Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

So sánh tình hình chính trị và hoạt động kinh tế giữa đàng ngoài và đàng trong (thế kỷ XVI nửa đầu thế kỉ XVIII)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.75 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam trải qua thời kì dài của chế độ phong kiến tập quyền
với những triều đại nối tiếp nhau trong lịch sử. Sau một thời gian dài Bắc
thuộc, đất nước ta giành được độc lập và bước vào kỉ nguyên xây dựng nền
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, trải qua nhiều triều đại khác nhau
thì chế độ phong kiến ở Việt Nam dần được củng cố, kiện toàn. Nhưng cũng
có giai đoạn đất nước rơi vào tình trạng phân chia bởi sự cát cứ của các tập
đoàn phong kiến trong nước điển hình là Loạn mười hai sứ quân, Nam - Bắc
triều hay Trịnh - Nguyễn phân tranh đã gây nên tình trạng hỗn loạn, đau
thương và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của đất nước.
Đặc biệt, từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII là một giai đoạn đầy
biến động trong lịch sử Việt Nam, tình trạng nội chiến giữa các tập đoàn
phong kiến liên tiếp nổ ra, mâu thuẫn trong nước diễn ra gay gắt. Đất nước rơi
vào cuộc chiến tranh Nam- Bắc triều rồi đến Lê, Trịnh - Nguyễn làm cho
nước ta bị chia cắt thành 2 miền: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Chính tình
trạng chia cắt này đã tạo nên 2 chính quyền trong một quốc gia: chính quyền
Vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Cả hai
đều muốn xây dựng một nhà nước tập quyền vững mạnh để củng cố địa vị và
xây dựng vùng cát cứ của mình. Vì mục đích trên nên cả hai Đàng đã xây
dựng 2 nhà nước với thể chế chính trị và hoạt động kinh tế khác nhau nhưng
về cơ bản vẫn dựa trên một nền tảng nên có nhiều điểm tương đồng.
Ngoài ra đây còn là thời kỳ rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, đất
nước không chỉ chia cắt thành hai Đàng mà ở Đàng Ngoài còn tồn tại thể
chế Lưỡng đầu khá mới mẻ ở Việt Nam. Nó không giống với chế độ Vua Thái Thượng Hoàng thời nhà Trần với nền tảng là quan hệ huyết thống mà
là tình trạng cả hai họ cùng lên nắm quyền: vua Lê - chúa Trịnh, trong đó

1


vua mang tính chất hình thức là đại diện của đất nước nhưng không có thực


quyền Chúa mới là người điều hành đất nước, điều này tạo nên một cục diện
chính trị chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Do đó, khi nghiên cứu về đề tài
này cũng giúp làm rõ cách thức tổ chức chính trị thời kỳ này với những điểm
kế thừa so với các triều đại trước đó và những điểm chỉ có trong giai đoạn lịch
sử đặc biệt này.
Không chỉ có vậy, song song với việc xây dựng một chính quyền riêng
thì ở Đàng Trong các Chúa Nguyễn còn tiến hành Nam tiến khai phá vùng đất
Nam Bộ, giúp hình thành nên lãnh thổ nước ta như hiện nay. Do đó, nghiên
cứu đề tài này còn giúp chúng ta hiểu được công lao to lớn của cha ông trong
quá trình mở mang lãnh thổ để từ đó xây dựng và bảo vệ tổ quốc nhất là trong
thời điểm vấn đề lãnh thổ, biển đảo đang là mối quan tâm hàng đầu.
Vì những lý do trên em đã chọn đề tài “So sánh tình hình chính trị và
hoạt động kinh tế giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong (thế kỉ XVI - nửa đầu thế
kỉ XVIII)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về tình hình chính trị và hoạt động kinh tế của Đàng Ngoài
và Đàng Trong đã được nhiều tác giả, sử gia đề cập đến qua các bộ sử như:
"Đại Việt sử ký toàn thư" của Ngô Sĩ Liên, "Khâm định Việt sử thông giám
cương mục" của Quốc sử quán triều Nguyễn, "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý
Đôn, "Việt Nam sử lược" của Trần Trong Kim…
Vấn đề này còn được đề cập đến trong các tác phẩm như: "Lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỉ XIX" của Đào Duy Anh (1956), "Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam" do Phan Huy Lê (chủ biên) (1961), "Chế độ
chính trị Việt Nam thế kỉ XVII, XVIII" của Lê Kim Ngân (1973), "Xứ Đàng
Trong, lịch sử kinh tế- xã hội Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII" của Litana
(1999), "Việt sử xứ Đàng Trong" của Phan Khoang (2001), "Đại cương lịch

2



sử Việt Nam" (tập 1) do Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2007), "Giáo trình
lịch sử Việt Nam" (tập 3) do Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ
Xuân Đàn biên soạn (2008). Các tác phẩm lịch sử đại cương này hầu hết trình
bày về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, hình thức tuyển dụng quan lại,
quân đội và hoạt động kinh tế của hai Đàng chứ không tập trung sâu vào
nghiên cứu sự giống và khác nhau về tổ chức chính trị cũng như hoạt động
kinh tế của hai Đàng.
Ngoài ra, còn có một số bài báo, tạp chí nghiên cứu về tình hình thương
mại của Đàng Trong và Đàng Ngoài thời kì này như : Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 4 năm 2007 tác giả Nguyễn Văn Kim có bài viết “Vị trí Phố Hiến
và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI - XVII”. Trong
đó tác giả có đề cập đến vai trò trung gian của thương nhân Hoa kiều trong
việc duy trì hoạt động ngoại thương giữa Đại Việt và các nước trong khu vực.
Bài viết “Chính sách của chính quyền Đàng Trong Việt Nam đối với
người Hoa thế kỷ XVI - XVIII” của tác giả Dương Văn Huy trong tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 năm 2008 đã chỉ ra những chính sách khôn
khéo và mềm dẻo của các chúa Nguyễn đối với người Hoa di cư sang Đàng
Trong Việt Nam.
Qua các tác phẩm, bài nghiên cứu chuyên sâu hay đại cương của các sử
gia, đề tài là sự tổng hợp để phân tích, so sánh làm nổi bật những điểm giống
và khác nhau về chính trị cũng như kinh tế giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong
để thấy được chính sách của các tập đoàn phong kiến đối với mỗi Đàng và
những tác động của bên ngoài vào nước ta giai đoạn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài:
So sánh tình hình chính trị và hoạt động kinh tế Đàng Ngoài - Đàng
Trong một cách hệ thống, khách quan.

3



Rút ra kết luận, nhận xét về sự giống và khác nhau của hai Đàng.
Nhiệm vụ của đề tài:
Trình bày bối cảnh lịch sử và nguyên nhân dẫn tới cục diện phân chia
Đàng Ngoài - Đàng Trong.
So sánh tình hình chính trị giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
So sánh hoạt động kinh tế giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Tập trung nghiên cứu, so sánh về chính trị và hoạt động
kinh tế của hai Đàng trong khoảng thời gian từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ
XVIII - giai đoạn từ khi Nguyễn Hoàng vào dựng nghiệp ở Thuận Quảng đến
khi Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương, lấy Phú Xuân làm kinh đô, cải tổ bộ
máy quan lại trung ương thành một triều đình, sai đúc ấn "Quốc Vương".
Về không gian: Đề tài nghiên cứu tổ chức chính trị và hoạt động kinh tế
của cả hai Đàng trên phạm vi cả nước để thấy được sự giống và khác nhau
giữa hai Đàng. Đàng Ngoài là toàn bộ lãnh thổ phía Bắc còn Đàng Trong từ
sông Gianh đến phía Nam Thuận Quảng.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Đề tài có tham khảo, sử dụng nguồn tư liệu từ các bộ sử như "Khâm định
Việt sử thông giám cương mục" của Quốc sử quán triều Nguyễn, "Đại Việt sử
ký toàn thư" của Ngô Sĩ Liên, "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn…
Ngoài ra, đề tài còn tham khảo từ một số cuốn sách của các tác giả, nhà
sử học như "Lịch sử chế độ phong kiến" của Phan Huy Lê, "Việt sử xứ Đàng
Trong 1558- 1777" của Phan Quang, "Xứ Đàng Trong, lịch sử- kinh tế- xã hội
thế kỉ XVII, XVIII" của LiTaNa….
Và một số bài viết trong các tạp chí nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Đông
Nam Á, tạp chí Xưa và Nay…

4



Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính mà đề tài sử dụng là phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác
như: phương pháp tổng hợp và phân tích sử liệu, phương pháp so sánh…để
làm sáng tỏ vấn đề.
5. Đóng góp của khoá luận
Làm rõ được nhiệm vụ đề ra khoá luận có ý nghĩa khoa học:
So sánh, làm nổi bật những điểm giống và khác nhau về kinh tế, chính trị
giữa hai Đàng thế kỉ XVI - nửa đầu thế kỉ XVIII.
Làm rõ được các nội dung: tổ chức chính trị, hoạt động kinh tế, quan hệ
ngoại giao giữa hai Đàng, lãnh thổ Việt Nam trong quá trình mở mang bờ cõi.
Ý nghĩa thực tiễn: em mong muốn khóa luận sẽ trở thành nguồn tài liệu
tham khảo cho các bạn sinh viên khoa Lịch sử, đồng thời là nguồn tư liệu góp
phần vào phục vụ việc học tập và giảng dạy phần lịch sử cổ trung của Việt
Nam.
6. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khoá luận gồm có ba chương
chính sau:
Chương 1. Lược sử xứ Đàng Ngoài - Đàng Trong
Chương 2. So sánh tình hình chính trị Đàng Ngoài - Đàng Trong (thế kỉ
XVI - nửa đầu thế kỉ XVIII)
Chương 3. So sánh hoạt động kinh tế Đàng Ngoài- Đàng Trong (thế kỉ
XVI - nửa đầu thế kỉ XVIII)

5


Chương 1

LƯỢC SỬ XỨ ĐÀNG NGOÀI - ĐÀNG TRONG
1.1. NỘI CHIẾN NAM - BẮC TRIỀU VÀ CHIẾN TRANH TRỊNH NGUYỄN
1.1.1. Nội chiến Nam - Bắc triều
Trải qua hơn 20 năm đấu tranh chống quân Minh xâm lược, Lê Lợi đã
đánh bại quân Minh lên ngôi vua lập nên nhà Lê Sơ, một triều đại phong kiến
vững mạnh trong lịch sử. Và thế kỉ XV là thời kì phát triển và ổn định của nhà
Lê Sơ, đặc biệt là dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), kinh tế phát
triển, chính trị và xã hội ổn định đã đưa vị thế của nước Đại Việt lên cao.
Nhưng từ sau thời Lê Thánh Tông, sang thế kỉ XVI chính trị, xã hội nhà Lê
lâm vào khủng hoảng lý do là các vua kế vị đều nhỏ tuổi không đủ cả đức lẫn
tài để lãnh đạo đất nước theo đà đi lên.
Từ vua Tương Dực tới vua Chiêu Tông và Cung Hoàng, vua chúa thì sa
đoạ, các quan lại thì tha hồ tranh giành quyền hành. Có thể nói những năm
đầu của thế kỉ XVI cùng với sự suy yếu của nhà nước phong kiến Lê Sơ, xã
hội Đại Việt cũng đang ở trong tình trạng rối loạn, chính quyền nhà Lê đã
không làm nổi công việc quản lý đất nước, vua thì ham chơi, trung thần người
thì mất người thì cáo quan về quê, không ai can ngăn được vua và giúp vua
quản lý đất nước cho nên giặc giã nổi lên khắp nơi. Xứ Kinh Bắc có Thân
Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng. Sơn Tây có Trần Tuân, Nguyễn Nghiêm. Lê Hy,
Trịnh Hưng ở Nghệ An… Tuy giặc giã nhiều như vậy nhưng vua cũng không
chịu sửa sang nghe lời can gián của triều thần. Và trong bối cảnh đó, đã xuất
hiện một thế lực mới trong triều nhà Lê mà cầm đầu là Mạc Đăng Dung.
Từ sau khi Mạc Đăng Dung trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn
Sư rồi lại hàng được bọn Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính về làm vây cánh
cho mình thì quyền bính rơi cả vào tay Mạc Đăng Dung, các quan có vì nhà

6


vua mà can gián thì bị Mạc Đăng Dung giết đi, các quan khác thấy vậy cũng

bỏ vua mà phò tá Mạc Đăng Dung. Sau khi thâu tóm mọi quyền hành trong
triều, đến năm 1527 nhận thấy sự bất lực của nhà Lê, Mạc Đăng Dung đã bức
vua Lê phải nhường ngôi cho mình lập ra triều Mạc.
Nhà Mạc tuy đã làm vua nhưng vẫn sợ lòng người hướng về nhà Lê cho
nên công việc gì cũng theo phép của nhà Lê cả, còn phong thưởng và trọng
dụng những quan lại cựu thần nhà Lê để dụ họ về với mình tuy nhiên các
quan lại người thì từ chối không ra làm quan, người thì thay tên đổi họ không
mấy người chịu phục.
Sau khi phế bỏ nhà Lê lập ra nhà Mạc thì một làn sóng đấu tranh chống
lại và không hợp tác với nhà nhà Mạc vẫn diễn ra, đặc biệt là những tôn thất
và cựu thần nhà Lê như Bích Khê Hầu Lê Công Uyên, hai anh em Trịnh
Ngung, Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê, Lê Ý là con công chúa An Thái…
Nhưng nếu như các cuộc nổi dậy chống lại nhà Mạc mấy năm đầu còn diễn ra
lẻ tẻ thì những năm sau đó, với Nguyễn Kim thì sự nghiệp trung hưng nhà Lê
bắt đầu được khởi dựng và từ đó dẫn tới cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều.
Nguyễn Kim là con trai Nguyễn Hoằng Dụ - một công thần thời Lê,
Nguyễn Kim từng giữ chức Hữu vệ Điện tiền tướng quân, tước An Thanh
Hầu. Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, năm 1529 Nguyễn Kim đem
theo một số người lánh sang đất Lào, được vua Lào là Sạ Đẩu cho ở đất Sầm
Châu để thu phục, nuôi dưỡng quân lính và tìm con cháu họ Lê để tính kế lâu
dài. Năm 1533, trên đất Ai Lao Nguyễn Kim đã tìm được Lê Duy Ninh là con
trưởng của vua Lê Chiêu Tông lên làm vua, tức Lê Trang Tông, đặt niên hiệu
là Nguyên Hoà, Nguyễn Kim được phong là Thái sư Hưng quốc công bắt đầu
sự nghiệp trung hưng của nhà Lê. Sau đó, Nguyễn Kim đem quân chiếm giữ
một số nơi ở Thanh Hoá, nghe tin này nhiều người ở các nơi đã kéo về hưởng
ứng trong số đó có Trịnh Kiểm - một người có võ nghệ tài giỏi được Nguyễn

7



Kim gả con gái cho. Từ cuối năm 1540, Nguyễn Kim tiến quân vào Nghệ An
rồi tiến ra Thanh Hoá nhiều lần đánh bại quân Mạc. Cuối năm 1543, vua Lê
Trang Tông đưa quân chiếm lại thành Tây Giai, Tổng trấn Thanh Hoá của nhà
Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng. Đến năm 1545, Nguyễn Kim đem quân
tấn công ra Bắc, đến Yên Mô (Ninh Bình) thì bị hàng tướng nhà Mạc là
Dương Chấp Nhất đầu độc chết, quân Nguyễn Kim tạm thời bỏ dở tấn công
lui về giữ Thanh Hoá, quyền hành được giao cho Trịnh Kiểm, được vua Lê
phong làm Đô tướng quân, Thái sư Lạng quốc công nắm giữ binh quyền.
Năm sau Trịnh Kiểm cho xây dựng thành luỹ, cung điện xếp đặt quan lại như
một triều đình, nhà Lê Trung Hưng lúc này cũng tìm đủ mọi cách để thu phục
những nho sĩ đi theo mình, cùng với một số biện pháp khác như chiêu mộ dân
lưu tán, đo đạc lại ruộng đất, chỉnh đốn thuế má… để quản lý toàn bộ vùng
đất Thanh - Nghệ, đồng thời huy động sức người, sức của phục vụ cuộc chiến
tranh với nhà Mạc.
Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều hay cuộc chiến tranh giữa nhà Lê Trịnh với nhà Mạc, thực chất diễn ra từ năm 1533 và kết thúc vào năm 1592.
Căn cứ chính của nhà Lê - Trịnh là vùng đất Thanh - Nghệ còn căn cứ chính
của nhà Mạc là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong 60 năm đã diễn ra gần 40 trận
đánh lớn nhỏ, có thể chia làm các giai đoạn chính:
Từ năm 1533 - 1569:
Trong giai đoạn này từ khi triều Lê Trung Hưng được thành lập và xây
dựng căn cứ chính ở vùng đất Thanh - Nghệ, lực lượng quân Nam triều đã
nhiều lần tấn công ra Bắc, có những lần Trịnh Kiểm tấn công ra cả Hưng Hoá,
Kinh Bắc, Hải Dương và uy hiếp kinh đô Thăng Long. Còn đối với Bắc triều,
nhà Mạc cũng mở những cuộc tấn công lớn vào vùng căn cứ địa của Lê Trịnh ở Thanh - Nghệ.

8


Ở giai đoạn này, nhà Mạc đã nhiều lần đem quân đánh vào Thanh Hoá
nhưng hầu hết đều bị thua trở về còn nhà Lê - Trịnh cũng đem quân ra Bắc

nhiều lần nhưng cũng không lần nào toàn thắng, hai bên cứ giữ nhau mãi nên
nhà Lê tuy đã trung hưng nhưng giang sơn vẫn chưa về một mối còn nhà Mạc
có làm vua thì cũng chỉ làm vua miền Bắc mà thôi. Việc tranh chiến vẫn diễn
ra như trước, khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn Nam, khi thì Mạc Kính Điển
vào đánh Thanh Hoá không bên nào được hẳn.
Giai đoạn từ 1570- 1583:
Đây là giai đoạn quân Bắc triều phản công, quân Nam triều lui về phòng
thủ. Năm 1570, Trịnh Kiểm ốm chết đã gây lên cuộc tranh giành quyền lực
giữa người con trưởng là Trịnh Cối và con thứ là Trịnh Tùng. Nhân cơ hội
này, nhà Mạc đã cử Mạc Kính Điển và Nguyễn Quyện mở nhiều đợt tấn công
vào vùng đất Thanh - Nghệ của nhà Lê - Trịnh.
Tháng 10 năm 1571, Trịnh Tùng cử hai tướng là Trịnh Mô và Phan Công
Tích đem quân vào ứng cứu Nghệ An buộc quân Mạc phải rút lui. Tháng 8
năm 1572 Mạc Kính Điển lại đem quân đánh vào Thanh Hoá và Nghệ An.
Các huyện ở phía nam sông Lam bị quân Mạc tàn phá cướp bóc, nhân dân
phiêu tán, làng xóm tan hoang, tiêu điều.
Liên tiếp các năm sau đó từ 1573 đến 1581 các tướng Mạc đều mang
quân tấn công vào vùng Thanh - Nghệ của Nam triều. Nhưng sau các đợt tấn
công, quân Mạc đều rút lui về phía Bắc còn quân Lê - Trịnh thì phòng thủ
chặt chẽ và phản công tại chỗ không tiến quân ra Bắc đánh nhà Mạc.
Giai đoạn từ 1584 - 1592
Năm 1580, Mạc Kính Điển một người đã từng giữ binh quyền của nhà
Mạc hơn 20 năm chết. Mạc Mậu Hợp đưa Mạc Đôn Nhượng lên thay Kính
Điển giữ chức "Trung Doanh Tổng Suý" thống lĩnh binh quyền. Nhưng lúc
này nhà Mạc đã thể hiện sự suy yếu cả về chính trị lẫn quân sự.

9


Sau lần tấn công của quân Mạc do tướng Mạc Đôn Nhượng và Nguyễn

Quyện tấn công vào Quảng Xương (Thanh Hoá) thất bại vào năm 1581 và
năm 1583, nhà Mạc đã phải từ bỏ ý định tấn công vào vùng đất Thanh- Nghệ
của nhà Lê- Trịnh. Năm 1583 Trịnh Tùng xuất quân đánh ra các huyện Yên
Mô, Yên Khang thu thóc lúa dự trữ quân lương rồi kéo quân về. Năm sau,
tháng Giêng năm 1584, Trịnh Tùng lại điều quân đánh vào phủ Trường Yên
và các xứ Thiên Quan, Phụng Hoá thu cướp lương thực rồi rút quân về.
Từ năm 1585 trở đi, quân Nam triều tổ chức nhiều đợt tấn công ra Bắc,
đánh thắng quân Mạc nhiều trận, quân Mạc bị chết rất nhiều. Đặc biệt trận
đánh nhau giữa quân Mạc và quân Trịnh vào tháng 11 năm 1587 "Quân Trịnh
hăng hái đánh phá, quân Mạc không đương nổi, bỏ chạy trốn, đạo quân mai
phục của nhà Mạc cũng phải bỏ chạy, đều tranh nhau qua sông bị chết đuối
vô kể. Quan quân chém được mấy trăm đầu quân địch rồi đánh đuổi theo đến
nửa ngày mới dừng quân" [5, tr 346- 347]. Phía Bắc triều do lương thực ngày
một suy yếu nên từ thế tấn công đã quay về chiến lược củng cố hệ thống
phòng ngự, lập phòng tuyến đắp luỹ xây thành.
Năm 1589, nhà Mạc cử đại binh do Mạc Đôn Nhượng chỉ huy để đánh
một trận quyết liệt với quân Lê - Trịnh. Trịnh Tùng dùng kế giả lui quân, dẫn
quân địch vào chỗ hiểm ở núi Tam Điệp, huyện Yên Mô (Ninh Bình). Trong
trận này quân Mạc thua to, hơn 1000 quân bị chém đầu, hơn 600 quân bị bắt
sống. Mạc Đôn Nhượng phải thu thập tàn quân chạy về Đông Kinh, còn Trịnh
Tùng lui quân về Thanh Hoá, sau trận thất bại này quân Mạc không còn khả
năng tấn công vào vùng đất Thanh - Nghệ, đồng thời cũng là thời cơ để quân
Trịnh mở cuộc tấn công quyết định ra Bắc.
Tháng Chạp năm Tân Mão (đầu năm 1592), Tiết chế Trịnh Tùng quyết
định điều động 6 vạn quân chia thành 5 đạo tấn công ra Bắc, xuất phát từ Tây
Đô men theo đường núi phía Tây qua Ninh Bình, Hoà Bình đến Hà Tây - Hà

10



Nội ngày nay. Về phía Bắc triều, được tin này Mạc Mậu Hợp cũng muốn cử
binh mã đánh một trận quyết liệt để định được thua bèn đốc thúc điều động
binh mã trong bốn trấn và năm phủ được mười vạn quân. Ngày 27 tháng Chạp
năm Tân Mão (đầu năm 1592), Mạc Mậu Hợp cùng các tướng Mạc Ngọc
Liễn, Nguyễn Quyện đến Phấn Thượng (Tùng Thiện, Hà Tây) kịch chiến với
quân Trịnh. Trong trận này quân Mạc thua to "bị chém hơn một vạn, máu
chảy khắp nội, thây chất thành non, quân Trịnh được khí giới và ngựa nhiều
không kể xiết" [5, tr 353].
Ngày năm tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1592), Trịnh Tùng chỉ huy đại
quân vượt sông tổng công kích Thăng Long. Mạc Mậu Hợp bỏ thành vượt
sông Nhị đến bến Bồ Đề. Ngày sáu tháng Giêng cử các tướng tiến vào thành
theo ba cửa ô: Cầu Dừa, Cầu Muống, Cầu Dền. Trận chiến diễn ra tại Cầu
Dền, tướng Mạc là Nguyễn Quyện đem đại binh và súng lớn trấn giữ, chống
trả quân Trịnh do Hoàng Đình Ái chỉ huy. Trịnh Tùng mang quân tiếp ứng,
quân Mạc chết hàng nghìn, Nguyễn Quyện bị bắt sống, cung điện, nhà cửa,
kinh thành bị cháy rụi. Làm chủ kinh thành, Trịnh Tùng cho binh sĩ san bằng
luỹ đất Đại La, sau hai tháng tiến hành bình định Trịnh Tùng rút quân về
Thanh Hoá.
Vua Mạc trở lại Thăng Long nhưng lúc này nhà Mạc đã nghiêng ngả,
quân sĩ và lòng người ly tán, bỏ sang theo Lê - Trịnh ngày một đông. Cuối
năm 1592, Trịnh Tùng lại đem đại quân đánh ra Bắc, tiến quân vào thành
Thăng Long, Mạc Mậu Hợp trốn chạy về vùng Kim Thành (Hải Dương),
quân Trịnh truy quét bắt được Mạc Mậu Hợp đem về kinh hành hình. Cuộc
nội chiến Nam - Bắc triều kết thúc cùng với sự sụp đổ của nhà Mạc. Ngày 16
tháng 4 năm Quý Tỵ (1593) vua Lê chính thức ngự lên chính điện ở Thăng
Long. Tuy nhiên, sau khi bị đánh bật ra khỏi Thăng Long, nhà Mạc còn tiếp
tục chiếm cứ các vùng Hải Dương, An Quảng (Quảng Yên), sau đó rút lên cố

11



thủ ở vùng núi Cao Bằng. Đồng thời với việc chiếm cứ nhà Mạc cho xây
dựng thành quách ở một số nơi như Hải Dương, Quảng Yên, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Chiếm cứ và hoạt động ở vùng biên giới giáp Trung Quốc, nhà Mạc
thường dựa vào thế lực nhà Minh để gây sức ép với nhà Lê - Trịnh. Nhưng từ
khi nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh lên thay thì chỗ dựa của nhà Mạc không còn.
Năm 1677 nhà Lê - Trịnh cử quân tiến đánh Cao Bằng, Mạc Kính Vũ phải
trốn sang Trung Quốc bị nhà Thanh bắt giữ, sau này nhà Thanh nộp cho nhà
Lê- Trịnh, tàn dư của nhà Mạc đến đây hoàn toàn chấm dứt.
Hơn một nửa thế kỉ diễn ra nội chiến Nam - Bắc triều đã để lại hậu quả
nghiêm trọng cho đất nước, chiến tranh liên miên đã ảnh hưởng lớn đến sản
xuất nông nghiệp. Đồng bằng Thanh Nghệ nhiều năm là bãi chiến trường làm
cho đồng ruộng bị bỏ hoang không người cày cấy, hàng vạn quân lính bị xô
đẩy vào chiến tranh và bị chết chóc làm hao tổn đến lực lượng sản xuất chính
của xã hội. Ngoài ra, do chiến tranh nhà Mạc không thể chăm lo đến kinh tế,
ổn định chính trị cũng như xã hội đã làm cho thiên tai, đói kém hoành hành,
điều này tác động xấu đến mọi mặt kinh tế, tư tưởng, văn hoá của Đại Việt
đương thời.
1.1.2. Trịnh - Nguyễn phân tranh
Ngay từ trong cuộc nội chiến Nam - Bắc triều, sự chia rẽ và mâu thuẫn
trong nội bộ Nam triều đã nảy sinh. Sau khi Nguyễn Kim chết, các con đều
nhỏ tuổi nên quyền hành đều rơi vào tay Trịnh Kiểm, để thâu tóm quyền hành
vào tay mình Trịnh Kiểm đã tìm mọi cách loại bỏ thế lực nhà họ Nguyễn.
Trịnh Kiểm đã lập mưu giết hại con trưởng của Nguyễn Kim là Tả tướng
Nguyễn Uông, con thứ là Nguyễn Hoàng thấy vậy đã đi hỏi Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm đồng thời nhờ chị gái là Ngọc Bảo tác động đến Trịnh
Kiểm để được vào trấn thủ Thuận Hoá. Dưới thời Lê Thánh Tông, Thuận Hoá

12



là một trong mười ba đạo thừa tuyên gồm vùng đất từ phía nam đèo Ngang
đến đèo Hải Vân. Mặc dù nhà Lê vẫn đặt quan cai trị nhưng cho đến thế kỉ
XVI thì vẫn là vùng "ô châu ác địa", dân cư thưa thớt và kinh tế kém phát
triển. Thêm vào đó "lòng dân còn tráo trở" thậm chí có người còn vượt biển
đi theo họ Mạc, do vậy cử Nguyễn Hoàng vào trong đất này cũng là giúp vua
Lê trấn trị và vỗ về dân chúng.
Tháng 10 năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hoá, những người
bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoá
đều vui vẻ đi theo. Những năm sau, vùng Thanh Hoá, Nghệ An bị lụt lội đói
kém nhiều người đã theo nhau vào Thuận Hoá để sinh sống. Lúc mới vào,
Nguyễn Hoàng dựng dinh ở xã Ái Tử (nay là Thiệu Phong, Quảng Trị), quan
lại tam ty thì vẫn do vua Lê cắt đặt. Từ năm 1570, sau khi Tổng binh Quảng
Nam là Nguyễn Bá Quýnh theo lệnh của vua Lê vào trấn thủ Nghệ An thì
Nguyễn Hoàng được giao trấn thủ ở cả hai xứ Thuận Hoá. Với nhiệm vụ trấn
thủ của mình, Nguyễn Hoàng luôn giữ thái độ mềm mỏng, thần phục vua Lê,
hàng năm nộp thuế đầy đủ, cùng với nhà Lê - Trịnh trừng phạt và đánh đuổi
tàn quân nhà Mạc giữ yên đất Thuận Quảng. Nhưng mặt khác Nguyễn Hoàng
vẫn lo củng cố quyền thống trị của mình ở đất này, đồng thời phát triển kinh
tế để thoát ly dần sự lệ thuộc vào nhà Lê - Trịnh. Những năm sau đó, Nguyễn
Hoàng vẫn mang quân ra giúp vua Lê đánh dẹp tàn dư của nhà Mạc ở phía
Bắc và làm tròn nhiệm vụ của viên quan trấn thủ, hàng năm vẫn nộp thuế cho
nhà Lê - Trịnh đầy đủ. Trong khi đó, họ Trịnh lại từng bước tiếm quyền vua
Lê, từ khi Trịnh Tùng dẹp được nhà Mạc thu giang sơn về cho nhà Lê thì
ngày một kiêu căng, nắm hết chính trị hà hiếp vua Lê. Năm 1599 Trịnh Tùng
xưng vương, xây dựng vương phủ thâu tóm mọi quyền hành trong tay và coi
vua Lê chỉ là bù nhìn.
13



Tháng 5 năm 1600 Nguyễn Hoàng từ Đông Đô trở về nhưng vì có công
đi đánh dẹp phản loạn là Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê nên bị họ
Trịnh ghét, Nguyễn Hoàng bèn đem tướng lĩnh bản bộ giả vờ đi đánh giặc rồi
theo đường biển trở về Thuận Hoá, về đến nơi rồi sợ họ Trịnh nghi ngờ bèn
đem gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng là con trai Trịnh Tùng. Từ đó
Nguyễn Hoàng không ra Đông Đô nữa, thể hiện ý đồ xây dựng một chính
quyền riêng cho dòng họ để tách khỏi chính quyền nhà Lê - Trịnh.
Tháng 5 năm 1613, trước khi mất Nguyễn Hoàng đã để lại lời dặn với
con cháu và cận thần: "Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang (Hoành
Sơn) và sông Giang (Linh Giang) hiểm trở, phía Nam ở núi Hải Vân và núi
Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cát muối, thật là
đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh chống chọi với
họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Vì bằng thế lực không địch
được thì cố giữ vững đất đai chờ cơ hội chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta" [12,
tr 37].
Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên nối nghiệp thay cha làm trấn thủ ở
Thuận Hoá ở tuổi 51, được vua Lê gia hàm Thái bảo tước Quận công. Ông đã
cho sửa thành luỹ, đặt quan ải, vỗ về nhân dân trong ngoài ai cũng vui phục.
Tuy nhiên, ông cũng tìm cách trì hoãn việc nộp thuế cống cho triều Lê Trịnh. Năm 1620, Trịnh Tráng cử Đô đốc Nguyễn Khải đem 5000 quân đóng
ở cửa biển Nhật Lệ định phối hợp với Chưởng cơ Hiệp và Trạch là hai em của
Phúc Nguyên mưu nổi loạn nhưng việc không thành Nguyễn Khải phải rút
quân, từ đấy Phúc Nguyên không nộp thuế nữa. Mâu thuẫn giữa họ Nguyễn
và triều Lê - Trịnh trở nên gay gắt. Năm 1627, Trịnh Tráng muốn cử quân
xâm lấn đất Thuận Quảng nên sai người mang sắc chỉ của vua Lê vào đòi nộp
voi và thuyền đi biển để dùng vào lệ cống nhà Minh nhưng Nguyễn Phúc
Nguyên đã khước từ. Tháng 3 năm 1627, Trịnh Tráng đưa (hộ tống) vua Lê đi

14



mượn tiếng xem xét địa phương đều tiến và cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn
bùng nổ. Về phía quân Nguyễn, Nguyễn Phúc Nguyên đã huy động các lực
lượng bộ binh và thuỷ binh ra chống cự, thấy quân Lê - Trịnh thế mạnh quân
Nguyễn đã cho tượng binh đánh chặn ngang làm cho quân Trịnh tan vỡ, Trịnh
Tráng buộc phải rút quân về.
Tháng 12 năm 1633, Trịnh Tráng tự thống lĩnh đại quân thuỷ bộ thẳng
tới cửa biển Nhật Lệ, Nguyễn Phúc Nguyên sai đại tướng Nguyễn Hữu Thắng
và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đem quân chống cự, quân Nguyễn còn đóng
cọc gỗ chắn ở cửa biển, đắp luỹ Trường Dục để bảo vệ luỹ chính. Sau hơn
một tuần không vượt qua được hệ thống chiến luỹ quân Trịnh chán nản, quân
Nguyễn ùa ra đánh quân Trịnh tan vỡ chết quá nửa, Trịnh Tráng phải rút quân
về. Tháng 2 năm 1648 thuỷ binh quân Trịnh lại xâm phạm cửa biển Nhật Lệ,
quân Nguyễn vẫn cố thủ ở luỹ Trường Dục, đang đêm dùng tượng binh đánh
bất ngờ vào doanh trại quân Trịnh. Lần này quân Trịnh bị bắt sống và tiêu diệt
đến vài ba vạn, đây là trận thắng lớn nhất của quân Nguyễn kể từ khi nổ ra
chiến tranh với Lê - Trịnh.
Năm 1655, nhân việc quân Trịnh ở Bắc Bố Chính xâm lấn cướp bóc,
chúa Nguyễn quyết định đem quân vượt sông Gianh đánh lên Nghệ An chiếm
được bảy huyện nhưng đến năm 1660 bị đánh lui phải rút về. Năm 1661, chúa
Trịnh lại cho quân đánh vào nhưng nhà Nguyễn dựa vào thành luỹ hiểm trở
để cầm chân Trịnh, sau mấy tháng quân Trịnh đành rút lui.
Thời gian sau đó, vì phải lo đối phó với nhà Mạc nên tới 1672 chúa
Trịnh mới lại đem quân đánh vào nhưng sau nhiều trận quyết liệt mà không
phân được thắng bại đành phải rút quân về Bắc. Nhận thấy tình hình ngày
càng khó khăn dù có đánh nhau cũng không thay đổi được cục diện chiến
tranh nên hai bên đành phải giảng hoà lấy sông Gianh làm giới tuyến. Chiến
tranh Lê Trịnh - Nguyễn đã biến vùng đất từ mạn Nam sông Lam (Nghệ An)

15



đến Bắc Quảng Bình (Bắc sông Gianh) thành chiến trường chết chóc đau
thương, đói khổ liên tiếp đổ xuống đầu người dân.
Như vậy, kể từ năm Đinh Mão (1627) đời vua Thần Tông lần thứ nhất
đến năm Nhâm Tý (1672) đời vua Gia Tông, trong vòng 45 năm chiến tranh
với bảy lần đánh nhau, quân Lê - Trịnh tuy mạnh hơn nhưng do phải hành
quân xa, vận chuyển lương thực khó khăn, thêm vào đó thời gian này nhà Lê Trịnh còn đang phải lo đối phó với nhà Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên
Quang. Trong khi đó, họ Nguyễn tuy yếu hơn nhưng lại chiến đấu trên đất của
mình, có thuận lợi về địa hình nên có thể chiến đấu lâu dài với quân Trịnh.
Chế độ phong kiến phát triển trên một lãnh thổ có địa hình phức tạp,
kinh tế hàng hoá chưa phát triển, phương tiện giao thông thiếu thốn… đã tạo
điều kiện cho việc hình thành các thế lực phong kiến địa phương. Chính
quyền trung ương suy yếu, xu thế phân tán gia tăng nên sự hình thành của
Nam triều, Bắc triều và tiếp đó là Đàng Ngoài - Đàng Trong trở thành tất yếu,
từ đó chiến tranh phong kiến nổ ra là điều khó tránh khỏi, đất nước chuyển
sang thời kì chia cắt.
1.2. CỤC DIỆN ĐÀNG NGOÀI- ĐÀNG TRONG
Lấy sông Gianh làm giới tuyến, vùng đất từ sông Gianh trở về Bắc (Bắc
Hà) nằm dưới quyền cai trị của chính quyền Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài.
Vùng đất từ sông Gianh trở vào Nam (Nam Hà) được gọi là Đàng Trong của
chính quyền chúa Nguyễn. Tuy vậy, theo quan niệm của nhân dân hai Đàng
thì đây chỉ là hai khu vực của quốc gia Đại Việt.
Trong đó, Đàng Ngoài chính là lãnh thổ của nước Đại Việt được thiết lập
từ thời Văn Lang - Âu Lạc, trải qua các triều đại phong kiến nối tiếp nhau đã
trở thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực, nhất là khi vua Lý Công
Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La - Thăng Long thì nơi đây trở thành trung tâm
chính trị- kinh tế, văn hoá của cả nước. Trải qua các triều đại thì chế độ phong

16



kiến ngày càng được củng cố và phát triển, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh
Tông. Nhưng từ đó về sau, chính quyền trung ương ngày càng suy yếu, vua
quan sa đoạ, dân chúng đói khổ, các cuộc chiến tranh của các tập đoàn phong
kiến trong nước đã diễn ra, ban đầu là Nam - Bắc triều sau là chiến tranh
Trịnh - Nguyễn, đã dẫn tới việc đất nước bị chia cắt thành hai Đàng, tên gọi
Đàng Ngoài - Đàng Trong xuất hiện từ đó, đất nước bị chia cắt, chiến tranh
xảy ra liên miên đã ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của nước ta thời kì này.
Còn Đàng Trong thuộc quyền của chúa Nguyễn mà khởi đầu là vùng đất
Thuận Quảng. Vùng đất này đã được kinh dinh từ thời Lý - Trần và Lê Sơ
nhưng kinh tế còn lạc hậu, sự liên lạc kinh tế với Đàng Ngoài bằng đường bộ
rất khó khăn còn đường biển vì nhiều nguy hiểm nên cũng thưa thớt. Tình
trạng ấy là điều kiện để cho miền Thuận Quảng dần dần phát triển thành một
khu vực kinh tế độc lập. Từ khi vào trấn thủ Thuận Quảng thì các chúa
Nguyễn đã thực hiện nhiều công việc để biến khu vực này thành nơi cát cứ
của mình. Ban đầu, xứ Thuận Hoá được khai thác nhiều hơn xứ Quảng Nam,
theo sổ kê năm 1655 thì trong 9 huyện châu xứ ấy có 862 làng với số đinh là
126.859 người và số ruộng 153.181 mẫu, các thôn ở vùng đất cũ thì họp thành
tổng lệ thuộc huyện, những làng mới mở ở miền núi và duyên hải cũng họp
thành thuộc giống như tổng ở đồng bằng. Xứ Quảng Nam thì có 25 huyện và
1 châu, số ruộng công tư nhiều hơn xứ Thuận Hoá song phần nhiều là đất mới
mở nên họp thành thuộc cũng nhiều hơn. Còn đối với các bộ tộc thiểu số ở
dọc theo dải Trường Sơn về phía Tây xứ Thuận Hoá và Quảng Nam thì các
chúa Nguyễn cho lệ thuộc vào các phủ huyện và họp thành các sách ở xung
quanh các cửa nguồn, đối với các bộ lạc ở Tây Nguyên cũng vậy, dân ở đây
cũng giữ lệ triều cống đối với chúa Nguyễn.
Các vùng đất mới từ Quảng Nam đến Phú Yên thì nhà Nguyễn khai thác
theo phương chủ yếu là di dân miền Bắc đến khẩn hoang, lập làng sinh sống.


17


Nhà Nguyễn còn cho phép các nhà giàu được đem gia nhân và tôi tớ vào khai
thác được bao nhiêu ruộng cho lấy làm của riêng để nộp thuế. Năm 1753,
chúa Nguyễn đi chinh phục thêm đất Chân Lạp cho binh sĩ khẩn hoang miền
Gia Định để làm quan đồn điền và quan điền trang.
Trong hai thế kỉ, họ Nguyễn dần dần khai thác miền Thuận Quảng (từ
Hoành Sơn đến Hà Tiên) thành một khu vực kinh tế độc lập với một tầng lớp
quý tộc địa chủ giàu có để làm cơ sở cho sự xây dựng một nhà nước phong
kiến độc lập, đương đầu với nhà nước phong kiến Đàng Ngoài.
Tiểu kết chương 1
Từ thế kỉ XVI, chính quyền trung ương suy yếu là cơ hội để cho các thế lực
phong kiến địa phương nổi dậy. Sự tiếm quyền của Mạc Đăng Dung đối với vua
Lê, lập ra nhà Mạc đã mở đầu cho thời kỳ nội chiến liên miên trong lịch sử dân tộc.
Nhà Lê được trung hưng đã hình thành nên cục diện Nam - Bắc triều kéo dài
trong nhiều năm gây bao đau thương cho nhân dân. Về sau, Nam triều đã đánh bại
Bắc triều khôi phục lại cơ nghiệp nhưng trong khi cuộc nội chiến vẫn đang diễn ra
thì Nam triều cũng xảy ra mâu thuẫn. Sau khi Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên
nắm quyền thay đã thâu tóm mọi quyền hành, trừ khử con cái của Nguyễn Kim.
Trước tình hình đó, Nguyễn Hoàng là con thứ của Nguyễn Kim đã nhờ chị gái
Ngọc Bảo là vợ của Trịnh Kiểm xin cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa vừa để bảo
toàn tính mạng vừa để tính kế xây dựng nghiệp lớn.
Việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa với ý đồ xây dựng một
chính quyền riêng tồn tại độc lập với nhà Lê đã dẫn tới cuộc chiến tranh kéo
dài gần nửa thế kỉ. Sau nhiều lần giao chiến không phân thắng bại, cả hai bên
đã đồng ý lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đất nước làm hai: từ sông Gianh
trở về Bắc (Bắc Hà) nằm dưới quyền cai trị nhà Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài,
từ sông Gianh trở về Nam (Nam Hà) thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn
gọi là Đàng Trong, tên gọi Đàng Ngoài - Đàng Trong xuất hiện từ đây.


18


Chương 2
SO SÁNH TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ ĐÀNG NGOÀI - ĐÀNG TRONG
(THẾ KỈ XVI - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XVIII)
2.1. GIỐNG NHAU
Mặc dù bị chia cắt thành hai Đàng nhưng chỉ là hai khu vực trên lãnh thổ
nước ta, ban đầu khi mới tách riêng thành lập chính quyền chúa Nguyễn vẫn
giữ lại hệ thống tổ chức chính quyền đã có từ trước đó của triều Lê mãi sau
này mới thành lập một chính quyền giống như Đàng Ngoài. Do đó, chính
quyền của cả hai Đàng vẫn tồn tại nhiều điểm giống nhau về cách thức tổ
chức chính quyền.
2.1.1. Mục đích xây dựng bộ máy trung ương tập quyền
Chế độ phong kiến ra đời và ngày càng được kiện toàn, củng cố cùng với
sự phát triển của các triều đại phong kiến. Tất cả các triều đại đều có chung
một mục đích khi xây dựng bộ máy nhà nước là giúp ổn định tình hình trong
nước, duy trì trật tự xã hội, lãnh đạo nhân dân trong cuộc chiến đấu chống
giặc ngoại xâm và thiên tai, địch hoạ. Càng về sau, tính chất tập quyền của
các triều đại phong kiến ngày càng cao, mức độ chuyên chế càng được củng
cố, ngoài các mục đích trên thì nhà nước còn bảo vệ quyền lợi, địa vị của giai
cấp thống trị.
Bước sang thế kỉ XVI, đất nước rơi vào tình trạng chiến tranh giữa các
tập đoàn phong kiến dẫn đến cục diện Đàng Ngoài - Đàng Trong, cùng với đó
là hai tập đoàn phong kiến cùng thống trị đất nước với các chính sách khác
nhau trong đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, cả hai đều có chung một mục đích
khi xây dựng bộ máy trung ương tập quyền.
Đối với Đàng Ngoài, bên cạnh việc xây dựng và kế thừa tổ chức nhà
nước đã có từ thời Lê Sơ trước đó thì các chúa Trịnh còn kiện toàn lại bộ máy

nhà nước theo thể chế Lưỡng đầu nhằm củng cố địa vị thống trị của họ Trịnh

19


ở Đàng Ngoài, không chỉ xây dựng nhà nước vững mạnh thực hiện nhiệm vụ
đối nội, đối ngoại mà nó còn giúp họ Trịnh tiến hành các cuộc chiến tranh với
các chúa Nguyễn ở Đàng Trong suốt thời gian dài.
Còn Đàng Trong, xây dựng bộ máy nhà nước giúp chúa Nguyễn thực
hiện mưu đồ cát cứ của mình, một chính quyền vững mạnh sẽ giúp họ
Nguyễn củng cố địa vị của mình ở xứ Thuận Quảng, tạo điều kiện cho công
cuộc khai hoang sau này, không những thế nó còn tạo nên sức mạnh để họ
Nguyễn chống lại những cuộc tấn công của nhà Lê - Trịnh hình thành nên
một nhà nước độc lập ở Đàng Trong giai đoạn sau này.
Dù nhiệm vụ ban đầu có thể có những điểm khác nhau nhưng mục đích
chính của cả chính quyền Lê - Trịnh lẫn chúa Nguyễn là nhằm xây dựng một
chính quyền riêng cho dòng tộc mình, bảo vệ lợi ích của các tập đoàn phong
kiến đồng thời bóc lột, đàn áp sự nổi dậy của nhân dân.
2.1.2. Tổ chức quân đội
Quân đội là yếu tố hàng đầu trong việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc, không
chỉ chống quân xâm lược mà còn giúp ổn định tình hình trong nước. Đặc biệt,
trong thời kì có chiến tranh thì quân đội là yếu tố quan trọng đảm bảo chiến
thắng của các bên tham chiến do đó, xây dựng quân đội vững mạnh là sự quan
tâm hàng đầu của các triều đại phong kiến cả trong thời bình lẫn khi có chiến
tranh. Chính vì thế, dù là Đàng Ngoài hay Đàng Trong thì chúa Trịnh và chúa
Nguyễn đều rất quan tâm, chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh của riêng
mình. Tổ chức và biên chế quân đội đều giống nhau có khác thì chỉ khác nhau
về cách gọi tên các loại quân mà thôi.
Ở Đàng Ngoài, chính quyền Lê - Trịnh đã không có cơ sở vững chắc
trong nhân dân lại thường xuyên phải đối đầu với các thế lực uy hiếp từ nhiều

phía nên nhà Lê - Trịnh sớm có ý thức xây dựng cho mình một lực lượng
quân đội thường trực vững mạnh. Vào buổi ban đầu, tổ chức quân đội vẫn

20


theo quy chế cũ của thời Lê Sơ. Quân được chia làm 5 phủ và vẫn đặt chức
Đô đốc phủ quân như cũ. Bên cạnh chức Đô đốc 5 phủ lại cho đặt quân dinh 5
khuông gồm có Trung khuông, Hữu khuông, Tả khuông, Tiền khuông và Hậu
khuông. Ở dinh lại chia ra cơ đội theo thứ bậc khác nhau. Từ thời Thuận Đức
(1600) trở đi quân đội được chia thành 2 loại:
Loại quân thường trực: chuyên canh giữ kinh thành và phủ Chúa gọi là
quân Túc vệ, bao gồm những binh lính Thanh - Nghệ đã từng theo họ Trịnh
chống lại họ Mạc từ trước sau được lưu lại kinh thành cùng binh mới tuyển
của 3 phủ thuộc Thanh Hóa và 12 huyện thuộc Nghệ An. Đây là quân đội chủ
lực ngoài việc bảo vệ kinh thành và phủ Chúa còn là lực lượng nòng cốt trong
cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn.
Loại thứ hai là Ngoại binh hay Nhất binh được tuyển từ hai phủ Trường
Yên, Thiên Quang và bốn nội trấn có nhiệm vụ phòng thủ ở địa phương và
canh gác các trấn. Hầu hết chỉ lấy người tình nguyện và những người đóng
giữ lại thì cho vào quân ngũ, còn lại chỉ có tên ở binh ngạch khi có việc mới
gọi ra xong việc lại về làm ruộng.
Năm 1722, theo lời bàn của các đại thần, Trịnh Cương thấy không thể
giữ mãi chỉ một bộ phận quân Thanh - Nghệ hơn nữa lãnh thổ Đàng Ngoài đã
hoàn toàn thuộc về mình nên quyết định chọn binh 4 trấn phụ vào cho đông.
Đinh tráng ở 4 trấn cứ 5 người lấy 1, sự phân chia danh hiệu ưu binh và nhất
binh cũng rõ ràng hơn. Toàn quân được chia làm 6 quân doanh: Trung dực,
Trung oai, Trung thắng, Trung khuông, Trung nhuệ, Trung tiệp. Sang thế kỉ
XVIII, chúa Trịnh cho các địa phương đặt thêm hương binh để tự vệ, chống
các cuộc khởi nghĩa nông dân. Tuy nhiên, binh lính nòng cốt và là lực lượng

bảo vệ chính quyền thống trị nhà Lê - Trịnh vẫn là lực lượng binh lính túc vệ
ở Thanh - Nghệ.

21


Ở Đàng Trong cũng vậy, do nhu cầu sống còn của vùng đất Đàng Trong
là vừa phải lo đối phó với quân Trịnh ở mặt Bắc, vừa phải thực hiện công
cuộc khai phá đất đai ở phía Nam nên họ Nguyễn cũng sớm chú ý đến việc
xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh.
Quân đội của họ Nguyễn ở Đàng Trong cũng chia ra thành quân bảo vệ
kinh thành và quân địa phương giống như Đàng Ngoài chỉ khác nhau về tên
gọi và cách thức chia mà thôi, bao gồm 3 loại: quân Túc vệ ở kinh thành Phú
Xuân, quân chính quy thường trực ở các dinh và Thổ binh ở địa phương.
Quân Túc vệ hay còn gọi là Thân quân bao gồm có 2 vệ: Tả tiệp và Hữu
tiệp mỗi vệ 50 người. Loại quân này có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành Phú Xuân
và hộ vệ chúa Nguyễn, đến năm 1744 đổi thành Vũ lâm quân, quân này họ
Nguyễn chỉ tuyển những người bản huyện (Tống Sơn) cùng quê chúa Nguyễn
và con cháu võ quan chứ không tuyển người ở nơi khác.
Quân chính quy thường trực: Là đội quân đóng ở các dinh được phiên
chế theo thứ tự dinh, cơ, đội và thuyền. Đứng đầu đội quân ở dinh là Chưởng
dinh- một chức võ quan cao nhất trong quân đội. Ở cấp Cơ có Chưởng cơ, Cai
cơ. Cấp Đội là Cai đội và Đội trưởng. Thuyền là phiên chế thấp nhất trong
quân đội. Tất cả những trọng chức trong quân đội từ cấp dinh trở xuống đều
được họ Nguyễn tuyển chọn từ những người trong đồng tộc ở Thanh Hoá vào
làm ngoài ra không ai được tham dự. Điều này giống với cách làm của chúa
Trịnh khi tuyển chọn đội quân ưu binh ở Tam phủ. Tuy nhiên, hệ thống tổ
chức quân đội của chúa Nguyễn chưa được thống nhất, dưới dinh là cơ, cơ có
khi gồm nhiều đội, có khi gồm nhiều thuyền, số thuyền và số đội của mỗi cơ
cũng không thống nhất. Ngay cả số lính của mỗi cơ cũng vậy, có khi là 260,

300, 500 nhưng có khi lên đến 2.700 người. Thuyền là cấp dưới của đội từ 30
đến 50 người nhưng có khi lên đến hơn 100 người.

22


Về binh chủng: quân đội Lê - Trịnh gồm 4 binh chủng là bộ binh, thủy
binh, kỵ binh và pháo binh. Ngoài bộ binh là lực lượng chính thì thủy binh
cũng là lực lượng quan trọng trong chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Quân đội
Đàng Trong cũng giống như Đàng Ngoài gồm có bộ binh, thủy binh, pháo
binh và tượng binh. Thủy binh của họ Nguyễn rất mạnh từng đẩy lùi chiến
hạm của Hà Lan trong một lần đụng độ.
Thuyền chiến ở Đàng Ngoài thời kì này được đóng rất tinh xảo, được
trang bị vũ khí quy mô, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Theo tường
trình của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (1593- 1660) có mặt ở Đàng Ngoài
vào nửa đầu thế kỉ XVIII thì ở Đàng Ngoài lúc ấy đã "có nhiều đội thuyền
chiến vừa tàu thường vừa tàu chiến với đầy đủ binh sĩ và thủy quân làm cho
Chúa trở nên hùng mạnh" và " chiến thuyền thì dài… thường có 24 hoặc 30
và nhiều khi 35 hoặc 40 tay chèo mỗi bên… các thuyền chiến này không thiếu
vũ khí và súng ống cho việc binh đao. Không có thuyền nào không có một
khẩu súng lớn hoặc một khẩu súng nhỡ ở ngay mũi thuyền và hai khẩu ở đuôi
thuyền…" [23, tr 11]. Thuyền chiến ở Đàng Trong cũng khá lớn, mỗi chiếc có
khoảng 30 mái chèo, 3 khẩu đại bác ở mũi và 2 khẩu ở hai bên như miêu tả
của một giáo sĩ phương Tây có mặt ở Đàng Trong vào cuối thế kỉ XVII.
Như vậy, thuyền chiến ở Đàng Ngoài cũng giống như thuyền chiến ở
Đàng Trong nhưng "chỉ khác là ở Đàng Ngoài có nhiều hơn, vững hơn và
trang hoàng đẹp đẽ hơn". "Thuyền của chúa Đàng Trong có thể lên tới con số
ít ra là 200 và đúng như người ta nói chúa Đàng Ngoài có thể có gấp ba hay
bốn lần, thế cho nên người ta đoán có tới 500 hay 600 chiến thuyền Đàng
Ngoài" [23, tr 12- 15].

Nhìn chung quân lực của Đàng Ngoài luôn có sự vượt trội hơn Đàng
Trong, do ở đây là cái nôi của người Việt, cư dân đông đúc và đất rộng hơn
Đàng Trong của họ Nguyễn, nên việc xây dựng một đội quân thiện chiến là

23


rất thuận lợi. Tuy nhiên, trải qua 45 năm Nam chinh đội quân này lại bị khuất
phục bởi chiến lũy và sức chiến đấu của quân dân Đàng Trong. Quân đội của
hai Đàng được xem là một thế lực hùng mạnh ở bán đảo Đông Dương lúc bấy
giờ, có khả năng bành trướng thế lực xa hơn nữa, tuy nhiên hai lực lượng này
lại đối kháng lẫn nhau, làm cho sức mạnh kiệt đi rất nhiều.
2.1.3. Luật pháp
Trong các thế kỉ XVI - XVIII là giai đoạn lịch sử đầy biến động, tình
hình chính trị, kinh tế cũng như xã hội diễn ra khá phức tạp. Cuộc chiến tranh
Trịnh - Nguyễn dẫn đến tình trạng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ chính trị khác nhau: vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa
Nguyễn ở Đàng Trong cùng thực thi những đường lối trị nước.
Trong suốt chặng đường dài mấy thế kỉ như thế nhưng về phương diện
pháp luật thì các vương triều này đã không xây dựng một bộ luật riêng, tức
không có một công trình pháp luật nào đáng kể mà vẫn lấy bộ luật Hồng Đức
(Lê triều hình luật) được xây dựng và hình thành vào thế kỉ XV làm quy tắc
mẫu mực và chỉ sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản cho phù hợp với
thực tế xã hội lúc bấy giờ mà thôi. Về điều này, Phan Huy Chú trong sách
Lịch triều hiến chương loại chí (Hình luật chí) cũng đã viết rằng "Hình luật
thời Hồng Đức… xử trị có những điều nhất định, nặng nhẹ có những mức cao
thấp, các đời tuân theo dùng làm phép sẵn, dù các điều mục lặt vặt có thêm
bớt nhưng đại cương chế độ bao giờ cũng vẫn theo đó, thật là cái mẫu mực
trị nước…" [2, tr 94].
Nhìn chung trong giai đoạn lịch sử này, ngoài một số điều luật quy định

cụ thể về thể lệ xử kiện ở thế kỉ XVII (vào các năm 1625, 1639 và 1659) và
những điều lệ sửa định về luật kiện tụng ở thế kỉ XVIII (vào những năm
1718,1719, 1721…) ra thì ở thời kì này không có một công trình lập pháp nào
đáng kể. Về đại thể cả nhà Lê - Trịnh và chúa Nguyễn đều có một số hoạt

24


động lập pháp trên các phương diện kinh tế, văn hóa cũng như tổ chức nhà
nước nhưng chế độ luật pháp nói chung cơ bản vẫn phải dựa trên nền pháp
luật có sẵn từ thời Hồng Đức trước đó.
Ví dụ như vào năm 1663, trên cơ sở mô phỏng 24 điều giáo hóa dưới
thời Lê Thánh Tông, Trịnh Tạc đã cho biên soạn và ban bố 47 điều giáo hóa,
nhắc lại và củng cố những nguyên tắc cơ bản của Nho giáo trong các quan hệ
từ gia đình cho đến làng xóm và bên ngoài xã hội. Triều đình còn sắc chỉ cho
các Thừa chính, Hiến sát các xứ và phủ, huyện, châu mỗi nha môn phải sao
một bản treo ở công đường làm việc. Ở các làng thì Xã trưởng chép vào một
tấm biển treo ở trong đình, cứ ngày hương ẩm hội họp già trẻ, trai gái trong
làng, những chức sắc hoặc nho sinh đem những giáo điều này ra để giảng giải
"khiến mọi người biết mà khuyên răn để tiến lên phong tục tốt đẹp".
Như vậy, trong thời kì này luật pháp ở hai Đàng không có gì khác biệt
vẫn dựa trên luật lệ cũ sẵn có chỉ sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh
mới mà thôi.
2.2. KHÁC NHAU
Mặc dù có nhiều điểm chung như vậy nhưng do hoàn cảnh, điều kiện của
mỗi Đàng khác nhau nên chúa Trịnh hay chúa Nguyễn cũng đều có những
cách thức xây dựng nhà nước riêng cho mình, đặc biệt là cách thức tổ chức bộ
máy nhà nước của mỗi bên là không giống nhau với một nhà nước phát triển
đến đỉnh cao dưới thời vua Lê Thánh Tông ở Đàng Ngoài và một chính quyền
non trẻ mới được thành lập ở Đàng Trong.

2.2.1. Sự khác biệt giữa "Nhà nước phong kiến Đàng Ngoài" và
"Chính quyền Đàng Trong"
2.2.1.1. Tổ chức chính quyền trung ương
Sau khi vào trấn thủ Thuận Hóa, các chúa Nguyễn đã bắt tay ngay vào
công cuộc xây dựng đất nước nhằm xây dựng một nhà nước tồn tại độc lập so

25


×