Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Quan hệ ngoại giao mỹ thái lan trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1945 1991)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 77 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ quý báu của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và sự động viên của gia đình, bạn bè. Em
xin chân thành cảm ơn!
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện quốc gia, thư viện trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội 2…. về những tài liệu sử
dụng trong khóa luận.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
ThS. Nguyễn Thị Nga đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian qua để
em hoàn thành khóa luận.
Do thời gian và trình độ nhận thức còn hạn chế, mặc dù đã rất cố gắng
nhưng những vấn đề em trình bày trong khóa luận cũng không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các
thầy - cô giáo và sự đóng góp ý kiến của các bạn sinh viên để khóa luận của
em có thể hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Phạm Duy Thịnh

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi, được sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn
Thị Nga, không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên
Phạm Duy Thịnh

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3
2.1. Tài liệu tiếng Việt ............................................................................ 3

2.2. Tài liệu tiếng Anh ............................................................................ 4
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 6
5. Đóng góp của đề tài .................................................................................... 6
6. Bố cục của đề tài ........................................................................................ 6
NỘI DUNG ................................................................................................... 7
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MỸ THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH .......................... 7
1.1. Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trước năm 1945 ............................... 7
1.2. Những nhân tố tác động tới quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong
thời kỳ Chiến tranh lạnh ....................................................................... 10
1.2.1. Nhân tố khách quan .................................................................... 10
1.2.2. Nhân tố chủ quan........................................................................ 12
Chương 2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO MỸ - THÁI LAN TRONG
NHỮNG NĂM 1945 - 1991 ........................................................................ 23
2.1. Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những năm 1945 - 1975......... 23
2.1.1. Bối cảnh lịch sử .......................................................................... 23
2.1.2. Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những năm 1945 - 1975 ...28
2.1.3. Đặc điểm mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những
năm 1945 - 1975 ......................................................................... 36

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.2. Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những năm 1975 - 1991......... 37

2.2.1. Bối cảnh lịch sử .......................................................................... 37
2.2.2. Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những năm 1975 - 1991 ...45
2.2.3. Đặc điểm mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong những
năm 1975 - 1991 ......................................................................... 49
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN HỆ NGOẠI
GIAO MỸ - THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH
(1945 - 1991)................................................................................................ 51
3.1. Đặc điểm của quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh (1945 - 1991) ....................................................................... 51
3.2. Tính chất của mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh (1945 - 1991) ............................................................. 54
3.3. Tác động của mối quan hệ ngoại giao Mỹ Thái Lan trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh (1945 - 1991) ............................................................. 55
3.3.1. Đối với thế giới ........................................................................... 55
3.3.2. Đối với khu vực Đông Nam Á ..................................................... 56
3.3.3. Đối với nước Mỹ ......................................................................... 57
3.3.4. Đối với Thái Lan......................................................................... 58
3.4. Triển vọng quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan ....................................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 64
PHỤ LỤC.................................................................................................... 67

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

1


Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc không được bao lâu, nhân
loại lại bước vào một cuộc chiến tranh mới - Chiến tranh lạnh. Đây là “cuộc
chiến tranh không nổ súng, song luôn gây ra tình trạng căng thẳng, đặt nhân
loại bên miệng hố chiến tranh” [1; 59]. Mỹ và các nước đồng minh tiến hành
chạy đua vũ trang, tăng cường nhân sách quốc phòng, lập các liên minh quân
sự, bao vây để ngăn chặn rồi tiêu diệt các nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng
cách mạng, tiến bộ trên thế giới. Trong quan hệ đối ngoại, “Mỹ và đồng minh
theo đuổi chính sách “ngoại giao trên thế mạnh”[1; 59], tăng cường sức ép
kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động phá hoại ngầm. Mỹ luôn chú trọng tới các
nước Đông Nam Á vì khu vực này có vị trí quan trọng về nhiều mặt đồng thời
Mỹ cũng ra sức thắt chặt mối quan hệ với các nước đồng minh.
Nằm trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là nước duy nhất trong khu
vực giữ được độc lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thái Lan theo đuổi
một chính sách ngoại giao được biết với tên gọi là “không đứng về phía nào”,
hoặc cũng có thể gọi theo cách khác là “đứng trung lập”. Nhưng có một đặc
tính là Thái Lan chắc chắn sẽ thay đổi chính sách nếu có một bên giành chiến
thắng.Trong việc Thái Lan giữ được độc lập có vai trò rất lớn của “yếu tố
Mỹ”. Mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái được thiết lập từ lâu trong lịch sử thì
đến đây đặc biệt là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh mối quan hệ đó ngày càng
được thắt chặt hơn.
Mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong Chiến tranh lạnh tuy là
một mối quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Nam Á nhưng lại có tác động đến
lợi ích của nhiều nước khác nhau, không chỉ các nước trong khu vực mà cả

Phạm Duy Thịnh


Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

2

Trường ĐHSP Hà Nội 2

với các cường quốc lớn bên ngoài có dính líu lợi ích tại nơi đây. Hơn nữa, bản
thân mối quan hệ này là một mối quan hệ quốc tế khá đặc thù, mối quan hệ
giữa một cường quốc đế quốc tự cho mình là đứng đầu “thế giới tự do”, có thế
lực thực dụng với một nước tuy thuộc “thế giới thứ ba” nhưng nổi tiếng khôn
khéo và linh hoạt trong quan hệ đối ngoại trước các nước lớn.
Trong các nước đồng minh của Mỹ trong Chiến tranh lạnh, Thái lan có
một vị trí khá quan trọng, được coi là cứ điểm tiền tiêu của Mỹ ở Đông Nam
Á nhằm ngăn chặn sự lan tỏa của chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, mối quan hệ
ngoại giao Mỹ -Thái nhìn từ bề ngoài giống như một thứ quan hệ đồng minh
tư tưởng, Thái Lan như một quốc gia “theo đuôi” Mỹ, phục vụ những mục
tiêu chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á đồng thời thu lợi về mình. Nhưng khi
đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái trong Chiến tranh
lạnh tình hình không đơn giản như vậy.
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu, tìm hiểu mối quan hệ ngoại giao Mỹ
- Thái Lan trong thời kỳ Chiến tranh lạnh không những cung cấp cho chúng ta
những thông tin, những bài học lịch sử về chính sách đối với các nước nhỏ của
Mỹ mà còn giúp chúng ta tham khảo sự khôn khéo trong chính sách đối ngoại
của Thái Lan nữa. Đó là những kinh nghiệm lịch sử hết sức quý báu giúp ích
cho chúng ta trong quá trình hội nhập vì sự phát triển của đất nước.
Từ các nhận định trên người viết đã lựa chọn vấn đề “Quan hệ ngoại

giao Mỹ - Thái trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945 - 1991)” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp thuộc chuyên ngành lịch sử thế giới của mình, với mong
muốn tiếp cận một cách tổng quát về mối quan hệ này, và hy vọng sẽ làm rõ
được thực trạng, vai trò và ý nghĩa của mối quan hệ này đối với khu vực và
thế giới.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

3

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu tiếng Việt
Là một mối quan hệ đa dạng, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan đã thu
hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả trong nước. Mỗi công trình nghiên
cứu lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau, hay lựa chọn những giai đoạn
khác nhau trong lịch sử quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái.
Trong những công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt, trước hết phải kể
đến công trình “Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau Chiến
tranh lạnh”, của Lưu Khương Thùy (2003), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội .
Tuy không đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ song phương Mỹ - Thái, nhưng
thông qua việc nghiên cứu quan hệ Mỹ với các nước ASEAN trên nhiều lĩnh
vực người đọc cũng thấy được những nét khái quát về quan hệ Mỹ - Thái. Bởi
Thái Lan là một trong những thành viên đầu tiên, tích cực của ASEAN và là

đồng minh quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á. Vì thế, là nguồn tư liệu tham
khảo cho người viết trong quá trình nghiên cứu.
Cũng nghiên cứu về mối quan hệ Mỹ - ASEAN như tác giả Lưu
Khương Thùy, nhưng chỉ lựa chọn cho mình khoảng thời gian 30 năm là công
trình “Quan hệ Mỹ - ASEAN (1967 - 1997) lịch sử và triển vọng” của Lê
Văn Anh Anh (2009), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. Là một trong những
nhà nghiên cứu chuyên về quan hệ quốc tế, tác giả Lê Văn Anh đã cung cấp
cho người đọc những sự nhìn nhận đánh giá khách quan. Và mặc dù không
tập trung vào mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan, nhưng tác cũng đã đưa
ra những gợi ý khoa học, cũng như những tư liệu để có thể đi sâu tìm hiểu về
mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế đó, trong
những công trình nghiên cứu về lịch sử Đông Nam Á cũng đã ít nhiều đề cập

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

4

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đến quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan. Trong đó phải kể đến công trình
nghiên cứu “Lịch sử Đông Nam Á” của tác giả Lương Ninh (cb) (2005), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.Là một công trình nghiên cứu tổng quát về lịch sử các quốc
gia Đông Nam Á từ thời nguyên thủy cho đến thời hiện đại nên không thể đi
sâu vào từng quốc gia riêng biệt. Nhưng tác phẩm cũng đã cung cấp một số sự

kiện trong chính sách ngoại giao của các nước. Từ đó, người viết có những
hiểu biết căn bản về quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái. Trên cơ sở đó, để đi sâu
tìm hiểu mối quan hệ phức tạp này.
Một công trình nghiên cứu nữa phải kể đến là “Lịch sử thế giới hiện
đại”, Q2, của hai tác giả Trần Thị Vinh và Lê Văn Anh(cb), (2001), Q2, Nxb
Đại học sư phạm, Hà Nội. Với đặc điểm là một giáo trình cho sinh viên lại
viết chung về lịch sử quan hệ quốc tế sau năm 1945, nên các tác giả đã chưa
có điều kiện để đi sâu nghiên cứu về những vấn đề trong quan hệ ngoại giao
Mỹ - Thái. Dù vậy, những số liệu tin cậy mà các tác giả cung cấp đã giúp cho
người viết có thể tham khảo, bổ sung vào công trình nghiên cứu của mình.
Sau cùng cần kể đến một số tài liệu của Thông tấn xã Việt Nam có đề
cập đến tình hình quan hệ Mỹ - Thái trong thời kỳ Chiến tranh lạnh trên lĩnh
vực ngoại giao. Nguồn tư liệu này mang tính thời sự nhưng có đặc điểm là
những bài viết đơn lẻ có tính chất thông báo đòi hỏi phải được xử lý, phân
loại, tổng hợp và đánh giá để có đưa vào công trình nghiên cứu.
2.2. Tài liệu tiếng Anh
Nghiên cứu về Mỹ, về Thái Lan cũng như mối quan hệ của hai nước
qua những giai đoạn khác nhau, luôn thu hút được giới nghiên cứu thuộc
nhiều lĩnh vực trên thế giới. Vì vậy, các công trình nghiên cứu rất phong phú.
Công trình đầu tiên là “The united states and the future of Thailand”
của D.A.Wilson (1965). Trong công trình này đã đề cập tới việc xây dựng
một “thế giới tự do” mà Mỹ đóng vai trò là người giúp Thái Lan đi vào con

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp


5

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đường phát triển. Quan hệ Mỹ - Thái được nhìn nhận dưới góc độ Mỹ đã có
vai trò rất lớn đối với sự phát triển của Thái Lan. Qua đó giúp người viết có
thêm những ý kiến quý báu để đánh giá về đặc điểm và tính chất của mối
quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái trong thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Năm 1985, công trình nghiên cứu “Southeast Asia in United States
Policy” của H. Fifield (1985), Council on Foreign relations, New York. người
đọc đã một lần nữa thấy được vị trí quan trọng của Đông Nam Á trong chính
sách của Mỹ. Từ một sự “thờ ơ” lúc ban đầu, đến việc nhận thức sâu sắc hơn
về vị trí địa chiến lược của Đông Nam Á, mà Mỹ đã có những điều chỉnh
trong chính sách đối với khu vực này. Và trên cơ sở một chính sách chung,
căn cứ vào đặc điểm của từng nước mà Mỹ đã tìm kiếm cho minh một số
đồng minh ở Đông Nam Á như Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan. Tác
giả đã giúp cho người viết có thêm nhiều hiểu biết về vị trí của Thái Lan trong
chính sách đối ngoại của Mỹ - một nhân tố có tính chất quyết định đến quan
hệ hai nước mà mỗi khi có sự biến động thì quan hệ đó cũng không còn
nguyên như cũ nữa.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ
và hệ thống của mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong Chiến tranh lạnh
(1945 - 1991). Vì vậy, với mong muốn bổ khuyết vào khoảng trắng đó, người
viết đã lựa chọn đề tài “Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh (1945 - 1991)” nhằm tìm hiểu một toàn diện về quan hệ
ngoại giao của Mỹ và Thái Lan trong Chiến tranh lạnh. Trên cơ sở đó, người
viết đưa ra những nhận xét, đánh giá về đặc điểm cũng như những tác động
của mối quan hệ không kém phần phong phú và phức tạp này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài nghiên cứu về quan ngoại giao chính trị, quân sự

Mỹ - Thái Lan.
Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

6

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về quan hệ ngoại giao Mỹ Thái Lan trong thời kỳ Chiến tranh lạnh từ năm 1945 đến năm 1991.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện công trình nghiên cứu của mình, người viết dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm chỉ đạo của Đảng ta trong nghiên cứu sử học.
Về phương pháp nghiên cứu, người viết đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phân tích, so
sánh, xử lý tư liệu…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ Mỹ - Thái Lan vừa có ý nghĩa lý luận
vừa có ý nghĩa thực tiễn. Vì vậy, nghiên cứu đề tài sẽ có nhiều đóng góp.
Về mặt lý luận: đề tài nghiên cứu góp phần cung cấp một số hiểu biết
về nghiên cứu quan hệ quốc tế.
Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần tìm hiểu về quan hệ quốc tế trong
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đồng thời giúp chúng ta có thể tham khảo khi giảng
dạy, nghiên cứu lịch sử thế giới hiện đại phần lịch sử quan hệ quốc tế.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở bài và phần kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:

Chương 1: Những nhân tố tác động tới quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái
Lan thời kì Chiến tranh lạnh (1945 - 1991)
Chương 2: Quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh (1945 - 1991)
Chương 3: Những nhận xét đánh giá chung về quan hệ ngoại giao Mỹ Thái Lan trong thời kỳ Chiến tranh lạnh

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

7

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
MỸ - THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO MỸ - THÁI LAN TRƯỚC NĂM 1945
Sau hơn 100 năm (1833 - 1945) sau khi ký “Hiệp ước hữu nghị và
thương mại” vào ngày 20 - 3 - 1833 [2; 22] . Quan hệ thương mại Mỹ - Thái
Lan đã được tăng cường trong những năm đầu của thế kỷ XIX. Sau đó là
những nỗ lực trong hợp tác nhân đạo, văn hóa… .Trong suốt những năm từ
1833 đến 1945, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan đã trải qua nhiều bước
thăng trầm.
Năm 1938, quan hệ Mỹ - Thái Lan rơi vào ngưng trệ do vua Xiêm ký
Hiệp ước năm 1833 đơn thuần là một hành động ngoại giao nhằm ngăn chặn

mưu đồ độc chiếm Thái Lan của người Anh, chứ không phải là khuyến khích
quan hệ thương mại giữa hai nước. Mặt khác, trong con mắt của người Mỹ
lúc bấy giờ Xiêm không phải là một thị trường quan trọng. Mỹ đang quan tâm
đến vùng thị trường bao la thuộc miền Tây nước Mỹ và toàn châu Mỹ. Ngoài
ra, khi người Mỹ đến Xiêm, Anh và các nước phương Tây khác đã xác lập
được quan hệ thương mại và gây ảnh hưởng khá vững chắc ở vương quốc này
và Mỹ không dễ một sớm một chiều làm đảo ngược tình thế được.
Vào những thập niên 1851 - 1861, là những năm quan hệ thương mại
Mỹ - Xiêm được đẩy lên đến đỉnh cao nhất trong thời kỳ trước năm 1945. Với
ưu thế là nước có hạm đội tàu buôn lớn nhất và có máy xay lúa làm hàng hóa,
Mỹ mau chóng trở thành một trong những bạn hàng lớn của Xiêm. Năm 1958,
Mỹ vươn lên thành bạn hàng thứ hai của Xiêm sau Anh.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

8

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Giữa lúc quan hệ thương mại Mỹ - Xiêm đang có nhiều tiến triển, đạt
được nhiều thành tựu thì Nội chiến ở Mỹ nổ ra (1861 - 1865) đã làm ngưng
trệ lại. Từ đó cho đến khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ
buôn bán giữa Mỹ và Xiêm vẫn luôn ở trong tình trạng cầm chừng.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ Mỹ - Thái Lan rơi
vào tình trạng căng thẳng (từ năm 1939 vương quốc Xiêm đổi tên thành

vương quốc Thái Lan). Đến năm 1941, quan hệ thương mại giữa hai nước
hoàn toàn bị tê liệt khi người Thái buộc công ty Standard Valuum company
của Mỹ đang làm ăn ở Thái Lan phải chấm dứt hoạt động tại nước này.
Trong khi quan hệ thương mại Mỹ - Thái không mấy phát triển thì các
hoạt động của các giáo sĩ Tin Lành của Mỹ lại đạt được những bước tiến liên
tục và gây được ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Thái Lan. Đặt chân đến
Xiêm lần đầu tiên vào năm 1931, các giáo sĩ Mỹ đã bắt tay ngay vào công
việc xúc tiến một loạt các hoạt động nhằm mục đích tạo ra môi trường thuận
lợi cho công tác truyền giáo của họ.
Ban đầu các giáo sĩ chú trọng xây dựng quan hệ cá nhân thân mật với
nhà vua và hoàng tộc Xiêm. Sau đó, họ bắt tay vào công tác xã hội như mở
lớp học, du nhập kỹ thuật và báo chí… vào Xiêm. Sau hơn một thế kỷ hoạt
động không mệt mỏi, các giáo sĩ người Mỹ đã dành được thiện cảm và sự
ngưỡng mộ của các tầng lớp trong xã hội Xiêm. Trong khi gặt hái được nhiều
thành công trong hoạt động xã hội, các giáo sĩ Mỹ vẫn không mấy thành công
trong các cố gắng truyền bá Phúc âm. Xã hội Phật giáo ở Thái Lan hầu như
dửng dưng trước đạo Tin Lành. Chính điều này làm cho vị thế của các giáo sĩ
người Mỹ ở Xiêm bị suy giảm. Đến đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, hoạt
động của họ trên đất Xiêm thực sự chấm dứt.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

9

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Thành công trong các hoạt động xã hội của các giáo sĩ Tin Lành đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Việc
nhà ngoại giao Mỹ là Townsend Harris đến Băng Cốc và nhanh chóng ký
được một hiệp ước bất bình đẳng với Xiêm năm 1856 là một sự kiện quan
trọng trong quan hệ ngoại giao Mỹ - Xiêm. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước
trở nên đặc biệt gần gũi trong những năm 1919 - 1939. Tại Hội nghị Vecxai
(1919), Wilson đã một mình đáp ứng lời yêu cầu đòi các nước phương Tây
xóa bỏ những đặc quyền bất bình đẳng mà họ đang hưởng trong quan hệ với
Xiêm. Một năm sau, 1920, Hiệp ước Mỹ - Xiêm được ký kết.
Khi Mỹ tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là khi chủ nghĩa
“can thiệp” thắng thế hoàn toàn trong quan hệ quốc tế. Từ đấy, chính quyền
Mỹ không còn bị Quốc hội giàng buộc trong các quyết định đối ngoại nữa. Do
đó, chính quyền Rudơven hoàn toàn có đủ thẩm quyền bày tỏ thái độ với Thái
Lan. Nhưng trong thời gian này, Chính phủ Phibun theo Nhật và tuyên chiến
với Mỹ vào ngày 25 - 1 - 1942, đã đặt chính quyền Mỹ trước một sự lựa chọn
khó khăn. Cuối cùng Rudơven đã đưa ra một giải pháp khôn ngoan là không
chấp nhận lời tuyên chiến của Chính phủ Phibun, tiếp tục tái lập quan hệ với
Thái Lan qua những người “Thái tự do”. Chính điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tái thâm nhập và gia tăng ảnh hưởng của Mỹ vào Thái Lan
sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Như vậy, trong thời kỳ trước năm 1945, quan hệ Mỹ - Thái Lan chưa
được triển khai một cách sâu rộng mà chủ yếu ở 3 lĩnh vực chính là ngoại
giao, thương mại, truyền giáo. Đã có những lúc mối quan hệ đó tưởng chừng
bị tê liệt nhưng với vị trí đặc biệt quan trọng của Thái Lan ở Đông Nam Á,
Mỹ đã tìm mọi cách để duy trì mối quan hệ giữa hai nước. Đây là thời kỳ tạo
tiền đề hết sức quan trọng cho quan hệ Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ tiếp theo.

Phạm Duy Thịnh


Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

10

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ NGOẠI GIAO
MỸ - THÁI LAN TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH
1.2.1. Nhân tố khách quan
*Bối cảnh quốc tế: Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc cũng là lúc thế
giới bước vào một cuộc chiến tranh mới - Chiến tranh lạnh. “Chiến tranh
lạnh” là từ do Baruch - tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở Liên
Hợp Quốc đặt ra, xuất hiện lần đầu tiên trên báo Mỹ ngày 26 - 7 - 1947. Theo
phía Mỹ “Chiến tranh lạnh” là chiến tranh không nổ súng, không đổ máu
nhưng luôn ở tình trạng chiến tranh nhằm ngăn chặn rồi tiêu diệt Liên Xô và
các nước Xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ tính chất của nó, Chiến tranh lạnh đã làm cho quan hệ
quốc tế trở nên căng thẳng, hai nước đại diện cho hai hệ thống tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa là Mỹ và Liên Xô, đã ra sức chạy đua vũ trang
thành lập các liên minh quân sự để lôi kéo các nước đồng minh về phe mình.
Liên Xô và Mỹ tuy không đối đầu trực tiếp nhưng những cuộc chiến tranh cục
bộ diễn ra ở khắp nơi theo nguyên tắc “đại diện”. Quan hệ quốc tế diễn biến
phức tạp và nóng bỏng.
Thế giới hậu Chiến tranh thế giới thứ hai còn chứng kiến sự ra đời của
một loạt các nước xã hội chủ nghĩa trong đó phải kể đến sự ra đời của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949). Sự thắng thế của Chủ nghĩa cộng sản
ở một đất nước rộng lớn, lại có đường biên giới chung với Liên Xô, đã nối

liền Chủ nghĩa xã hội từ Tây sang Đông. Điều đó đã làm thay đổi cán cân lực
lượng trên thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Chính vì
vậy, Mỹ ra sức củng cố quan hệ với các nước đồng minh của mình. Trong đó,
quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan cũng được tăng cường.
Song song với việc xây dựng những đồng minh tin cậy, Mỹ cũng đẩy
mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược để nắm lấy những vị trí trọng yếu. Với

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

11

Trường ĐHSP Hà Nội 2

mục đích đó, Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và các
nước Đông Dương khác (1954 - 1975). Để tiến hành chiến tranh, bên cạnh
việc huy động nguồn lực trong nước vô cùng tốn kém, khoảng 676 tỷ đôla,
nếu tính cả chi phí gián tiếp là 920 tỷ đô la [18; 93], Mỹ còn huy động đồng
minh và chư hầu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Ngoài những đồng
minh ở Thái Bình Dương như Niudilân, Úc, Philippin, Inđônêxia, Mỹ còn
nhận ra một nước đồng minh đầy tiềm năng, đó là Thái Lan. Bởi Thái Lan, có
vị trí liền kề với các nước Đông Dương nên rất thuận lợi cho việc đặt các căn
cứ quân sự cũng như việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, thiết bị chiến
tranh sang phục vụ cuộc chiến tranh. Thêm vào đó, từ Thái Lan có thể di
chuyển sang các nước Đông Dương bằng cả đường bộ, đường thủy và đường
hàng không, điều mà Mỹ không tìm thấy ở bất cứ đồng minh nào trong khu

vực này. Đó cũng là nguyên nhân để chúng ta dễ dàng giải thích được tại sao
quan hệ ngoại giap Mỹ - Thái Lan trong Chiến tranh lạnh rất phát triển.
Đến những thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều thay
đổi và do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nên tình hình ngoại thương
của các nước tư bản chủ nghĩa không ngừng suy giảm, kèm theo đó là xu
hướng bảo hộ ngày càng tăng. Đó cũng là một yếu tố có tác động sâu sắc tới
quan hệ trên lĩnh vực kinh tế giữa Mỹ và Thái Lan và do đó cũng đã có nhiều
ảnh hưởng lên quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong cuộc Chiến tranh lạnh.
*Bối cảnh khu vực: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Nam Á
được chú ý như một trong những vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng của
chủ nghĩa tư bản trong cuộc Chiến tranh lạnh. Bởi nơi đây sẽ hình thành con
đê ngăn làn sóng cộng sản của có thể tràn xuống phía Nam. Mặt khác, đây
còn là con đường thuận lợi để tiến vào Trung Quốc, sang Liên Xô và đi sâu
vào lục địa châu Âu để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, tiêu diệt Liên Xô. Mỹ đã
nhận thức sâu sắc được điều này. Vì thế, Mỹ tìm cách nắm lấy Đông Nam Á.
Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

12

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Nên ngay khi người Pháp chưa rời khỏi Việt Nam, Mỹ đã thế chân để không
tạo ra ở nơi đây “một khoảng trống quyền lực” nào. Đồng thời, Mỹ tăng
cường lôi kéo và xây dựng những đồng minh tin cậy của mình trong khu vực
Đông Nam Á. Ngoài Philippin, Inđônêxia, Mỹ còn đặc biệt quan tâm đến

Thái Lan - một đất nước của những chính sách ngoại giao khôn ngoan nhưng
dễ thay đổi và lôi kéo.
Một thuận lợi là Chiến tranh lạnh đã chia thế giới thành hai phe: Tư bản
chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa, và đã đẩy hai nước Mỹ và Thái Lan về cùng
một phía, tạo thành những “đồng minh tự nhiên”. Nhận thấy vị trí của Thái
Lan là “chìa khóa” của Đông Nam Á, Mỹ đã đẩy mạnh quan hệ với nước này,
ra sức “cứu vớt” Thái Lan sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì thế, trong
Chiến tranh lạnh, quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan được đẩy mạnh hơn bất
cứ giai đoạn nào trước đó.
1.2.2. Nhân tố chủ quan
*Nước Mỹ và chính sách đối ngoại của nó
Được ra đời từ thế kỷ XVIII, Mỹ là một trong những nước tư bản trẻ
nhất thế giới nhưng lại có sức vươn lên và bành trướng rất mạnh mẽ. Từ một
thuộc địa của Vương quốc Anh, chỉ sau hơn 100 năm độc lập, đến cuối thế kỷ
XIX, nước Mỹ đã vươn mình trở thành cường quốc đứng đầu thế giới về tiềm
lực kinh tế quốc dân. Từ đó, người Mỹ tiếp tục hướng vào gia tăng thế lực của
nước họ về mặt quân sự và chính trị. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
nước Mỹ được biết đến như là siêu cường số một trên thế giới.
Khởi phát từ cuộc đấu tranh chống thực dân Anh giành chính quyền độc
lập rồi tự mình tạo ra một thể chế chính trị, xã hội như một hành động khước từ
các thể chế cũ ở châu Âu, nước Mỹ được không ít các quốc gia và những người
theo đuổi lập trường dân chủ tư sản coi là người đi tiên phong trong cuộc đấu

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp


13

Trường ĐHSP Hà Nội 2

tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và là biểu tượng của khát vọng tự do - dân
chủ của họ. Người Mỹ tự cho rằng họ là người đã tự lập ra một thể chế chính trị
- xã hội ưu việt nhất mà xã hội có thể có, thậm chí trong ngôn ngữ của họ
“nước Mỹ” còn được gọi bằng tên khác: “nước của chúa” [2; 10].
Không thể phủ nhận những nhân tố tiến bộ trong hiến pháp và thể chế
chính trị - xã hội ở Mỹ. Song hiến pháp và nền dân chủ tư sản ở Mỹ không hề
đảm bảo được quyền tự do dân chủ trên thực tế cho những người nghèo và da
màu. Thực chất của việc mở rộng nước Mỹ từ 13 bang vào năm lập quốc lên
thành 50 bang ngày nay là một quá trình thực thi chính sách đối ngoại bành
trướng liên tục của các chính phủ Mỹ. Hơn nữa, trong khi không ngừng bành
trướng về phía Tây như vậy, chính phủ Mỹ cũng không hề sao nhãng việc tìm
ra các vùng khác của thế giới. Bất chấp đường lối đối ngoại “biệt lập” và “nêu
gương” mà các vị lập quốc đề xướng, các chính quyền Mỹ kế nhiệm đã nhiều
lần viện đến lợi ích và an ninh quốc gia để tiến hành các cuộc chiến tranh
nhằm giành giật thuộc địa và vùng ảnh hưởng với các cường quốc châu Âu.
Tiêu biểu cho xu hướng này là cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha ở các
quốc gia hải đảo thuộc hai đại dương lớn hai bên nước Mỹ là Đại Tây Dương
và Thái Bình Dương vào năm 1898. Đồng thời, ngay từ đầu thế kỷ XIX,
chính quyền Mỹ cũng đã không ngừng tìm cách mở rộng ra bên ngoài châu
Mỹ. Một trong những biểu hiện của xu hướng này là việc người Mỹ sớm thúc
đẩy các hoạt động ngoại giao, buôn bán và truyền giáo ở các nước châu Á Thái Bình Dương.
Những năm 1898 đến 1941 là thời kỳ biến chuyển trong chính sách đối
ngoại của Mỹ. Bấy giờ nước Mỹ cơ bản đã ổn định về lãnh thổ, luật pháp và
đã vươn lên thành cường quốc số một của thế giới. Ý thức rằng sức mạnh của
Mỹ đã được khuếch trương cao độ, nhóm can thiệp trong giới lãnh đạo Mỹ


Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

14

Trường ĐHSP Hà Nội 2

ngày càng nghi ngờ và đòi xét lại nền tảng chính sách đối ngoại cũ. Có thể
coi xu hướng can thiệp nổi trội lên đầu tiên là vào năm 1989 khi chính quyền
Mỹ quyết định sát nhập Hawai vào nước Mỹ và tiến hành các cuộc chiến
tranh chiếm Porto Rico, Wake, Guam, Philippin và Cu Ba. Sau đó xu hướng
này ngày càng chiếm được ưu thế thông qua các sự kiện nổi bật: Vào năm
1904 tổng thống Roosevelt quyết định đưa ra chính sách “cây gậy lớn”, đến
những năm 1917 - 1919 tổng thống Wilson đưa quân trang tham gia chiến
tranh thế giới thứ nhất và tham dự giải quyết các vấn đề quốc tế trong hội
nghị Vecxai. Mặc dù các hiệp ước Wilson đặt bút kí trong hội nghị Vecxai bị
những người biệt lập chiếm số đông trong quốc hội Mỹ phủ quyết, song mưu
đồ và xu hướng can thiệp ra toàn cầu của chính quyền Mỹ vẫn không bị đè
bẹp. Một khi con diều hâu trên quốc huy của nước Mỹ đã đủ lông đủ cánh thì
châu Mỹ bị bao bọc bởi hai đại dương trở nên quá chật hẹp đối với nó. Và
cuối cùng, cái cớ cho nhóm can thiệp biện minh cho tham vọng bành trướng
của họ đã đến. Sự xuất hiện của nước Nga Xô Viết năm 1917 và sau đó, cả sự
thắng thế của Đức, Ý, Nhật những năm 30 được nhóm can thiệp coi là những
nhân tố đe dọa đến an nguy của hệ thống Mỹ. Chiến tranh thế giới thứ hai là
cơ hội vàng cho nhóm can thiệp trong giới lãnh đạo Mỹ xác lập được ưu thế
tuyệt đối của nó.

Sự kiện Trân Châu Cảng 7 - 12 - 1941, được các nhà nghiên cứu Mỹ
coi là dấu mốc quan trọng trong lịch sử của nước họ. Việc Mỹ tuyên chiến với
Nhật và trực tiếp tham gia vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai được coi là
sự khai tử của chủ nghĩa biệt lập đồng thời là sự thắng thế tuyệt đối của chủ
nghĩa can thiệp toàn cầu.
Chính sách đối ngoại toàn cầu được người Mỹ chấp nhận bởi sự tuyên
truyền của chính quyền Mỹ về sự lớn mạnh của nước Mỹ dân chủ và sứ mạng

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

15

Trường ĐHSP Hà Nội 2

mới của Mỹ là “gánh vác” cuộc đấu tranh chống lại mọi sự đe dọa của các chế
độ độc tài trên thế giới, mà trước hết là sự đe dọa của Liên Xô đối với an ninh
của hệ thống Mỹ. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Mỹ càng lao
sâu vào việc thực thi một chính sách đối ngoại toàn cầu dựa trên thế mạnh.
Với chiến lược toàn cầu, Mỹ âm mưu chi phối thế giới, tuy rằng tình hình thế
giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều chuyển biến: Tương quan lực
lượng giữa Mỹ với nhiều nước thay đổi, Mỹ gặp nhiều thất bại trong chiến
tranh xâm lược, can thiệp vũ trang ở nhiều nơi trên thế giới…thế mà một số
người hiếu chiến trong giới cầm quyền không hề từ bỏ giấc mộng về một thế
giới đơn cực do Mỹ đứng đầu.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đối

phó với tình hình không có lợi với vị trí của Mỹ, vì sự lớn mạnh của Liên Xô
và hệ thống xã hội chủ nghĩa, vì phong trào cách mạng thế giới lên cao, vì sự
cạnh tranh, mâu thuẫn ngày càng tăng giữa các nước tư bản đế quốc với Mỹ.
Mục tiêu chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm vào các điểm chủ yếu sau:
- Ngăn chặn đi tới làm suy yếu và thủ tiêu sự tồn tại của Liên Xô, hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa, đảm bảo độc quyền của Mỹ trên thế giới.
- Củng cố, xác lập lâu bền sự phụ thuộc các nước trong hệ thống tư bản
thế giới vào Mỹ, bị Mỹ dẫn dắt, chi phối về mọi mặt.
- Đẩy lùi, đánh phá phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc
địa và phụ thuộc, hoặc hướng các nước độc lập dân tộc đi vào quỹ đạo của
Mỹ, nhằm làm suy yếu hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc khác, để tập
trung vào tay Mỹ với nhiều hình thức khác nhau. Mỹ tiến hành trao trả độc
lập giả hiệu cho các nước thuộc địa, thiết lập chế độ thực dân mới do Mỹ
thống trị.
- Xây dựng một nước Mỹ hùng mạnh về các mặt kinh tế, chính trị, quân
sự, văn hóa để giữ vững địa vị bá quyền của Mỹ trên thế giới.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

16

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Với chiến lược toàn cầu, Mỹ đã nhanh chóng xác lập được quyền bá
chủ không tranh cãi với phương Tây. Nhiệm vụ “sen đầm” quốc tế chủ yếu

của Mỹ là tìm cách khuất phục thế giới xã hội chủ nghĩa và gia tăng ảnh
hưởng của Mỹ đến các phần còn lại của thế giới. Đây là chiến lược của các
thế lực hiếu chiến phản động của Mỹ nhằm “ngăn chặn làn sóng cộng sản”
đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và ngay cả trong lòng nước Mỹ. Nhà
cầm quyền Oasinhtơn luôn luôn tin tưởng vào sức mạnh vô địch toàn diện của
mình, say sưa với tham vọng làm bá chủ thế giới, như họ thường huênh hoang
tuyên bố lúc bấy giờ rằng: “Hiện nay chúng ta và chỉ có chúng ta nắm được
bom nguyên tử, chúng ta có thể áp đặt chính sách của chúng ta trên toàn thế
giới” [1; 58]. Họ còn muốn lôi kéo nhân dân Mỹ thực thi “trách nhiệm”, đảm
nhận “sứ mệnh” thống trị thế giới, đem lại lợi ích cho bọn tài phiệt Hoa Kỳ.
“Dù muốn hay không muốn, chúng ta phải công nhận thắng lợi mà chúng ta
đạt được đã đặt lên nhân dân Mỹ gánh nặng là tiếp tục trách nhiệm lãnh đạo
thế giới” [1; 59].
Xuất phát từ tư tưởng đó, Mỹ đã tìm cách len chân vào tất cả những
vùng đất trên thế giới, Đông Nam Á cũng không nằm ngoài ý định của Mỹ.
Để thực hiện mưu đồ của mình ở Đông Nam Á, Mỹ đã rất chú trọng đến Thái
Lan vì Thái Lan có vị trí chiến lược ở khu vực này và là thị trường giàu có
nguyên liệu. So với các nước ở Đông Nam Á, Thái Lan nằm ở vị trí địa lý khá
trọng yếu, có thể là đặc trưng nhất của toàn bộ khu vực. Nằm chính giữa
Đông Nam Á lục địa, Thái Lan vừa tiếp giáp với hai đại dương lớn là Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, lại vừa thọc sâu ra vùng Đông Nam Á hải đảo
bởi vùng dải đất dọc bán đảo Mã Lai. Từ Thái Lan, có thể khống chế toàn bộ
khu vực Đông Nam Á và phụ cận, có thể đi vào Trung Quốc, Ấn Độ, tiến ra
hai đại dương hoặc thọc sâu xuống vùng đất châu Đại Dương. Vùng đất hẹp
Kra là nơi có thể đào kênh thông thương giữa hai đại dương lớn rất thuận lợi.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử



Khóa luận tốt nghiệp

17

Trường ĐHSP Hà Nội 2

*Vị trí của Thái Lan trong chính sách đối ngoại của Mỹ
So với các nước khác ở Đông Nam Á, Thái Lan nằm ở một vị trí địa lý
khá trọng yếu, có thể coi là đặc trưng nhất của toàn khu vực. Nằm chính giữa
Đông Nam Á lục địa, Thái Lan vừa tiếp giáp với hai đại dương lớn là Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, lại vừa thọc sâu ra vùng Đông Nam Á hải đảo
bởi dải đất dọc bán đảo Mã Lai. Từ Thái Lan, có thể khống chế toàn bộ khu
vực Đông Nam và các vùng phụ cận, có thể đi vào Trung Quốc, Ấn Độ, tiến ra
hai đại dương hoặc thọc sâu xuống vùng đất châu Đại Dương. Vùng Đất hẹp
Kra là nơi có thể đào kênh thong thương giữa hai đại dương lớn rất thuận lợi.
Cũng như các nước trong khu vực, Thái Lan thuộc vùng nhiệt đới gió
mùa, cỏ cây xanh tốt quanh năm, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp
nhiệt đới và các cây công nghiệp như cây cao su, cây lấy gỗ…Thái Lan là một
trong những quê hương lâu đời của cây lúa nước và cũng là quê hương của
các loại gỗ quý như gỗ tếch, gỗ lim, sến, táu…nơi đây cũng có nhiều hương
liệu quý như hồ tiêu, hồi, quế. Vùng biển có nhiều đặc sản: cá, tôm, cua…
Thái Lan cũng là nơi giàu tài nguyên khoáng sản và nguyên nhiên liệu cho
các ngành công nghiệp nước ngoài như thiếc, mangan, dầu khí…
Như vậy, Thái Lan không chỉ có ý nghĩa về mặt chiến lược - một địa
bàn trọng yếu về quân sự, giao thông, thương mại…mà còn có ý nghĩa về
kinh tế - một thị trường nguyên liệu giàu có. Bởi vậy, cũng như các nước
Đông Nam Á, Thái Lan luôn là mục tiêu nhòm ngó, xâm lược của các nước
bên ngoài.Vì thế, tuy biết đến Thái Lan muộn hơn so với các cường quốc
phương Tây khác, song Mỹ lại là cường quốc chưa bao giờ rời mắt khỏi

Vương quốc Phật giáo nằm ở trung tâm Đông Nam Á lục địa này. Hơn nữa
trước biến động của tình hình quốc tế và khu vực, Mỹ ngày càng đề cao và
mở rộng hơn các ý nghĩa chiến lược của nó. Chính vì vậy, quan hệ Mỹ - Thái
Lan được thiết lập khá sớm (1833).

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

18

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Nước Mỹ chính thức biết đến và nhòm ngó Vương quốc Xiêm vào đầu
thế kỷ XIX. Thế nhưng cho đến hết thế kỷ đó, Vương quốc Xiêm chỉ được
người Mỹ xem là một vùng thị trường nguyên liệu, nông sản và là nơi để Mỹ
tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp mà thôi. Cũng như toàn bộ khu vực Đông
Nam Á, Thái Lan chưa được Mỹ coi là một đối tượng trực tiếp trong chính
sách đối ngoại của nó. Có hai lý do cơ bản làm hạn chế ý nghĩa chiến lược
của Thái Lan trong con mắt người Mỹ lúc đó. Thứ nhất, người Mỹ đang bận
khai phá miền Tây và khống chế toàn bộ châu Mỹ. Vấn đề thị trường chưa
thực sự trở nên cấp thiết với nó. Thứ hai, dẫu sao Mỹ vẫn còn bị khống chế
trong truyền thống biệt lập của nó. Nước Mỹ vẫn chưa đủ mạnh để bày tỏ
tham vọng ra toàn cầu. Các nước ngoài châu Mỹ chưa phải là nơi mà chính
sách đối ngoại của Mỹ hướng tới trực tiếp.
Sau sự kiện Mỹ chiếm Philippin năm 1898, cũng như toàn bộ vùng
Đông Nam Á, Thái Lan thực tế nằm trong tầm nhìn của chính quyền Mỹ.

Mưu đồ can thiệp vào các vấn đề toàn cầu nói chung và Đông Nam Á nói
riêng, đã thúc đẩy chính quyền Mỹ ngày càng nhìn thấy Thái Lan như một
cánh cửa thuận lợi để bước vào khống chế toàn bộ khu vực này.
Khi người Mỹ tham gia chiến tranh Thái Bình Dương và chính thức
chuyển hẳn sang chiến lược can thiệp toàn cầu, Thái Lan được xem là một
trong những địa bàn quân sự và chính trị quan trọng ở Đông Nam Á cần
khống chế. Những năm 1945 - 1989, chính quyền Mỹ nhìn nhận Thái Lan
như một địa bàn quan trọng trong chính sách “ngăn chặn cộng sản” ở Đông
Nam Á. Thái Lan được chính quyền Mỹ coi là “phòng tuyến Tây sông Mê
Công” [2; 46], là nước tiền tiêu bảo vệ “thế giới tự do” ở khu vực Đông Nam
Á. Những năm 1947 - 1959 ý nghĩa chính trị - quân sự của địa bàn Thái Lan
được Mỹ đề cao. Sang thập niên 60 của thế kỷ XX, tuy Mỹ có chú trọng tái đề

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

19

Trường ĐHSP Hà Nội 2

cao các quan hệ kinh tế với Thái Lan, song ý nghĩa kinh tế của địa bàn này
cũng không vượt quá ý nghĩa quân sự - chính trị của nó. Dẫu sao đây cũng là
giai đoạn vị trí của Thái Lan trong chính sách Đông Nam Á của Mỹ được đề
cao nhất. Thái Lan được coi là một địa bàn có ý nghĩa đa diện nhất về cả mặt
chính trị - quân sự và cả kinh tế. Chiến tranh Việt Nam là một nhân tố làm gia
tăng ý nghĩa chiến lược của Thái Lan trong con mắt của các nhà vạch định

chính sách đối ngoại của Mỹ. Sự nhìn nhận của Mỹ về vị trí chiến lược của
Thái Lan như thế nào chính là một trong những nhân tố có tính chất quyết
định đến chiều hướng và quy mô của mối quan hệ Mỹ - Thái.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan cũng phải đối mặt với không
ít khó khăn. Vấn đề cấp bách nhất đối với Thái Lan lúc này là điều chỉnh mối
quan hệ với các nước đồng minh. Do việc Chính phủ Thái Lan đứng về phía
Nhật Bản trong thời gian chiến tranh, các Chính phủ Anh, Pháp đều coi Thái
Lan là một nước bại trận thuộc phe phát xít cần phải trừng trị để nhân cơ hội
này muốn biến Thái Lan thành thuộc địa. Trong bối cảnh đó, sự can thiệp của
Mỹ đã giúp Thái Lan thoát khỏi tình trạng khó khăn này. Để tăng cường ảnh
hưởng đối với Thái Lan nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung, trong
những năm sau chiến tranh, Chính phủ Mỹ đã đứng về phía Thái Lan.
Những nhân tố khách quan và chủ quan nói trên đã tác động mạnh mẽ
đối với quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan trong thời kỳ Chiến tranh lạnh
(1945 - 1991). Sự tác động đó làm cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng
trở nên phức tạp nhưng với ý đồ thực hiện “chiến lược toàn cầu” bành trướng
ảnh hưởng của mình ở Đông Nam Á thì với vị trí chiến lược của mình Thái
Lan vẫn luôn là đối tác và đồng minh quan trọng của Mỹ ở khu vực Đông
Nam Á. Việc Mỹ nhận định ý nghĩa chiến lược của Thái Lan như thế nào là
một trong những nhân tố có tính chất quyết định đến chiều hướng và mức độ
của mối quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái Lan.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

20


Trường ĐHSP Hà Nội 2

*Sự kế thừa những thành tựu ngoại giao trong quan hệ hai nước
Khi người Mỹ đầu tiên đến Thái Lan, vương quốc này có tên gọi là
Xiêm do một ông vua Phật giáo đứng đầu. Lúc bấy giờ, Xiêm đã được biết
đến như một nước có truyền thống đối ngoại cơ hội, linh hoạt trước các cường
quốc bên ngoài. Thế kỷ XIII, dưới triều vua Rakhamheng và các vua kế
nhiệm đã dùng những chính sách ngoại giao khôn khéo để tránh sự xâm lược
của quân Nguyên Mông, bảo vệ sự nguyên vẹn nền độc lập dân tộc. Theo
điều 16 trong số 26 điều tuyên thệ khi đăng quang thì nhà vua Xiêm phải biết
“giữ gìn quan hệ tốt với bên ngoài” [2; 21]. Chính vì vậy mà các ông vua thời
kỳ sau đều tránh được sự “nổi giận” của các cường quốc bên ngoài như Trung
Quốc, Ấn Độ và sau đó là các nước phương Tây.
Mối liên hệ đầu tiên của người Mỹ với vương quốc Xiêm là đã xảy ra
như một sản phẩm phụ của sự phát triển thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc
và Đông Ấn. Theo Somchai Anuman Rajadhon từ năm 1818, dưới triều Rama
III quan hệ buôn bán giữa Mỹ và Xiêm được thực hiện còn theo Hans
H.Indorf thì chiếc tàu Mỹ đầu tiên tới Băng Cốc là vào năm 1821 [2; 22]. Bấy
giờ các thuyền trưởng Mỹ đưa tàu đến Xiêm để đổi súng ống lấy gạo, đường
và các nông phẩm khác. Theo chân các tàu buôn vào giữa năm 1831, phái
đoàn truyền giáo Tin Lành người Mỹ đầu tiên đến vương quốc Phạt giáo này.
Về sau, thông qua hoạt động của các nhà buôn, các nhà truyền giáo,
chính phủ Mỹ đã biết đến Thái Lan cũng như toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
Đầu năm 1833, Tổng thống Mỹ Andrew Jackson đã ủy nhiệm cho sứ thần
Edmund Robert đi tàu đến các quốc gia Đông Nam Á để thương thuyết và đặt
quan hệ ngoại giao. Khi Edmund Robert đến Thái Lan (1833) thì vương quốc
này đang cố tránh khỏi tình trạng bị người Anh đặt ách cai trị thực dân đầy
đủ. Vào ngày 20 - 3 - 1833, sứ thần Mỹ đã ký được với Xiêm bản “Hiệp ước


Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


Khóa luận tốt nghiệp

21

Trường ĐHSP Hà Nội 2

hữu nghị và thương mại” [2; 22] . Và đây được coi là mốc mở đầu của lịch sử
bang giao Mỹ - Thái Lan.
Là một quốc gia nhỏ, Thái Lan luôn phải đối mặt với những tham vọng
của nhiều đế quốc nên chính sách đối ngoại của Thái Lan thường rất uyển
chuyển để giữ gìn độc lập, chủ quyền. Những đóng góp của người Mỹ đã giúp
Thái Lan rất nhiều trong cuộc đấu tranh vì độc lập của họ. Năm 1837, nhà thờ
Tin lành đầu tiên được xây dựng ở Thái Lan làm cho Mỹ - Thái xích lại gần
nhau hơn. Sau đó, hàng loạt các hoạt động ngoại giao giữa Mỹ và Thái Lan
tiếp tục diễn ra và được thắt chặt hơn. Năm 1856, vua Thái Lan lúc đó là
Rama IV gửi lá thư đầu tiên cho tổng thống Mỹ Franklin Pierce, năm 1862,
tổng thống Mỹ Lincon viết thư cho vua Rama IV [2; 144]. Bước sang đầu
thập niên 1900, chính phủ Mỹ cử những cố vấn Mỹ làm việc cho chính phủ
Thái Lan chủ yếu là tư vấn cho chính sách đối ngoại của nước này. Họ đã
đóng vai trò quan trọng giúp chính phủ Thái Lan đàm phán thắng lợi với các
cường quốc phương Tây và chính phủ ngoại quốc. Nhờ vậy, cho đến năm
1909, hầu hết các hiệp ước bất bình đẳng giữa Thái Lan (lúc đó gọi là Siam)
với các nước phương Tây bị bãi bỏ.
Bước sang thời kỳ Chiến tranh lạnh nhờ sự kế thừa những truyền thống
ngoại giao vốn có của hai nước mà quan hệ ngoại giao Mỹ - Thái càng được

thắt chặt.Thái Lan luôn sát cánh bên Mỹ trong các cuộc chiến tranh xâm lược
mà theo Mỹ đó là sự ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản lây lan. Đặt biệt là trong
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ, Thái Lan đã đóng vai trò xung
kích và là đồng minh quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á.

Phạm Duy Thịnh

Lớp K35 - CN Lịch sử


×