Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Đường lối cán bộ nữ của đảng cộng sản việt nam thời kỳ 1975 1995

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.99 KB, 67 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rằng phụ
nữ Việt Nam giữ một vị trí và vai trò quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay, các tầng lớp phụ nữ đã thể hiện tinh thần đoàn kết, sáng tạo trong
lao động, công tác đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa-xã hội góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Phong trào phụ nữ phát triển gắn liền với sự trưởng thành của đội
ngũ cán bộ nữ. Phong trào phụ nữ và đội ngũ cán bộ nữ có mối quan hệ khăng
khít, biện chứng giữa đường lối chính trị, đường lối tổ chức với hoạt động
thực tiễn của phụ nữ. Xây dựng đội ngũ cán bộ nữ vừa là nhân vừa là quả của
phong trào phụ nữ.
Nhận thức được đúng đắn mối quan hệ giữa phong trào phụ nữ và công
tác cán bộ nữ, trong giai đoạn 1975-1995 Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác cán bộ nữ, xem đó là nhiệm vụ có
tính chiến lược, “Đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có
tính chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Trên cơ
sở quy hoạch, có kế hoạch đào tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo
điều kiện để cán bộ nữ cống hiến và trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ
trong các cấp ủy Đảng, cơ quan nhà nước, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế,
xã hội, khoa học, nghệ thuật… chống coi thường phụ nữ, phân biệt đối xử,
khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, sử dụng đề bạt trong cán bộ nữ”[24,tr.14].
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay, công tác cán bộ nữ cần đẩy mạnh hơn nữa. Căn cứ vào những chủ trương
những chính sách và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng về công tác cán bộ
nữ từ 1975 - 1995 để chỉ ra mặt mạnh, mặt yếu của công tác cán bộ, nguyên


2



nhân dẫn đến thực trạng đó; rút ra những kinh nghiệm, những kiến nghị,
những chủ trương chiến lược lâu dài cũng như những giải pháp trước mắt với
Đảng và Nhà nước để đưa công tác cán bộ nữ ngang tầm với nhiệm vụ của sự
nghiệp đổi mới. Những vấn đề trên đây đã nói lên tính cấp thiết và có ích của
đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề cán bộ nữ đã được Đảng, Chính phủ rất quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo thông qua các chỉ thị, nghị quyết qua từng thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, từ
sau Đại hội VII, nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp bộ, nhiều dự án, hội thảo
khoa học liên quan đến cán bộ nữ đã được triển khai tiêu biểu như: Cơ cấu
cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam trong hệ thống chính trị đổi mới (Đề tài KX.05.11.04). Vị trí, vai trò
chức năng và mô hình tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hệ
thống chính trị (Đề tài KX.05.10.05) do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực
hiện năm 1993. Đề tài vai trò của của phụ nữ đồng bằng sông Hồng do Bộ
Khoa học Công nghệ và môi trường chủ trì, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
thực hiện tháng 5-1994.Phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa: Đổi mới mạnh mẽ
hơn nữa công tác cán bộ nữ (Tạp chí Cộng sản tháng 12-1993). PTS. Chu
Tuấn Nhạ: Vài nét về tình hình hoạt động của các nhà khoa học nữ nước ta
(Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4-1993)…
Các công trình nghiên cứu trên đây từ nhiều góc độ và cách tiếp nhận
khác nhau cũng đã chỉ rõ: Giải phóng phụ nữ là yêu cầu của lịch sử, là vấn đề
có tính thời sự: giải phóng phụ nữ gắn với giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội; giải phóng con người; muốn giải phóng phụ nữ, thực hiện “nam nữ bình
quyền” triệt để phải gắn với cuộc cách mạng xã hội. Nhưng do yêu cầu cụ thể
của các cuộc hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học… nên các công trình này
chỉ phân tích, lý giải từng mặt của vấn đề cán bộ nữ. Đề tài “Đường lối cán



3

bộ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1975-1995”góp phần đề cập tới
vấn đề cán bộ nữ một cách hệ thống cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích: Thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng và thực tiễn
phong trào cán bộ nữ từ năm 1975-1995 góp phần giúp cho lãnh đạo các cấp
nhận thức đúng và quan tâm thường xuyên bằng những biện pháp cụ thể, thiết
thực đến công tác phụ nữ.
Nhiệm vụ: Trình bày quá trình hình thành chính sách cán bộ nữ của
Đảng cộng sản Việt Nam từ 1975-1995. Tác dụng của những chính sách đó.
Giới hạn đề tài: Phong trào cán bộ nữ nói chung và công tác cán bộ ở
Việt Nam là một đề tài rất rộng, nên phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
chủ yếu tập trung nghiên cứu những chủ trương chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với công tác cán bộ nữ từ năm 1975-1995.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
-

Các văn kiện của Đảng, Nghị quyết hội nghị Ban Chấp Hành
Trung Ương, các Nghị quyết, Chỉ thị, Báo cáo của Trung ương Đảng.

-

Các văn kiện Nhà nước như Hiến pháp, Pháp lệnh, Chỉ thị, Quyết
định của Chính phủ.

-

Một số sách, báo, tạp chí viết về phụ nữ.

Các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này.

Phương pháp nghiên cứu
Nhất quán phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài được
hoàn thành trên cơ sở phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.Ngoài ra
còn kết hợp sử dụng phương pháp phân tích-tổng hợp, cụ thể-khái quát, thống
kê, so sánh, đối chiếu.


4

5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận trình bày một cách hệ thống đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với công tác cán bộ nữ, sự lãnh đạo và chỉ đạo trong
hoạt động thực tiễn. Đồng thời trình bày rõ thực trạng của đội ngũ cán bộ nữ
sau 20 năm thống nhất đất nước. Phân tích nguyên nhân của những thành tựu,
tồn tại và đưa ra những kinh nghiệm cho giai đoạn sau.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo và phụ lục luận văn
gồm 2 chương.
Chương 1: ĐƯỜNG LÓI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
Chương 2: ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – 1995)


5

Chương 1
ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNGSẢN VIỆT NAM

THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG XÃ
HỘI
Trước chủ nghĩa Mác, cả trong tư tưởng lý luận cũng như trong thực
tiễn, phụ nữ luôn bị khinh rẻ, bị coi là kẻ tiểu nhân và mất quyền bình đẳng cả
ngoài xã hội cũng như trong gia đình phụ nữ được xem như những công cụ
biết nói… Hàng loạt những giáo lý bất công dưới chế độ phong kiến như
thuyết tam tòng đã chói chặt người phụ nữ vào công việc gia đình, suốt đời
phụ nữ chỉ biết phục tùng cha, chồng, con trai.
Xác định được vị trí, vai trò của phụ nữ đối với sự phát triển của toàn xã
hội Mác, Ăngghen, Lênin đã khẳng định trong lịch sử nhân loại, không có
một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại không có người
phụ nữ tham gia. Phụ nữ là những người bị áp bức nhất trong những người bị
áp bức nên không bao giờ họ đứng ngoài và cũng không thể đứng ngoài các
cuộc đấu tranh giải phóng, chỉ ra những điều kiện và biện pháp để giải phóng
phụ nữ, trong đó theo các ông, điều kiện đầu tiên có tính chất bao trùm là phải
thực hiện quyền bình đẳng, đặc biệt là quyền bình đẳng về việc làm giữa nam
và nữ.
Để thực sự giải phóng phụ nữ, theo Lênin cần tiến hành theo hai bước:
+ Bước thứ nhất, phải bóc trần sự lừa bịp và giả nhân giả nghĩa của chế
độ dân chủ tư sản, tiến hành xóa bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất, công xưởng,
nhà máy và trao toàn bộ quyền lực nhà nước về tay quần chúng lao động. Cần


6

phải thủ tiêu sự bất bình đẳng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, sự bất
bình đẳng về con cái.
+ Bước thứ hai, phải để phụ nữ tham gia lao động sản xuất nói chungcoi

vấn đề giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cuộc cách
mạng vô sản.
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh sớm nhận thức được vị trí, vai trò của phụ nữ trong lịch sử và quan
tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Hồ Chí Minh khẳng định “Non sông gấm
vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp,
rực rỡ”[36,tr.432].Người cũng chỉ ra rằng bình đẳng nam nữ là điều kiện quan
trọng nhất để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào sự nghiệp cách mạng,
cùng gánh vác với nam giới.Ngay từ năm 1925 cùng với việc chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức
Việt Nam cách mạng thanh niên do Người sáng lập đã chọn 10 em gái và trai,
con Việt kiều ở Xiêm đưa đến Quảng Châu để đào tạo cán bộ chuẩn bị thành
lập Đảng. Trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Người soạn thảo
được thông qua Hội nghị hợp nhất (3 – 2-1930) sau những vấn đề quan trọng
về đối tượng, mục tiêu, phương pháp tiến hành cách mạng… Người chỉ rõ:
Phải thực hiện “nam nữ bình quyền”[35, tr.295].Cùng với việc thực hiện bình
đẳng nam nữ, phải bố trí cho phụ nữ được giảm bớt công việc nội trợ trong
gia đình để giành thời gian cho hoạt động xã hội và học tập. Để sự nghiệp giải
phóng phụ nữ và công tác cán bộ nữ được thực hiện triệt để thì trách nhiệm
trước hết thuộc về Đảng “Đảng cách mạng phải làm sao dạy cho đàn bà nấu
ăn cũng phải biết làm việc nước” [35, tr.217].
Xác định được vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp cách
mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm, theo dõi hoạt động của phụ nữ và
Người rất phấn khởi mà thành tích của phụ nữ đạt được. Trong buổi gặp mặt


7

phụ nữ lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua toàn thành phố Hà Nội lần thứ
hai, Người nói “Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam ta đã có nhiều đóng góp

cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính”[35, tr.668]. Hồ Chí Minh đã phân
tích, so sánh sự tiến bộ, trưởng thành của phụ nữ nước ta ngày nay với thời
trước đây “Dưới chế độ XHCN, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ chuyên
môn các ngành, và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và phó giám đốc các xí
nghiệp, chủ nhiệm các hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành chính, bí
thư chi bộ đảng…”[37, tr.755], hay “một trong những tiến bộ rõ rệt nhất là
phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều”[38, tr.239]. Người
phấn khởi tự hào với sự trưởng thành của đồng chí Nguyễn Thị Định trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: “Trên thế giới chưa có nơi nào phụ nữ
làm phó Tổng tư lệnh như ở miền Nam nước ta” [38, tr.489].
Cùng với việc khẳng định những tiến bộ của phụ nữ trong quá trình
cách mạng, Hồ Chủ tịch đã chỉ ra những thiếu sót, khuyết điểm của công tác
cán bộ nữ. Trong thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ngày 20 – 04-1931, Người đã phê bình thiếu sót của xứ ủy Trung kỳ
về việc đào tạo và bố trí cán bộ nữ ở các huyện quá ít so với nam giới. Hồ Chí
Minh đề nghị “phải sửa chữa những sai lầm trên”. Ngày 18 – 01-1967, khi
đến thăm và nói chuyện với lớp cán bộ lãnh đạo cấp huyện thấy đại biểu phụ
nữ chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng số cán bộ tham dự, Người lại chỉ ra“Cán bộ
nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp học chưa quan tâm
tới việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót chung ở trong Đảng.
Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến
hẹp hòi. Như vậy rất sai”[38, tr.489].Bác mong rằng “các đồng chí hãy thật sự
sửa chữa bớt thành kiến, hẹp hòi đối với phụ nữ.Các cô nhất là các cô ở
huyện, phải đấu tranh mạnh”[38, tr.490].Cùng với việc chỉ ra những nguyên
nhân khách quan làm công tác cán bộ nữ yếu kém Người đã nêu những hạn


8

chế về phía các chị “phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỉ lại, phải có ý

chí tự cường, phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật”[39,
tr.48].
Được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhận thức được thân phận của người phụ nữ dưới chế độ cũ và vai trò của họ
trong lịch sử: “Trong xã hội cũ, phụ nữ là người đau khổ nhất, bị áp bức nhiều
nhất do đó dễ nhạy cảm với cách mạng, phụ nữ lại là lực lượng to lớn trong
nhân dân, không có phụ nữ tham gia thì không một cuộc vận động cách mạng
nào có thể thành công” [23, tr.12]. Đối với phụ nữ “Đảng và Nhà nước ta đã
đánh giá rất cao công lao của phụ nữ trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng
như trong cách mạng XHCN, trong chiến đấu cũng như trong sản xuất” [23,
tr.11]. Nghị quyết Đại hội lần thứ ba của Đảng đã chỉ rõ “phụ nữ nước ta là
một lực lượng quan trọng trong cách mạng và sản xuất, Đảng ta có trách
nhiệm lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phát huy năng lực dồi dào
của phụ nữ để xây dựng xã hội mới”[23, tr.4-5]. Đảng Cộng sản Việt Nam
cho rằng: Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải gắn liền, là một bộ phận của sự
nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Bởi vì, phụ nữ là một bộ
phận của dân tộc, nếu dân tộc không được độc lập tự do thì phụ nữ cũng mất
hết quyền tự do. Do đó, chỉ khi nào dân tộc được giải phóng, phụ nữ mới
được giải phóng. Phụ nữ cũng là một bộ phận của giai cấp, cho nên nếu giai
cấp chưa được giải phóng thì phụ nữ không thể tự giải phóng được.Ngược lại
nếu giai cấp được giải phóng hoàn toàn và triệt để chỉ khi nào phụ nữ được
giải phóng hoàn toàn.
Để phụ nữ giải phóng một cách triệt để Đảng Cộng sản Việt Nam cho
rằng phải gắn bó với việc xây dựng thắng lợi Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ
Nghĩa Cộng Sản. Bởi vì nguồn gốc xâu xa của vấn đề phụ nữ không bình
đẳng với nam giới là do còn tồn tại xã hội có giai cấp, trong đó có giai cấp


9


bóc lột và bị bóc lột, còn tồn tại sự áp bức bóc lột về kinh tế-chính trị-văn
hóa-xã hội. Do đó, xây dựng phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ
và ngược lại “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội
chỉ một nửa”[26, tr.728]. Chỉ có Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ Nghĩa Cộng Sản
mới tạo ra được mọi điều kiện cần thiết về kinh tế và xã hội, về vật chất và
tinh thần để giải phóng phụ nữ một cách triệt để, thực hiện bình đẳng giữa
nam và nữ toàn diện, làm cho phụ nữ có địa vị xã hội xứng đáng, phát huy
được hết mọi tài năng, sức sáng tạo để cống hiến cho xã hội, đồng thời xây
dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.
1.2. ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRƯỚC ĐỔI MỚI
1.2.1. Thời kỳ 1930 - 1975
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí và vai trò của phụ nữ
nói chung, chính sách đối với cán bộ nữ nói riêng mang tính liên tục nhất
quán. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã trình bày quan
điểm của Các Mác, Lênin về vị trí của phụ nữ đối với cách mạng. Qua thực
tiễn đóng góp của phụ nữ đối với cách mạng Pháp, đặc biệt là cách mạng
Nga, Người khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người đòi
hỏi cần thiết phải có cơ quan chuyên trách về mặt tuyên truyền, tổ chức và
huấn luyện đàn bà con gái, và giúp về đường giáo dục trẻ em công nông.Hồ
Chí Minh khẳng định “mỗi Đảng Cộng sản phải có một hội phụ nữ” [35,
tr.218].Như vậy là, ngay từ những năm 20, cùng với việc chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và sự tổ chức cho việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn
đề tổ chức và cán bộ nữ, chính sách đối với giới nữ ở Việt Nam đã được Hồ
Chí Minh đặt ra và luận chứng sâu sắc.Người cho rằng, cách mệnh Nga thành
công mau như thế, đứng vững như thế, cũng nhờ đàn bà con gái giúp vào.
Người kêu gọi: cách mạng Việt Nam muốn thành công cũng cần có phụ nữ


10


tham gia. Hưởng ứng, từ năm 1927 đến 1930, phụ nữ cả nước đã tham gia tổ
chức “Thanh niên” như các chị Hoàng Thị Ái, Nguyễn Thị Minh Lãng, Thái
Thị Bôi, Nguyễn Thị Nhỏ…một số khác tham gia Đảng Tân Việt và sau này
trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam như Nguyễn Thị Minh Khai,
Tôn Thị Quế…
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 3 - 2 - 1930 mở ra thời kỳ mới có tính
chất bước ngoặt đối với tình hình phát triển của phong trào phụ nữ Việt
Nam.Các tác phẩm của Hồ Chí Minh, văn kiện của Đảng thời kỳ 1930-1945
đều có phần chính sách đối với phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng. Đáng
chú ý là một trong mười chính sách của Việt Minh là chính sách đối với phụ
nữ: Đàn bà con gái cũng được tự do-bất phân nam nữ, đều cho bình
quyền.Theo đó, phong trào phụ nữ càng phát triển.Chính sách cán bộ nữ của
Đảng đã tạo tiền đề xuất hiện những cán bộ nữ xuất sắc. Những cán bộ nữ đó
đã cùng với đội ngũ cán bộ đảng viên tiền bối của Đảng góp phần quyết định
trong đấu tranh giành chính quyền tháng Tám 1945.
Chính quyền non trẻ thành lập sau Cách mạng Tháng Tám phải đương
đầu với những thử thách hiểm nghèo: Thù trong giặc ngoài, giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm. Trở thành Đảng cầm quyền trong điều kiện đó, khó khăn lớn
nhất của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là thiếu nhiều cán bộ đặc biệt là cán
bộ nữ. Ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, lại bị những lề thói bất bình
đẳng giới của xã hội phong kiến ràng buộc, việc phụ nữ tham gia quản lý và
điều hành xã hội chưa bao giờ được đặt ra. Vì vậy, trả lại vị trí cho phụ nữ,
đưa họ tham gia công tác xã hội, đóng góp cho cách mạng là yêu cầu cấp bách
của Đảng và Nhà nước. Kể từ đó đến hết 2 cuộc kháng chiến giữ nước, công
tác cán bộ nữ được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Phụ nữ được tập hợp đông đảo và phát huy vai trò của
mình trong những tổ chức từ Trung ương đến địa phương.Trong cuộc kháng



11

chiến chống Pháp, phụ nữ đã có nhiều đóng góp quan trọng. Các chị đã đảm
nhận hầu hết công việc sản xuất nông nghiệp ở các địa phương để chồng con
yên tâm chiến đấu. Từ cuộc trường chinh giữ nước, nhiều tấm gương chiến
đấu anh dũng như anh hùng Võ Thị Sáu; Mạc Thị Bưởi; Nguyễn Thị
Chiên…đã xuất hiện. Thực hiện chủ trương đưa phụ nữ bần cố nông tham gia
cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất của Đảng, nhiều chị em phụ nữ trở thành
nòng cốt mà Phú Thọ là một điển hình. Trong cải cách ruộng đất đợt 2 ở 100
xã, có 132 phụ nữ được bầu vào Uỷ Ban Hành Chính xã. Trong số xã đã cải
cách, có 15 chủ tịch và phó chủ tịch; 14 chính trị viên xã đội và xã đội trưởng;
5 trưởng công an xã.. Kết quả của cải cách ruộng đất trong đó có một phần
đóng góp không nhỏ của phụ nữ, góp phần làm nên thắng lợi hoàn toàn của
nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới: Cả nước thực hiện 2
nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và kháng
chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Cùng với phong trào phụ nữ được
củng cố và phát triển, công tác cán bộ nữ của Đảng đã tạo điều kiện khách
quan để phụ nữ được bình đẳng tham gia quản lý và điều hành xã hội với hiệu
quả cao. Có những chức vụ rất cao do phụ nữ đảm nhận: Phó tổng tư lệnh lực
lượng vũ trang nhân dân miền Nam Nguyễn Thị Định (sau này bà là Phó Chủ
tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam); Bộ trưởng ngoại giao
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam – Trưởng đoàn
đại biểu Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội Nghị
Pari Nguyễn Thị Bình (sau này bà là Bộ trưởng bộ giáo dục, rồi phó Chủ tịch
nước), đồng thời còn có vô vàn những phụ nữ khác đảm nhiệm các cương vị
lớn nhỏ khác nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ cán bộ nữ
ngày càng lớn mạnh, giữ vị trí quan trọng góp phần đưa công tác cán bộ nói
chung của Đảng, Chính phủ, mà rõ nhất từ sau khi có Nghị quyết 152, 153



12

NQ/TW (10 – 1-1967), công tác cán bộ nữ có những chuyển biến sâu sắc.
Những số liệu sau đây chỉ rõ nhận định này: Khi cuộc chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc (8-1964), cho đến khi kết thúc cuộc
chiến tranh này có số lượng cán bộ nữ tăng 353%. Số lượng cán bộ nữ đều
tăng ở các cấp: Trong cơ quan Đảng số nữ tham gia cấp ủy xã tăng từ 12,9%
tăng lên 20,9%, cán bộ huyện từ 9,5% lên 17,7% tỉnh tăng từ 6,3% lên 13,7%.
Ở các cấp chính quyền: cán bộ xã tăng từ 14% lên 32,76%, huyện từ 12 %
tăng lên 26,48%; tỉnh từ 8% lên 13,9%. Số cán bộ nữ làm trưởng, phó ty, ban
ngành cấp tỉnh tăng từ 135 chị lên 221 chị, làm phó giám đốc, phó giám đốc
xí nghiệp tăng lên từ 50 lên 130 chị, nữ làm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm cũng
tăng lên từ 32 lên 90 chị. Ở các cơ quan Trung ương số cán bộ trung cao cấp
là nữ cũng tăng đáng kể: Năm 1965, số nữ giữ chức vụ thứ trưởng và tương
đương có 5 chị, đến năm 1972 tăng lên 12 chị: số nữ đảm nhiều chức vụ: Cục,
Vụ, Viện trưởng và phó tăng từ 115 tăng lên 1.837 chị. Do đòi hỏi của công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ trí thức nói chung, trí thức nói
riêng cũng phát triển nhanh: năm 1961 chỉ có 3 tiến sĩ và phó tiến sĩ đến năm
1965 tăng lên 6 và năm 1972 tăng lên 97 chị. Số nữ có trình độ đại học năm
1961 là 1.650 thì đến 1972 đã tăng lên 16.948, trong đó có 1.234 chị là giảng
viên đại học.
Ở các địa phương thời kỳ này, công tác cán bộ nữ cũng có những
chuyển biến đáng kể. Điển hình là Hải Hưng, một trong những tỉnh thực hiện
tốt công tác cán bộ nữ. Sau khi có Nghị quyết 152-NQ/TW của Ban Bí thư,
tỉnh ủy Hải Hưng đã tổ chức Hội nghị mở rộng đến các bí thư huyện ủy và
đảng đoàn phụ nữ tỉnh. Trước khi học tập Nghị quyết 152-NQ/TW, số ủy viên
nữ của tỉnh chỉ có 43 chị, sau triển khai Nghị quyết số lượng nay đã tăng lên
79 chị (tăng 138,7%); bí thư đảng ủy tăng 600% (trước có 3 nay lên 18). Đảng
ủy viên tăng 204,7% (từ 567 lên 1.101). Bí thư chi bộ tăng 275% (từ 36 lên



13

99), chi ủy viên tăng 184,5% (từ 562 lên 1.037); Phó chủ tịch huyện tăng
666% (từ 3 lên 20); Chủ tịch Ủy ban hành chính xã tăng 385,7%(từ 21 lên 18)
[2,tr.67].
Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, trong
đó có đóng góp rất lớn của phụ nữ.Phụ nữ Việt Nam phát huy truyền thống tự
giải phóng đã có từ thời các bà Trưng, bà Triệu, được ánh sáng của Đảng soi
đường họ không bồng con đi hóa đá mà cùng chồng con bước vào các cuộc
trường chinh giữ nước và xây dựng đất nước với tất cả sức mạnh của truyền
thống và hiện đại để tiếp tục làm rạng danh sứ mệnh của mình trong lịch sử
dân tộc. Có được thành quả như vậy phần lớn bởi hiệu quả của chính sách
công tác nữ và công tác cán bộ nữ của Đảng.Phải khẳng định chính sách cán
bộ nữ thời kỳ CMDTDC và xây dựng CNXH ở miền Bắc (1930 -1975) đã tạo
những tiền đề rất quan trọng cho công tác cán bộ nữ ở giai đoạn tiếp theo giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH.
1.2.2. Thời kỳ 1975-1986
Đáp ứng yêu cầu của mới của cách mạng, tháng 6 - 1976, 2 Hội Liên
hiệp phụ nữ ở 2 miền đã thống nhất thành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Sự
thống nhất về tổ chức này đã góp phần đưa công tác cán bộ nữ và đội ngũ cán
bộ nữ ngày một phát triển.
Những vấn đề mang tính nguyên tắc trong chính sách cán bộ nữ của
Đảng thời kỳ này thể hiện trong các văn kiện Đại hội IV, Đại hội V, Nghị
quyết Bộ chính trị số 32-NQ/TW ngày 20 – 11 - 1980, “Về công tác tổ chức”.
Những nghị quyết, chỉ thị tập trung đề cập đến chính sách cán bộ nữ gồm Chỉ
thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về một số vấn đề cấp bách trong công
tác cán bộ nữ” số 44-CT/TW ngày 7 – 6-1984. Ở chỉ thị này, Đảng ta đã nhận
định về sự lớn mạnh, trưởng thành của đội ngũ cán bộ nữ từ phong trào cách



14

mạng của quần chúng phụ nữ: “Sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ nữ đánh
dấu bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nam nữ bình đẳng, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân lao động nước ta” [19,
tr.1]. Tuy nhiên Đảng ta cũng chỉ ra hiện tượng tỷ lệ cán bộ nữ giữ chức vụ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp tỉnh, thành, Trung ương, thậm chí cả ở địa
phươnggiảm đi và phần nhiều lớn tuổi, nhưng diện kế cận rất ít.
Để khắc phục, Hội Đồng Bộ Trưởng đã “Nhà nước hóa” đường lối của
Đảng bằng việc ra Nghị quyết 176a/HĐBT (24 – 12-1984) “Về việc phát huy
vai trò năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa”. Chính sách cán bộ nữ thời kỳ này còn được thể hiện trong
những tài liệu của Đại hội V. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; trong các Nghị
quyết của Trung ương Đảng khóa IV và V. Nội dung cơ bản chính sách cán
bộ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các văn kiện và tài liệu nêu trên là
khẳng định những thành công và chỉ ra những thiếu sót của công tác cán bộ
nữ.
Qua các văn kiện của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chỉ thị 44-CT/TW, và
Nghị quyết 176a/HĐBT có thể khái quát hai thiếu sót cơ bản trong quá trình
thực hiện chính sách cán bộ nữ của Đảng.
+ Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý và lãnh đạo đã quá thấp lại có xu
hướng sản xuất, nhất là trong các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước.
Số liệu thống kê của Đại hội V Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã chứng tỏ đó
(xem phụ lục).Xét thêm một số tiêu chí khác ta cũng thấy tình trạng tương tự.
+ Cán bộ nữ giữ các chức vụ chủ chốt ở cấp tỉnh thành và Trung ương
phần nhiều lớn tuổi, diện kế cận ít. Tỷ lệ Đảng viên nữ giảm. Chỉ thị
44CT/TW đã nhấn mạnh: Độingũ cán bộ nữ phát triển thiếu vững chắc do đó,
quyền bình đẳng trên thực tế của phụ nữ còn nhiều hạn chế.



15

Những khuyết điểm, thiếu sót trong chính sách cán bộ nữ nêu trên do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó chủ yếu do những
nguyên nhân chủ quan.
+ Đất nước đã chuyển sang giai đoạn mới nhưng công tác cán bộ vẫn
“còn bị chi phối khá nặng nề bởi quan điểm đánh giá và lựa chọn người theo
lối cũ”. Thống nhất với nhận định đó, chỉ thị 44-CT/TW nhấn mạnh công tác
cán bộ nữ cũng như công tác tổ chức cán bộ nói chung chưa theo kịp yêu cầu
của giai đoạn mới.
+ Nhiều cấp ủy Đảng chưa quán triệt đường lối và buông lỏng việc chỉ
đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cán bộ nữ. Thực trạng đó do nhận
thức lệch lạc về vai trò của cán bộ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
+ Bản thân các cấp hội phụ nữ cũng chưa quan tâm đúng mức đến vấn
đề cán bộ nữ.
Để khắc phục thực trạng trên, các Nghị quyết của Đảng đòi hỏi:
+ Phải thực sự củng cố các đoàn thể quần chúng nhất là Tổng liên đoàn
lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ.
+ Cấp ủy phải định kỳ nghe báo cáo của các đoàn thể, có quy định cụ
thể để các đồng chí lãnh đạo công đoàn, thanh niên, phụ nữ được tham dự
thường xuyên các kỳ họp của ban thường vụ bàn về kinh tế, xã hội.
+ Để có một chính sách cán bộ nữ đúng đắn, đặc biệt là để thực hiện
nghiêm chỉnh chính sách ấy trước hết phải “tạo nên một chuyển biến mạnh
mẽ về quan điểm nhận thức đối với vấn đề cán bộ nữ”.
+ Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh
về vị trí và vai trò của phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng cần được cấp ủy
Đảng, những cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp học tập và quán triệt. Từ

những cơ sở lý luận và thực tiễn đó mọi người cần nhận thức rằng bước vào


16

thời kỳ mới phải có những chủ trương, biện pháp phát huy hơn nữa khả năng
và trí tuệ của phụ nữ và cán bộ. Khi Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách đối
với cán bộ nữ thì mọi cấp ủy và đảng viên phải quán triệt thi hành.
+ Một vấn đề nữa là phải đấu tranh xóa bỏ tư tưởng phong kiến, coi
thường phụ nữ, đối xử hẹp hòi, thậm chí bất công với phụ nữ. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, chỉ khi nhận thức tư tưởng đúng thì hành động mới đúng.
Tăng cường cán bộ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có ý nghĩa
to lớn nhiều mặt. Tăng cường cán bộ nữ là nhằm phát huy vai trò và năng lực
của chị em, góp phần thiết thực ngày càng nhiều vào sự lãnh đạo của Đảng,
các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời xây dựng cho phong trào nòng cốt
cho phng trào phụ nữ. Với mục đích như trên, nên trong các cấp ủy Đảng, các
cơ quan quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, các đoàn thể nhân dân phải có cán
bộ nữ những vị trí chủ chốt, nhất là ở những lĩnh vực mà cán bộ nữ có nhiều
điều kiện phát huy khả năng. Tuy vậy, 176a/HĐBT quy định “phải có cán bộ
nữ đủ tiêu chuẩn và phẩm chất, năng lực tham gia lãnh đạo”.
Từ những đòi hỏi về cán bộ như trên, vấn đề đặt ra là “phải tích cực đào
tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ hoàn thành nhiệm vụ”. Cần có
quy hoạch cán bộ nữ, khắc phục tư tưởng chắp vá, bị động, thiếu tính liên tục
trong xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, nhất là cán bộ lãnh đạo và cán lãnh đạo và
cán bộ quản lý.
Cần nhận thức rằng việc khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm đặc
biệt là thực hiện các chủ trương, chính sách cán bộ nữ đã nêu ở trên là một
quá trình không đơn giản.Đây là một công việc khá phức tạp bới tư tưởng coi
thường phụ nữ vẫn tồn tại dai dẳng từ hàng ngàn năm khó khắc phục. Nhưng
đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng: “chỉ cần có cách nhìn đúng đắn, có sự

giúp đỡ tận tình và tình cảm chân thành với phụ nữ thì sẽ phát hiện được
những phụ nữ có thể bồi dưỡng và giao trách nhiệm cao hơn, hiện đã có sẵn ở


17

nhiều lĩnh vực, nhất là ở cơ sở”. Để tạo nguồn phát triển cán bộ nữ, tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng phụ nữ, Chỉ thị 44-CT/TW yêu
cầu các đảng bộ cơ sở, các chi bộ phải chú ý phát triển đảng viên nữ, phấn
đấu đến hết 1985, cơ sở nào cũng có đảng viên nữ.
Cũng cần thấy rằng trong mỗi giai đoạn cách mạng, những chủ trương,
chính sách cán bộ nữ của Đảng không chỉ nêu ra những nhiệm vụ, giải pháp
trước mắt, mà còn chỉ ra phương hướng chỉ đạo lâu dài cho các giai đoạn sau.
Bởi vậy, bên cạnh những chính sách đó có thể thực hiện ngay và phải thực
hiện tốt vẫn có những chính sách thực hiện từng bước, từng phần tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.
Điều cần thiết để biến các chủ trương chính sách lớn cán bộ nữ của
Đảng thành hiện thực đòi hỏi ngững cố gắng to lớn, bền bỉ, sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, trong đó
Hội phụ nữ các cấp có vai trò rất quan trọng. Như vậy, ngay trong việc thực
hiện chính sách cán bộ nữ của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn đòi hỏi chúng ta
làm theo những điều Hồ Chí Minh đã nói nhiều lần, “kế hoạch một phần, biện
pháp phải hai phần và quyết tâm phải ba phần”.
Dưới dự lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện của Đảng và nhà nước, công tác cán
bộ nữ 10 năm sau ngày miền Nam giải phóng có những chuyển biến đáng kể:
+ Để đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng, Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam đã tham mưu cùng các cấp ủy Đảng sơ kết việc thực hiện Nghị
quyết 152,153 NQ/TW của Bí thư Trung ương Đảng và phát động trong cả
nước tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa tầm quan trọng của công tác cán bộ
nữ theo tinh thần của ban Bí thư. Bên cạnh đó, ngoài việc kiện toàn bộ máy tổ

chức từ trung ương đến cơ sở, tháng 6 - 1976 Hội Liên hiệp phụ nữ giải
phóng miền Nam đã thống nhất với hội liên hiệp phụ nữ miền Bắc thành một
tổ chức: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Sự thống nhất về tổ chức này đã góp


18

phần đưa công tác cán bộ nữ và đội ngũ cán bộ nữ ngày càng phát triển. Tính
dến năm 1980 có gần 8.000 chị em tham gia cấp ủy Đảng từ cơ sở trở lên
(trong đó gần 2.000 chị là bí thư đảng ủy xã là bí thư, phó bí thư huyện quận);
421 là trưởng phó các ngành cấp tỉnh, thành; 2.563 chị là trưởng phó phòng
quận huyện; 160 chị là chánh phó giám đốc xí nghiệp. Trên các cơ quan
Trung ương: số cán bộ nữ là Trung ương ủy viên chính thức của đại hội VI
(1976- 1981) có 132 chị (26,9% tổng số đại biểu quốc hội), trong đó có một
chị là phó chủ tịch, 2 chị là ủy viên thường vụ Quốc hội. Số chị tham gia quản
lí nhà nước cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể: năm 1975 có 5 chị giữ chức bộ
trưởng và tương đương (số lượng này giữ nguyên đến 1981); 15 chị giữ chức
Thứ trưởng và tương đương (đến năm 1981 còn 12); 21 chị giữ chức vụ, vụ,
viện trưởng (đến năm 1981 tăng lên 24 chị) và 82 chị giữ chức cục, vụ, viện
phó (đến năm 1981 tăng lên 97). Lĩnh vực hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ
thuật, mà trước cách mạng phụ nữ không bao giờ giám mơ tưởng đến thì đến
năm 1986 tỉ lệ cán bộ chiếm 51% trong số cán bộ khoa học kỹ thuật, trong đó
trên đại học chiếm 10,66%; giáo sư cấp I, II là 7,3% tiến sĩ, phó tiến sĩ chiếm
9,5%, đại học và cao học: 36,02% và trung học chuyên nghiệp chiếm 59,02%.
+ Cùng với số lượng cán bộ nữ tăng là chất lượng của đội ngũ ngày
càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được phân công. Do yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng thời kì này, chúng ta đã đưa vào cương vị lãnh đạo ở cơ sở một
lớp cán bộ có văn hóa, trưởng thành trong sản xuất và chiến đấu, hầu hết xuất
thân từ thành phần cơ bản. Đặc biệt là số cán bộ trẻ, có sức khỏe, có văn hóa
cao, sự nhiệt tình hăng hái, lòng dũng cảm, các chị đã chứng tỏ rằng đây là

nguồn cán bộ kế cận, bổ sung cho đội ngũ cán bộ nữ các cấp sau này (Theo
báo cáo của Ban tổ chức Trung ương Đảng, qua thống kê phân loại 12 tỉnh
thành có từ 70 đến 85% số cán bộ chủ chốt của các cấp tỉnh, huyện, xã, hợp
tác xã mới đề bạt đảm bảo được nhiệm vụ được phân công).Ưu điểm rõ nhất


19

của cán bộ nữ là vốn mang trong mình phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt
Nam là cần cù, trung hậu, dũng cảm, đảm đang. Các chị có lòng nhiệt tình
hăng hái trong công tác, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà Chính
phủ; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, có
ý thức kỉ luật tốt, lo lắng đến trách nhiệm của mình… trên cương vị lãnh đạo,
nhiều chị (nhất là ở cơ sở) đã phát huy được dân chủ về chính trị và kinh tế
nên được quần chúng tín nhiệm và ủng hộ. Trong quản lý kinh tế phần lớn số
chị em chặt chẽ trong quản lý lao động và quản lý tài chính;tham ô lãng phí,
các hiện tượng chè chén, nhậu nhẹt… rất ít khi diễn ra.
+ Trình độ văn hóa, chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của các chị được
nâng lên rõ rệt nhờ có sự đầu tư của các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung
ương đến điạ phương, các ngành tới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
chất lượng cán bộ nữ. Một số ngành và địa phương mạnh dạn giao việc cho
chị em tập sự dần từng bước, phân công cán bộ theo dõi giúp đỡ về phẩm chất
đạo đức, về phương pháp lãnh đạo, mở những cuộc tọa đàm trong từng loại
cán bộ để trao đổi kinh nghiệm.
Bên cạnh những thành tựu, không tránh khỏi hạn chế:
Thứ nhất, tuy đội ngũ cán bộ nữ phát triển khá nhanh nhưng nhìn chung
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Tỷ lệ cán bộ nữ
không đều ở các cơ quan trung ương, địa phương, các ngành… đặc biệt cán
bộ nữ là người dân tộc tăng không đáng kể. Một hiện tượng không bình
thường là có nhiều cơ sở đông nữ, hoặc hầu hết là nữ, tuy có thể đề bạt cán bộ

nữ tham gia lãnh đạo nhưng không những không đề bạt mà cũng chậm thuyên
chuyển từ nơi khác về. Trong các loại hình cán bộ thì cán bộ quản lý kinh tế
(đặc biệt trong nông nghiệp)đề bạt là khó khăn nhất. Ngay cả những đơn vị
nhỏ nhất là tổ, đội ngũ sản xuất rất phù hợp với trình độ của phụ nữ và rất cần


20

thiết có nữ làm lãnh đạo, nhưng tỷ lệ phụ nữ làm đội trưởng còn rất thấp
(trong các hợp tác xã nông nghiệp nữ đội trưởng sản xuất chỉ có 17,7%).
Thứ hai, việc đề bạt cán bộ nữ nói chung là đúng, việc cấp trên quy
định tỷ lệ cán bộ nữ tham gia vào các cấp lãnh đạo là cần thiết. Tuy nhiên, khi
vận dụng có nơi còn máy móc, rập khuôn không xuất phát từ tình hình thực tế
cụ thể của từng nơi không lựa chọn cho đúng tiêu chuẩn; sử dụng thiếu hợp
lý, không có ý đồ lâu dài và không có chuyên môn hóa cán bộ. Cán bộ nữ hay
bị thay đổi vị trí công tác dẫn tới không tích lũy được kinh nghiệm. Đã vậy,
khi giao việc cho cán bộ nữ thiếu quan tâm đến đặc điểm giới tính hoặc thể
lực, tâm sinh lý, gia đình, con cái nên hiệu quả chưa cao… Số cán bộ khoa
học kỹ thuật đã ít lại phân công không phù hợp với ngành nghề, thậm chí có
người bố trí làm những việc lao động giản đơn bỏ phí mất thời gian và kinh
phí đào tạo.
Thứ ba, công tác đề bạt, sử dụng cán bộ nữ còn có tư tưởng phong kiến,
hẹp hòi bảo thủ, coi thường dẫn tới cán bộ nữ ở nơi đó dù có khả năng vẫn
không được đề bạt. Ngoài ra còn có tư tưởng kèn cựa, địa vị được biểu hiện
dưới nhiều hình thức, khi thì gay gắt, thô bạo, khi thì rất tinh vi như đả kích,
chế diễu, không phục tùng nữ lãnh đạo, không hợp tác, giúp đỡ hoặc dồn việc
nhiều cho cán bộ nữ để đối phó hoặc thử sức. Nguy hiểm hơn có người còn
tìm cách lật đổ hoặc tung dư luận xấu về tư cách, nhân phẩm của cán bộ nữ
nhằm hạ thấp uy tín của họ.
Thứ tư, về chủ trương, phương hướng đề bạt cán bộ nữ trẻ là đúng

nhưng có một số nơi nhận thức chưa thỏa đáng về vấn đề này. Các đồng chí
lãnh đạo cấp trên chỉ nhìn vào thành tích đột xuất, chưa xem xét toàn diện,
đặc biệt về lý tưởng, động cơ phấn đấu hoặc bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ
chuyên môn đã vội đưa lên những chức vụ quá cao, đảm nhiệm những công
việc quá khả năng cho phép của cán bộ dẫn tới hậu quả là chị em không hoàn


21

thành nhiệm vụ, mất tín nhiệm trước quần chúng ảnh hưởng tới công tác cán
bộ nói chung của Đảng.
Thứ năm, bản thân cán bộ nữ còn tồn tại nhiều nhược điểm và gặp
những trở ngại nên đã hạn chế về việc tăng lương và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ nữ. Nhược điểm lớn nhất của cán bộ nữ là so với nhiệm vụ được
giao thì trình độ văn hóa, chuyên môn, năng lực quản lý (nhất là quản lý kinh
tế) của chị em nói chung còn thấp. Một yếu điểm khác của cán bộ nữ là: ở
một số nơi giữa cán bộ nữ thiếu sự thông cảm về hoàn cảnh cá nhân, gia
đình… để tạo điều kiện hỗ trợ động viên giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước được giao cho. Số cán bộ nữ làm công tác khoa học
kỹ thuật phần lớn được đào tạo sau hòa bình lập lại ở miền Bắc và là con em
các gia đình thành phần công nhân, nông dân, tri thức Xã Hội Chủ Nghĩa họ
chịu khó miệt mài học tập, nhưng do chất lượng đào tạo chưa cao, trình độ
ngoại ngữ kém, chưa tích lũy được kinh nghiệm nhiều cùng với cơ sở vậ chất
thiếu thốn dẫn tới việc nghiên cứu gặp khó khăn. Một số ít chị em có tư tưởng
an phận, thỏa mãn thiếu ý chí vươn lên trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Đất nước thống nhất, cả nước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội trong điều
kiện nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất, kỹ thuật vốn đã lạc
hậu lại chịu ảnh hưởng những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh xâm lược
kéo dài đã tác động không tốt đến điều kiện lao động, đời sống, sức khỏe và
quá trình học tập của phụ nữ. Những công trình phúc lợi tập thể thiếu, chất

lượng không tốt. Công tác dịch vụ, phân phối lưu thông còn thấp, tiêu tốn
nhiều thời gian và sức lực của chị em đã ảnh hưởng tới thời gian nghỉ ngơi,
chăm sóc cho bản thân và con cái… Những khó khăn về vật chất này dài suốt
từ sau năm 1975 đến trước khi Đảng ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới đã hạn chế
không nhỏ đến việc phát huy vai trò và khả năng của đội ngũ cán bộ nữ.


22

Công tác cán bộ nữ còn tồn tại một phần cũng là trách nhiệm của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Trong khi tình trạng cách mạng đã chuyển sang
một giai đoạn mới, nhưng những hoạt động của Hội chưa kịp chuyển về nội
dung và những biện pháp cụ thể nhằm phát huy vai trò, chức năng của Hội
trong hệ thống chuyên chính vô sản. Hoạt động của các cấp Hội thường bị
động, ôm đồm nhiều việc và chỉ huy động phụ nữ thực hiện những nhiệm vụ
cấp bách trước mắt. Cách làm việc của các cấp Hội thường bị bó hẹp trong hệ
thống ngành dọc của mình, chưa có nhiều hình thức biện pháp phối hợp với
các ngành khác để huy động lực lượng cán bộ nữ những ngành này phục vụ
cho phong trào phụ nữ. Các cấp Hội chưa biết dựa vào Hiến pháp và các luật
lệ, chủ trương, chính sách của Nhà nước để tuyên truyền giải thích cho chị em
hiểu rõ và phát huy vai trò của mình trong việc tham gia quản lý kinh tế, Nhà
nước. Trong sản xuất và đời sống của cán bộ nữ có nhiều khó khăn, thì Hội
chưa tập trung nghiên cứu, đề xuất kiến nghị với Đảng, Nhà nước nhằm giúp
đỡ cho cán bộ Hội khắc phục những khó khăn này để làm tốt hơn nhiệm vụ
được giao.
Hơn nữa về phía bản thân cán bộ nữ còn nhiều thiếu sót, chị em chưa tự
giải thoát khỏi những quan niệm phong kiến lạc hậu tồn tại từ bao đời nay, do
đó chưa dám mạnh dạn đấu tranh với những tư tưởng lệch lạc đó để đòi quyền
bình đẳng với nam giới trong gia đình cúng như bên ngoài xã hội. Do mất
nhiều thời gian và công sức việc gia đình nên đa số chị em chưa đầu tư thích

đáng thời gian, sức lực cho việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và hiểu biết xã hội… cho bản thân. Ngoài ra chị em còn có tâm lý
mặc cảm, tự ty và đố kỵ ngay trong cán bộ nữ với nhau cũng làm ảnh hưởng
đến khả năng vươn lên của cán bộ nữ.
Mặc dù vị trí và vai trò của phụ nữ được loài người ngày càng nhận
thức rõ, nhưng phải đến khi chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời thì vấn đề phụ nữ


23

mới được nghiên cứu một cách đày đủ, toàn diện nhất, Đảng Cộng sản Việt
Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức ý nghĩa quan trọng
trong việc động viên lực lượng to lớn của phụ nữ tham gia vào các phong trào
đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc. Chính từ sự nhận thức đúng đắn này là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của Đảng ta trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo từ khi phong trào phụ nữ từ khi Đảng ra đời đến khi kết thúc
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước đưa đất nước
quá độ lên CNXH. Những nội dung quan trong xuyên suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phong trào phụ nữ và cán bộ thời kỳ này được biểu hiện tập
trung trong Nghị quyết 152,153 của Ban Bí thư Trung ương (khóa IV), và chỉ
thị 44-CT/TW của Ban Bí thư (khóa V). Mặc dù ở những thời điểm khác nhau
với những nhiệm vụ chính trị không giống nhau nhưng các nghị quyết, chỉ thị
này đều tập trung phân tích vị trí, tầm quan trọng của phụ nữ, công tác cán bộ
nữ trong toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến trước
sự nghiệp đổi mới; các Nghị quyết, chỉ thị đã nêu lên những phương hướng
cơ bản mà các cơ quan phải thực hiện đẩy mạnh phong trào phụ nữ và công
tác các bộ nữ. Do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cùng với nhiều chính sách,
biện pháp tích cực của Chính phủ tạo điều kiện chi việc thực hiện và tạo cơ
hội cho công tác cán bộ nữ phát triển tương đối tốt. Có những giai đoạn ở
nhiều địa phương cán bộ nữ trở thành lãnh đạo chủ chốt, quyết định về đường

lối phát triển chính trị, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong công tác lãnh đạo
công tác cán bộ nữ, chúng ta còn có một số thiếu sót. Do yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp cách mạng nên có thời kỳ, Đảng chỉ tập trung chú trọng
đưa cho đủ số lượng, mà xem nhẹ việc bồi dưỡng, tạo điều kiện cho họ, nên
có tình trạng cán bộ nữ không hoàn thành nhiệm vụ được phân công phải điều
chuyển hoặc nghỉ công tác đã ảnh hưởng không tốt đến chính sách cán bộ của
Đảng. Phong trào phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng tuy có chiều hướng
phát triển tốt, song không đều ở các địa phương, bộ ngành và ở từng thời kỳ
cách mạng.


24

Chương 2
ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 1995)
2.1.

ĐƯỜNG LỐI CÁN BỘ NỮ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT

NAM (1986 – 1995)
2.1.1. Yêu cầu khách quan phải điều chỉnh chính sách cán bộ nữ
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V và các Nghị quyết của
Ban chấp hành Trung ương, nhân dân ta đã dành được những thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực, đặt cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới của đất
nước. Song cùng với những khó khăn khách quan chúng ta đã mắc một số sai
lầm chủ quan dẫn tới nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI (tháng
12-1986) của Đảng đã đánh giá đúng thực trạng của đất nước, từ đó xác định
mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng nhằm đưa sự nghiệp cách mạng nước ta

tiếp tục đi lên. Tìm hiểu nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm trong
lãnh đạo kinh tế - xã hội thời kì này Đảng ta cho rằng những sai lầm và
khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế -xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và trong công tác cán bộ Đảng. Đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân và “trong công tác tổ chức khuyết điểm
lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán
bộ vào cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kĩ và tiêu
chuẩn không đúng đắn, mang tính hình thức, không xuất phát từ yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của công việc, cách làm thiếu quy hoạch, chưa
chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng. Công tác quy hoạch và quản lí cán
bộ, đảng viên chưa chặt chẽ”[24, tr.27-28]. Từ những khuyết điểm trên đây
Đảng ta cho rằng: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng


25

nhất mà đảng phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách
mạng” và “đổi mới đội ngũ cán bộ có ý nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại,
đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ có đủ những tiêu
chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo… lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ
bố trí cán bộ”[24, tr.132]. Đặc điểm tình hình trên của đất nước cùng với thực
trạng, phương hướng và quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng về công tác cán
bộ nói chung là một trong những căn cứ để tìm hiểu chính sách cán bộ nữ nói
riêng của Đảng từ năm 1986 đến 1995.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về công tác cán bộ nữ thời kì này
được tập trung ở một số văn kiện. Sau khi Chỉ thị 44 CT/TW được thực hiện
tám năm, Ban Bí thư đã có công văn 161-CV/TW chỉ đạo các cấp ủy Đảng,
các bộ ngành, các địa phương khảo sát, đánh giá việc thực hiện công tác cán
bộ nữ ở đơn vị mình. Trong thời gian khảo sát, Bộ Chính Trị, Ban Chấp hành
Trung Ương Đảng (khóa VII) đã ra nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 12 – 71993 “Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình

mới”. Đây là một sự kiện quan trọng đối với phong trào phụ nữ trong cả nước
nói chung, cán bộ nữ nói riêng. Sau khi điểm lại vị trí, vai trò của phụ nữ Việt
Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Nghị quyết đã phân
tích “tình hình phụ nữ và công tác phụ nữ của Đảng”. Đảng ta cho rằng thời
gian qua các tầng lớp phụ nữ cả nước đã được phát huy truyền thống “Anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, để đoàn kết đổi mới, sáng tạo trong
lao động, công tác đạt được nhiều thành tích trong lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, phụ nữ là người phải gánh chịu nhiều thiệt thòi
nhấttrong khó khăn chung của đất nước.
Về công tác phụ nữ, Đảng chỉ rõ: từ sau đại hội phụ nữ toàn quốc lần
thứ VII, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Namđã từng bước đổi mới tổ chức, nội


×