bệnh từ súc vật sang người

21/150

14,00


Như vậy cả 5 trại chăn nuôi nằm trong khu vực dân cư tập trung hoặc gần khu
dân cư đều bị người dân phàn nàn hoặc khiếu nại về vấn đề ô nhiễm môi trường như
mùi khó chịu, tiếng kêu của súc vật, ô nhiễm nguồn nước và các vấn đề khác ( liên
quan đến sức khỏe, cảnh quan, lo sợ lây bệnh từ vật nuôi ). 100% số người được hỏi
đều kêu ca tình trạng các cơ sở chăn nuôi phát ra mùi khó chịu, ruồi muỗi sinh sôi
nhiều gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng sống của cả cộng đồng. Một số hộ dân có
ruộng lúa, ao cá gần trại chăn nuôi còn phản ánh năng suất lúa của họ bị giảm do lá
lúa phát triển quá tốt khi quá nhiều chất thải lỏng trong chăn nuôi lợn được thải ra
gần ruộng lúa hoặc chất thải làm chết cá.

24


4.3.2. Ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng từ chất thải chăn nuôi
Liên quan đến ô nhiễm chất thải chăn nuôi, nhiều nghiên cứu y khoa đã cho
biết ô nhiễm chăn nuôi có thể gây nên nhiều căn bệnh về tiêu hóa, hô hấp, da liễu,
thần kinh cho người trực tiếp chăn nuôi cũng như sức khỏe của các hộ dân sống
xung quanh khu vực chăn nuôi.
Trong quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy nhiều chuồng trại chăn nuôi
được xây dựng liền kề nhà ở, khoảng cách chỉ 20-30 m. Nếu không có biện pháp xử
lý chất thải thích hợp và triệt để thì môi trường sống của các hộ gia đình xung quanh
sẽ không đảm bảo và gây nguy hại đến sức khỏe người dân.
Chúng tôi phát phiếu điều tra cho 50 người dân trực tiếp chăn nuôi và người
dân sống liền kề khu vực chăn nuôi để hỏi về những căn bệnh mà họ thường mắc
phải, tần suất mắc bệnh v.v. Sau đây là một số kết quả ban đầu về những bệnh họ
thường mắc phải – những căn bệnh bị nghi ngờ liên quan đến ô nhiễm chất thải.

Bảng 3: Những căn bệnh thường gặp ở người chăn nuôi và người dân cư trú
gần các cơ sở chăn nuôi
Loại bệnh


(n = 50 )
Số người có biểu hiện

Tỷ lệ

Bệnh da

17

34,0

Bệnh hô hấp

12

24,0

Mắt

19

38,0

Tiêu hóa

9

18,0


Thần kinh ( đau đầu, căng
thẳng, mất ngủ, ..)

5

10,0

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Quỳnh Hoa [ 9] tại Phú Bình –Thái Nguyên
trên đối tượng là những người làm nghề chăn nuôi lợn, thì danh sách những bệnh
25


×