Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Tính chất sử thi trong Hoàng Lê nhất thống chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.61 KB, 110 trang )

-1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________

BÙI TRÚC NGUYÊN

TÍNH CHẤT SỬ THI
TRONG HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


-2-

NGHỆ AN - 2012


-3-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________

BÙI TRÚC NGUYÊN

TÍNH CHẤT SỬ THI
TRONG HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS TRƯƠNG XUÂN TIẾU


-4-

NGHỆ AN – 2012

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận
được sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của Thầy Trương Xuân Tiếu, sự góp ý chân
thành của nhiều Thầy, Cô giáo giảng dạy trong khoa Ngữ Văn trường Đại học
Vinh, cùng người thân và bạn bè đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Trương
Xuân Tiếu – giáo viên trực tiếp hướng dẫn, xin được gửi đến các Thầy, Cô giáo
và bạn bè lời cám ơn chân thành nhất.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả

Bùi Trúc Nguyên


-5-


-6-


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

1
3
3

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát

10

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

11


6. Phương pháp nghiên cứu

11

7. Đóng góp của luận văn

11

8. Cấu trúc của luận văn

12

NỘI DUNG
Chương 1. Giới thuyết tính sử thi trong tác phẩm văn học
và giới thiệu khái quát về Hoàng Lê nhất thống chí

13

1.1. Giới thuyết tính sử thi trong tác phẩm văn học

13

1.1.1. Khái niệm sử thi và tính sử thi

13

1.1.2. Những biểu hiện của tính sử thi trong tác phẩm văn học

16


1.1.3. Điều kiện nảy sinh những tác phẩm văn học giàu tính sử thi

20

1.2. Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái

21

1.2.1. Vị trí Hoàng Lê nhất thống chí trong nền văn xuôi
Việt Nam trung đại
1.2.2. Vấn đề thể loại của Hoàng Lê nhất thống chí

21
23

1.2.3. Tư cách chứng nhân lịch sử của các tác giả
Hoàng Lê nhất thống chí

30


-7Chương 2. Việc bao quát toàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam
cuối thế kỉ XVIII trong Hoàng lê nhất thống chí

35

2.1. Tính biên niên của hệ thống sự kiện trong Hoàng Lê nhất thống chí

35


2.1.1. Khái niệm tính biên niên của hệ thống sự kiện

35

2.1.2. Những biểu hiện của tính biên niên trong việc miêu tả các sự kiện
lịch sử ở Hoàng Lê nhất thống chí

36

2.1.3. Tính kế thừa trong hoạt động sáng tạo của các tác giả Hoàng Lê
nhất thống chí

41

2.2. Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX trong Hoàng
Lê nhất thống chí

46

2.2.1. Sự sa đọa và sụp đổ của giai cấp thống trị

46

2.2.2. Sự băng hoại của các giá trị đạo đức

54

2.3. Phong trào Tây Sơn và sức mạnh quật khởi của dân tộc Đại Việt thời kỳ
cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX trong Hoàng Lê nhất thống chí 58

2.3.1. Sức mạnh của phong trào Tây Sơn

58

2.3.2. Sức mạnh quật khởi của dân tộc Đại Việt trước họa ngoại xâm 69
Chương 3. Việc tạo dựng chân dung các nhân vật lịch sử trong
Hoàng Lê nhất thống chí

75

3.1. Mối quan hệ giữa cái nhìn chính thống, thái độ khách quan sử học và
nghệ thuật xây dựng nhân vật sử thi trong Hoàng Lê nhất thống chí 75
3.3.1. Khái niệm nhân vật sử thi

75

3.3.2. Mối quan hệ giữa cái nhìn chính thống và việc xây dựng nhân vật
sử thi

76

3.3.3. Mối quan hệ giữa thái độ khách quan sử học và việc xây dựng nhân vật
sử thi
3.2. Một số hình tượng nhân vật sử thi tiêu biểu trong Hoàng Lê nhất

79


-8thống chí


83

3.2.1. Nhân vật Nguyễn Huệ - Quang Trung

83

3.2.2. Các nhân vật võ tướng Tây Sơn

92

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

99
101


-9MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mười thế kỉ văn học Việt Nam trung đại (thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX)
giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển văn
học dân tộc.Trong đó, ngay từ thế kỉ X, văn học viết Việt Nam đã có những bước
tìm tòi, khám phá phong phú, sáng tạo, trên cơ sở kế tục và phát huy nền tảng
của văn học dân gian. Những thành tựu đã đạt được của văn học trung đại Việt
Nam góp phần làm nên diện mạo cho văn học dân tộc. Trong hệ thống các thể
loại văn học trung đại Việt Nam, thể loại tiểu thuyết phát triển với số lượng tuy
ít, nhưng các tác phẩm đều đạt được những thành công nhất định về mặt nội
dung và nghệ thuật. Đó là bộ ba tiểu thuyết chương hồi Nam triều công nghiệp
diễn chí (còn gọi là Việt Nam khai quốc chí truyện) của Nguyễn Khoa Chiêm;
Tây Dương Gia Tô bí lục do các tác giả Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hòa Đường,

Nguyễn Bá Am, Trần Đình Hiến soạn; và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia
Văn Phái. Tiểu thuyết Việt Nam thời trung đại với đặc trưng như Trần Đình Sử
đã nhận định là: “hầu như không đề cập đến đề tài tình yêu, mà chỉ liên quan đến
đề tài lịch sử” [52;358]. Theo B.L.Ríptin, riêng với Hoàng Lê nhất thống chí thì
đề tài lịch sử “không phải là lịch sử quá khứ, mà là lịch sử đương đại của tác giả”
[3;359]. Nhận xét này rất phù hợp với cả ba bộ tiểu thuyết nêu trên và chỉ ra nét
độc đáo trong sự đối sánh tiểu thuyết trung đại với tiểu thuyết hiện đại.
1.2. Với sứ mệnh là người thư kí trung thành của thời đại, văn chương Việt
Nam thời trung đại đã phản ánh một cách chân thực và sống động từng trang sử
của dân tộc. Những tác phẩm thơ, kí, tiểu thuyết… giai đoạn này thấm đẫm hơi
thở của thời đại, ẩn chứa những tinh hoa cội nguồn dân tộc và chúng mang trong
mình một sức sống mạnh mẽ ngay từ buổi đầu dựng nước, góp phần đắc lực vào


- 10 việc hình thành nền móng vững chắc cho văn học giai đoạn sau phát triển và
hoàn thiện. Hệ thống thể loại tiểu thuyết Việt Nam trung đại được ghi nhận với
sự mở đầu của Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm; và dần
phát triển với Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất
thống chí là đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại, tác
phẩm đánh dấu bước phát triển mới trong văn xuôi tự sự của dân tộc. Đây là tác
phẩm duy nhất phản ánh phong trào Tây Sơn và phản ánh một cách chân thực
nhất. Như vậy, Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm không những chỉ có giá trị
về mặt văn chương, mà còn là tư liệu quý giá cho sử học. Chất văn, chất sử bàng
bạc khắp thiên truyện, hòa quyện với nhau tạo nên tính chân thực, sống động. Vì
lẽ đó, tác phẩm luôn được đánh giá cao ở mọi thời đại về tính lịch sử, cũng như
tính văn chương. Mặc dù mang đặc điểm của tiểu thuyết chương hồi được du
nhập từ Trung Hoa, nhưng thông qua việc tái hiện chân thực lịch sử Việt Nam
trong một giai đoạn quan trọng, cho nên tác phẩm cũng đồng thời mang những
đặc điểm của tiểu thuyết sử thi. Tính chất sử thi trong tác phẩm vì vậy được biểu
hiện một cách sinh động và hấp dẫn.

1.3. Từ trước tới nay, những công trình khoa học nghiên cứu về tác phẩm
Hoàng Lê nhất thống chí cũng đã xuất hiện khá nhiều, từ việc nghiên cứu về mặt
lý thuyết, cũng như đi sâu nghiên cứu về nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm
với đa dạng hướng nghiên cứu, và song song với việc so sánh tác phẩm cùng với
các tiểu thuyết chương hồi khác. Ở mỗi khía cạnh, các tác giả đã cố gắng khai
thác những thành tựu mà Hoàng Lê nhất thống chí đạt được; để góp phần vào
việc tiếp cận và giải mã những giá trị ẩn chứa bên trong tác phẩm. Tác phẩm
mang tính nguyên hợp cao, nên xuyên suốt tác phẩm là hơi thở thời đại. Đó là
thời đại của những biến động thăng trầm, thay vua đổi chúa và nhiều cuộc khởi
nghĩa nông dân đã nổ ra. Chân lí và sự thật lịch sử được các tác giả đảm bảo tái


- 11 hiện một cách chân thực nhất. Cũng vì lẽ đó, Hoàng Lê nhất thống chí được xem
là tác phẩm mang tầm quy mô sử thi; với vai trò một pho sử sống động của đất
nước giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX. Vì vậy, khai thác tính
chất sử thi trong tác phẩm là một hướng nghiên cứu hay, vì từ trước nay chưa
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề này.
Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài Tính chất sử thi trong “Hoàng Lê nhất
thống chí” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Hiện thực lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX
cùng với sự sa đọa về mặt đạo đức, sự sụp đổ của giai cấp thống trị đã trở thành
tiền đề quan trọng làm bùng nổ phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, mà đỉnh cao là
chiến thắng hơn hai mươi vạn quân Thanh của nghĩa quân Tây Sơn. Nghiên cứu
tác phẩm theo hướng khai thác chất sử thi từ hiện thực xã hội thời bấy giờ sẽ đưa
lại một cái nhìn toàn cảnh, bao quát lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII
và hiểu được ý nghĩa của việc tạo dựng chân dung các nhân vật lịch sử trong
Hoàng Lê nhất thống chí.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3.1. Trong lịch sử phát triển của văn học trung đại Việt Nam, tiểu thuyết sử

thi là thể loại có vị trí quan trọng, vì nó đưa lại cho độc giả một cái nhìn khách
quan về những vấn đề được đề cập. Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tiểu
thuyết văn xuôi chữ Hán có tính chất sử thi được khá nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Vì vậy, có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về tác phẩm ở nhiều
phương diện và đây cũng là con đường làm sáng tỏ và tiếp cận những giá trị
nghệ thuật, cũng như giá trị sử học của Hoàng Lê nhất thống chí. Dựa trên nguồn
tư liệu bao quát được và trong phạm vi quan tâm của đề tài, chúng tôi điểm lại
một số vấn đề cơ bản dưới đây.


- 12 3.2. Trên Tạp chí văn học số 1 năm 1978, Phạm Tú Châu bàn về “Những
nhân vật nữ trong Hoàng Lê nhất thống chí” và cho rằng “Hoàng Lê nhất thống
chí là cuốn sách viết về những sự kiện lịch sử thăng trầm - nói đúng hơn là sự
thăng trầm của một triều đại, bên cạnh đó là sự thay bậc đổi ngôi của một vài
triều đại khác, do đó, nhân vật nữ trong số rất nhiều nhân vật của cuốn sách hầu
hết đều thuộc tầng lớp trên” [5;38]. Những nhân vật nữ trong Hoàng Lê nhất
thống chí tập trung quanh ba chặng lịch sử: từ sự sa đọa của Trịnh Sâm đến sau
khi Trịnh Tông được lên ngôi chúa với Đặng Thị Huệ, Dương Thị Ngọc Hoan,
Trịnh Thị Ngọc Lan; thứ hai, từ sự kiện Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất với sự
xuất hiện một nhân vật nữ là công chúa Lê Thị Ngọc Hân; thứ ba là chặng đường
từ khi Lê Chiêu Thống bỏ chạy khỏi Thăng Long cho đến lúc chết nhục nhã ở
nước người với ba nhân vật nữ (mẹ, vợ thứ của Chiêu Thống, một người cung
nhân cũ của nhà Lê). Nhà nghiên cứu dành ngòi bút ưu ái để ngợi ca “một Ngọc
Hân mà tên tuổi đã vĩnh viễn được ghi trên những trang sử vẻ vang của nước ta
cùng với người chồng anh hùng Nguyễn Huệ và với tác phẩm Ai tư vãn bi tráng
nổi tiếng của nàng” [5;38]. Về những hồi đầu của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống
chí, Phạm Tú Châu tập trung phân tích “tính cách của những nhân vật nữ ở đây
bộc lộ rõ nét hơn, sinh động hơn, uyển chuyển hơn do phải đấu tranh, cọ xát với
nhau” [5;39].
3.3. Trên Tạp chí văn học số 2 năm 1984, nhà nghiên cứu người Nga B.L.

Ríptin đề cập đến “Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống của tiểu thuyết
Viễn Đông”. Tác giả đã nhìn nhận giá trị tác phẩm trong bối cảnh của truyền
thống văn học khu vực, đồng thời ông cũng đã nêu lên nét giống nhau, khác nhau
trên con đường phát triển của văn học thành văn của các quốc gia tiêu biểu trong
khu vực Viễn Đông. Tác giả cũng khẳng định rằng “số phận của tiểu thuyết được
định đoạt có phần hơi khác trong văn học Việt Nam” [3;40] và đề cập đến sự ra


- 13 đời tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí. Việc xác định thể loại tác phẩm là một
vấn đề rất phức tạp; và ông đưa ra một kết luận “có lẽ hợp hơn cả là dùng thuật
ngữ tiểu thuyết - biên niên sử để giải thích bản chất thể loại của tác phẩm này,
thuật ngữ có nghĩa là sự ghi chép tuần tự những sự kiện của cuộc sống đương
thời đang diễn ra trước mắt tác giả” [3;40]. Bên cạnh đó, ông cũng đi tìm câu trả
lời cho việc các tác giả dòng họ Ngô chọn hình thức tiểu thuyết chương hồi của
Viễn Đông để miêu tả những sự kiện bão táp của thời đại mình. Đó là sự “phù
hợp với phương châm mỹ học của tác giả đầu tiên trong nhóm là Ngô Thì Chí,
người mà rõ ràng có ý định xây dựng một tác phẩm văn xuôi nghệ thuật chứ
không phải là sự ghi chép bình thường các sự kiện như các nhà chép sử thường
làm” [3;40].
3.4. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Nhà xuất bản Đồng
Tháp, 1996, tác giả Phạm Thế Ngũ mô tả vắn tắt nội dung của 17 hồi và nêu lên
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đồng thời, tác giả cũng bàn về vấn đề tác phẩm
dù được biên soạn tập hợp lại, nhưng “sự thật lịch sử có thể coi là một điểm nhất
trí” [41;235] của tác phẩm. Bức tranh xã hội loạn lạc thế kỉ XVIII được các tác
giả nhìn nhận, phân tích và suy xét từ nhiều góc độ; đưa lại cho độc giả một cách
đánh giá cụ thể về hoàn cảnh xã hội của Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm
đảm bảo “theo sát sự thật lịch sử”, nhưng để hấp dẫn hơn “tác giả trình bày ra
theo lối tiểu thuyết, chia làm 17 hồi, mỗi hồi đầu có 2 câu thơ làm mào, cuối có 2
câu thơ kết thúc. Tự sự có đoạn mạch, trên dưới liên lạc, trước sau hồi cố, tình
tiết lại ly kỳ, đọc qua thấy phảng phất phong vị của một tiểu thuyết Tàu, tức như

bộ Tam quốc chí diễn nghĩa vậy” [41;226-227].
3.5. Trong Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ
Việt Nam, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1998, Nguyễn Xuân Hòa đề cập đến cơ sở
xã hội, thời đại, quan niệm thẩm mỹ của sự giao lưu; sự ảnh hưởng về phương


- 14 diện nội dung (tư tưởng; hình tượng nhân vật; đề tài chủ đề, cốt truyện; điển tích,
điển cố) và nghệ thuật (thể loại, kết cấu, xây dựng nhân vật). Theo Nguyễn Xuân
Hòa, “xét về mặt nghệ thuật Hoàng Lê nhất thống chí chịu ảnh hưởng thể loại
tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc” [20;53]. Trong lời giới thiệu bản dịch
Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô Tất Tố đã có một nhận xét khá chính xác: “Thể
tài của nó theo lối diễn nghĩa, mỗi hồi đều khởi bằng hai câu mào đầu và kết thúc
bằng hai câu thơ, giống như tiểu thuyết Tàu nhưng nội dung thì là một truyện
chí, chép toàn sự thật, không bịa đặt, không tây vị” [20;53].
3.6. Nguyễn Lộc trong Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII
đến hết thế kỉ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005, đã đề cập đến vấn đề lai lịch
của tác phẩm, bức tranh của xã hội phong kiến Việt Nam những năm nửa cuối
thế kỉ XVIII và bàn về nghệ thuật của Hoàng Lê nhất thống chí. Theo ông,
Hoàng Lê nhất thống chí là một ký sự lịch sử, tức là tác giả khẳng định khuynh
hướng hiện thực trong tác phẩm chính là vấn đề cốt lõi “Hoàn cảnh xã hội nước
ta những năm nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX có nhiều biến động sâu
sắc. Thích ứng với một đối tượng phản ánh đa dạng và biến động như vậy, trong
văn xuôi chữ Hán giai đoạn này xuất hiện một thể loại mới là ký sự. Các tác
phẩm như Thượng kinh ký sự, Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục, Công dư
tiệp ký, đều thuộc loại này. Trong số đó Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm ký
sự về lịch sử đồ sộ nhất và viết có nghệ thuật nhất” [31;241]. Các tác giả họ Ngô
đã đưa lại một cái nhìn tổng quát về hiện thực được đề cập, về sự thối nát và sụp
đổ tất yếu của triều đình Lê - Trịnh và chính sự sụp đổ đó là cơ sở làm bùng nổ
phong trào khởi nghĩa Tây Sơn.
3.7. Trong chuyên khảo Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những vấn

đề văn xuôi tự sự (tái bản, 2007), Nhà xuất bản Giáo dục, Nguyễn Đăng Na đã
đề cập đến quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật của tiểu


- 15 thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại. Trong đó, nhà nghiên cứu đã khẳng
định Hoàng Lê nhất thống chí “là một bước tiến dài trên con đường phát triển
tiểu thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam” [37;83]; và “phải đợi đến Hoàng Lê
nhất thống chí, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam mới thực sự hoàn thiện”
[37;88] trong sự đối sánh với Nam triều công nghiệp diễn chí và Thiên Nam liệt
truyện. “Với nhan đề Hoàng Lê nhất thống chí trước hết họ Ngô mặc nhiên
khẳng định tác phẩm của mình là sử không phải là văn, bởi lẽ chí là một trong ba
lối viết sử của thể kỉ truyện. Song, khi đọc, ta không khỏi ngạc nhiên nhận thấy
rằng, tác phẩm này không thuộc loại hình lịch sử, mà thuộc loại hình văn
chương; chẳng những thế, nó còn là tác phẩm văn chương đặc sắc” [37;88].
Đánh giá và nhận xét về thành công của Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyễn Đăng
Na cũng chỉ rõ bảy nét đặc sắc mà chỉ riêng tác phẩm của các tác giả họ Ngô mới
có được.
3.8. Trên Tạp chí giáo dục số 205 kì 1-1/2009, Trương Xuân Tiếu đề xuất
việc “Tiếp cận đoạn trích hồi thứ 14 viết về chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa
theo hướng khám phá đặc sắc nghệ thuật” trong Hoàng Lê nhất thống chí. Cùng
với việc khám phá hồi thứ 14, hồi đặc sắc nhất kể về một trong những biến cố vĩ
đại nhất của lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, tác giả đi vào tìm hiểu
nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Theo tác giả, ở hồi 14 này, có sự “kết
hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật kể chuyện với nghệ thuật tả cảnh chiến trận để thể
hiện nhân vật vua Quang Trung và nghĩa quân Tây Sơn” và “dưới ngòi bút của
nhà văn họ Ngô, hình tượng vua Quang Trung và đoàn quân Tây Sơn được thể
hiện thật đẹp đẽ. Đó là những người anh hùng yêu nước, ra trận trong tâm thế
chủ động, công đồn trong khí thế tiến công; và đã đánh bại quân Thanh xâm lược
bằng tinh thần quyết chiến quyết thắng, bằng tư thế hùng dũng, đứng trên đầu
thù. Vẻ đẹp của vua Quang Trung và của nghĩa quân Tây Sơn trong đoạn văn



- 16 này chính là vẻ đẹp của dân tộc ta giai đoạn cuối thế kỷ XVIII” [64;30]. Ngoài
ra, ở bài viết này, tác giả cũng đề cập đến nghệ thuật trào phúng, châm biếm
trong việc các tác giả họ Ngô thể hiện cảnh chạy trốn nhục nhã của bọn cướp
nước Tôn Sĩ Nghị và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống.
3.9. Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc (2011), tác giả Đinh
Phan Cẩm Vân đưa đến một góc nhìn chung nhất về ảnh hưởng của tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc đến tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Theo đó, những
ảnh hưởng được biểu hiện trong hệ tư tưởng tác giả là tư tưởng chính thống, bởi
các tác giả Việt Nam và Trung Quốc đều tôn trọng dòng dõi, huyết thống. Bên
cạnh đó, việc tiếp nhận nghệ thuật trần thuật và xây dựng hồi truyện ở Việt Nam
có sự đổi mới khi “xu hướng phát triển cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi
Việt Nam cũng theo quy luật nhân quả nhưng trong từng hồi không hoàn toàn
học tập cách làm của các nhà văn Trung Quốc” [67;150] và “điểm sửa đổi này
phản ánh xu thế phát triển từ tự sự truyền miệng sang hình thức thành văn”
[67;151]. Đồng thời, việc tiếp nhận hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết chương
hồi Việt Nam tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng “nó vừa tiếp thu truyền thống vừa có
những đổi mới cập nhật… Bước sang thế kỷ XVIII, văn học Việt Nam rất quan
tâm đến việc mô tả hiện thực. Hướng tới thực tại sẽ giúp cho văn chương rời xa
khuôn mẫu, tiền lệ, sáo mòn. Điều đó làm cho tiểu thuyết chương hồi lịch sử
Việt Nam có những điểm khác biệt so với tiểu thuyết chương hồi lịch sử Trung
Quốc” [67;164].
3.10. Trong những năm gần đây, Hoàng Lê nhất thống chí trở thành đề tài
nghiên cứu của nhiều luận văn, luận án. Năm 2004, Vũ Thanh Hà - trường Đại
học Vinh, với đề tài luận văn Tính nguyên hợp của tác phẩm “Hoàng Lê nhất
thống chí” đã đi sâu nghiên cứu một trong những đặc trưng của văn học trung
đại đó là hiện tượng “văn - sử - triết bất phân” được biểu hiện cụ thể qua tác



- 17 phẩm tiêu biểu là Hoàng Lê nhất thống chí. Với tác phẩm này, ranh giới “văn sử bất phân” rất rõ, nên từ lâu việc xác định thể loại cho tác phẩm rất khó, đi đến
kết luận có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Luận văn đã lần lượt làm sáng
tỏ vấn đề, trên cơ sở phân tích tính nguyên hợp của Hoàng Lê nhất thống chí
nhìn từ góc độ tác giả và nhân vật, góc độ thể loại, góc độ nội dung tư tưởng.
Năm 2007, trong đề tài luận văn “Hoàng Lê nhất thống chí” với lịch sử xã
hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Thị Chung Thủy, trường Đại học Vinh,
khẳng định: “Việc tìm hiểu Hoàng Lê nhất thống chí với hiện thực lịch sử xã hội
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII sẽ giúp ta không chỉ hiểu hơn về một quy
luật phát triển của văn học Việt Nam (mối quan hệ giữa văn học và lịch sử) mà
còn hiểu được sự đề cao khát vọng thống nhất dân tộc, đề cao chính nghĩa và sự
khẳng định sức mạnh đoàn kết dân tộc trong cuộc chiến đấu chống thù trong giặc
ngoài, cũng như tài năng nghệ thuật của các tác giả dòng họ Ngô Thì” [60;6-7].
Đồng thời, tác giả cũng đi sâu phân tích những nội dung nổi bật của lịch sử xã
hội lúc bấy giờ: đó là sự suy yếu, sụp đổ của tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh và
phong trào Tây Sơn được phản ánh trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Gần đây nhất là luận văn Nghệ thuật tự sự của “Hoàng Lê nhất thống chí”
(2010) của tác giả Nguyễn Thị Tâm, Đại học Vinh. Công trình nghiên cứu đưa
lại cho chúng ta một góc nhìn đầy đủ về nghệ thuật miêu tả sự kiện lịch sử, nghệ
thuật xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Và theo ý kiến của tác giả “Có thể nói rằng, được kết hợp khéo léo giữa khoa
học lịch sử và cảm hứng văn chương, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí đã đạt
đến trình độ mẫu mực của thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học Việt
Nam trung đại. Qua những thành công của Hoàng Lê nhất thống chí, đặc biệt là
nghệ thuật xây dựng cốt truyện, miêu tả sự kiện và nhân vật lịch sử, đã cho thấy
sự trưởng thành vượt bậc của các tác giả văn xuôi trung đại Việt Nam. Từ một


- 18 thể loại vay mượn của Trung Quốc, các nhà văn Việt Nam đã vận dụng để phản
ánh những vấn đề nóng bỏng của lịch sử dân tộc” [55;85-86].
Qua sơ bộ tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy tính chất

sử thi của Hoàng Lê nhất thống chí chưa được công trình nghiên cứu nào đề cập
đầy đủ. Vì vậy, ở luận văn này, vấn đề tính chất sử thi của Hoàng Lê nhất thống
chí sẽ được chúng tôi tập trung nghiên cứu, làm nổi bật.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tính chất sử thi được thể hiện trong Hoàng Lê nhất thống chí của
Ngô gia văn phái.
4.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí của các
tác giả thuộc dòng họ Ngô. Đây là tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán gồm 17 hồi
(bảy hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, sau nữa do Ngô Thì Du, Ngô Thì Thuyến
viết). Tác phẩm viết vào những năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX và bao
quát những biến cố lớn lao xảy ra trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi dựa trên bản dịch của Nguyễn Đức Vân và
Kiều Thu Hoạch [40], bởi đây là bản dịch có độ chính xác cao và được nhiều nhà
nghiên cứu sử dụng phổ biến.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, giới thuyết tính sử thi trong tác phẩm văn học và giới thiệu khái
quát về Hoàng Lê nhất thống chí.
Thứ hai, chỉ ra được tính sử thi trong Hoàng Lê nhất thống chí thể hiện qua
việc tác phẩm đã bao quát toàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII.


- 19 Thứ ba, chỉ ra được tính sử thi khá nổi bật qua việc tạo dựng chân dung các
nhân vật lịch sử trong Hoàng Lê nhất thống chí.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống - cấu trúc, Phương pháp loại hình;
Phương pháp so sánh - đối chiếu; Phương pháp phân tích - tổng hợp; Phương

pháp nghiên cứu liên ngành.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn tiếp cận Hoàng Lê nhất thống chí ở góc độ tính sử thi, từ đó xây
dựng cơ sở để nắm bắt được giá trị của tác phẩm một cách sâu sắc và toàn diện
hơn, nhất là giá trị về mặt sử liệu. Luận văn tập trung nghiên cứu bối cảnh xã hội
của thời đại có nhiều biến động với đa dạng những diễn biến, sự kiện cùng con
người gắn với những sự kiện đó. Vì vậy, với khả năng phản ánh bao quát toàn
diện như Hoàng Lê nhất thống chí, khai thác tính chất sử thi sẽ đưa lại một góc
nhìn cận cảnh về xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, đồng
thời giúp người đọc nắm bắt được giá trị toàn vẹn của tác phẩm cả về nội dung
lẫn nghệ thuật.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Giới thuyết tính sử thi trong tác phẩm văn học và giới thiệu khái
quát về Hoàng Lê nhất thống chí.
Chương 2. Việc bao quát toàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỉ
XVIII trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Chương 3. Việc tạo dựng chân dung các nhân vật lịch sử trong Hoàng Lê
nhất thống chí.


- 20 -

Chương 1
GIỚI THUYẾT TÍNH SỬ THI TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
VÀ GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
1.1. Giới thuyết tính sử thi trong tác phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm sử thi và tính sử thi
Sử thi là một thuật ngữ văn học bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ (épos, épic).

Trong 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng sử thi tồn tại với hai
nghĩa: theo nghĩa rộng, sử thi “cũng gọi là tự sự, là một trong ba thể loại văn
học, phân biệt với trữ tình và kịch”; theo nghĩa hẹp, “sử thi trỏ một hoặc một
nhóm thể loại trong tự sự, đó là sử thi anh hùng, tức là những thiên tự sự kể về
quá khứ anh hùng, hàm chứa những “bức tranh” rộng và hoàn chỉnh về đời sống
nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế giới sử thi nào đó,


- 21 thống nhất và hài hòa” [2;291]. Đồng thời, anh hùng ca là “tác phẩm tự sự cỡ
lớn, hoành tráng, chủ đề mang tính toàn dân, toàn dân tộc. Ở những thời kỳ phát
triển ban đầu của sáng tác ngôn từ, dạng thức phổ biến hơn cả là sử thi anh
hùng” [2;291] cũng nằm trong đặc điểm của sử thi.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học cho rằng: sử thi là “tác phẩm lớn
thuộc loại văn tự sự, miêu tả sự nghiệp của những người anh hùng và các sự kiện
lịch sử lớn (thiên sử thi)”; và là “tên gọi chung loại văn tự sự trong đó tính cách
và sự nghiệp được phát triển toàn diện trong một giai đoạn trọn vẹn nhất định
của cuộc đời nhân vật, của lịch sử xã hội” [69;877].
Từ điển thuật ngữ văn học (1992) đề cập đến khái niệm tiểu thuyết sử thi và
cho rằng “tiểu thuyết sử thi còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca. Tên gọi ước lệ
(ghép tên gọi thể loại “sử thi” - épopée với tên gọi “tiểu thuyết” - roman) để chỉ
những tiểu thuyết (từ thế kỉ XIX - XX) có dung lượng lớn, thể hiện những đề tài
lịch sử - dân tộc. Những tác phẩm này vừa là tiểu thuyết, đồng thời vừa có nhiều
thuộc tính gần gũi với thể loại sử thi cổ đại hoặc trung đại (tầm bao quát, tính
hoành tráng của sự kiện có tầm thời đại, cảm hứng dân tộc hoặc lịch sử, mô tả
các sự kiện và xung đột có tính chất bước ngoặt như chiến tranh cách mạng…)”
[19;285].
Từ điển văn học (bộ mới) định nghĩa: “Tiểu thuyết anh hùng ca, còn gọi là
tiểu thuyết sử thi. Thuật ngữ chỉ một loại hình của thể loại tự sự, là sự phát triển
tổng hợp, nâng cao và đổi mới của loại hình anh hùng ca dân gian cổ điển và loại
hình tiểu thuyết. Tiểu thuyết anh hùng ca phản ánh những sự kiện, những biến cố

lịch sử quan trọng, lớn lao và có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của một
nhân dân, một dân tộc. Đó là hiện thực lịch sử có ý nghĩa toàn dân. Trên cơ sở
của việc tái hiện đúng bản chất một giai đoạn lịch sử và miêu tả khá cụ thể về
sinh hoạt tư tưởng, tình cảm, đời sống xã hội, phong tục tập quán, tiểu thuyết anh


- 22 hùng ca gắn bó số phận những nhân vật của mình với sự kiện, biến cố lịch sử,
đặt số phận nhân vật trước câu hỏi, trước thử thách của lịch sử tạo thành mối liên
hệ quy định tất yếu của lịch sử đối với số phận nhân vật. Cảm hứng chủ đạo của
tiểu thuyết anh hùng ca là khẳng định sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng và chiến
công của nhân dân như là động lực của lịch sử” [46;1725].
Như vậy, thuật ngữ sử thi đã tồn tại nhiều cách hiểu; và từ những cách hiểu
trên, chúng tôi quy về hai cách hiểu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, ta có thể hiểu sử thi là thể loại văn học nảy sinh và phát triển vào
thời chế độ cộng sản nguyên thủy, tồn tại trong xã hội cổ đại, kéo dài đến thời
trung cổ và biến mất trong các giai đoạn tiếp theo. Như vậy, theo cách hiểu này,
thì sử thi là một “tử thể loại” thuộc về quá khứ xa xăm không trở lại, nó thuộc về
quá khứ tuyệt đối. Hêghen là đại diện tiêu biểu cho cách hiểu này; và ông cho
rằng sử thi xuất hiện vào những thời điểm thế kỷ của những anh hùng theo kiểu
của Asin, Đam San, Xinh Nhã…Bakhtin cũng có cách hình dung về sử thi tương
tự. Ông hình dung sử thi là những tác phẩm có trình độ cổ điển đến mẫu mực của
mọi thời đại, phải kể đến như Iliat, Ôđixê (Hi Lạp), trường ca Ramayana,
Mahabharata (Ấn Độ), Ilia Murometx (Nga), Đam San, Xinh Nhã (Việt Nam).
Theo Hoàng Mạnh Hùng: “những kiến giải của M. Bakhtin về thế giới nghệ
thuật sử thi, về “quá khứ tuyệt đối” của sử thi cũng cho thấy nhà bác học có cách
hình dung về sử thi tương tự” [23;15].
Thứ hai, theo ý kiến của giáo sư Nga G.N.Pôxpêlôp, sử thi là một loại hình
văn học ưu tiên cho đề tài lịch sử dân tộc và tồn tại trong suốt tiến trình văn học
[23;16]. Với cách hiểu này thì sử thi trở thành một văn mạch; và mỗi một thời
đại đều có một sử thi cho riêng mình. Chẳng hạn nền văn học thế giới sẽ có sử

thi cổ đại, sử thi trung đại, sử thi hiện đại.


- 23 Trong hai cách hiểu trên, cách hiểu thứ hai hợp lí hơn và được nhiều người
chấp nhận hơn. Ta có thể lí giải điều này, bởi quan niệm ấy cho phép các tác
phẩm dù thuộc thể loại nào, nếu chúng mang nội dung lịch sử dân tộc và có hình
thức biểu đạt tương ứng, thì đều có thể coi là văn học sử thi. Mỗi giai đoạn phát
triển của văn học sẽ tồn tại những tác phẩm sử thi tương ứng với thời đại của
riêng nó; và văn học sử thi của giai đoạn trước sẽ được văn học sử thi giai đoạn
sau tiếp nối, phát triển trong sự chuyển mình vận động của lịch sử dân tộc.
Về bản chất, sử thi ở đây được hiểu là khuynh hướng ưu tiên cho vấn đề
dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa địch - ta, vấn đề xây dựng con người tiêu biểu cho
ý chí và phẩm chất cao đẹp của dân tộc.
Theo một số tài liệu, sử thi anh hùng còn lại trong văn học tồn tại dưới dạng
các thiên anh hùng ca cỡ lớn, được ghi chép thành sách như Iliat, Ôđixê,
Mahabharata, Ramayana; dưới dạng truyền miệng như sử thi Đam San, Đẻ đất
đẻ nước; hoặc các bài sử thi ngắn Bulina của Nga, Junas của Nam Tư. Chúng ta
thường thấy các tác phẩm dưới dạng bài ca và lời thơ hòa lẫn vào nhau, ít khi
thấy tác phẩm ở dạng văn xuôi.
1.1.2. Những biểu hiện của tính sử thi trong tác phẩm văn học
1.1.2.1. Tinh thần dân tộc trong trạng thái sử thi của tác phẩm văn học
Vấn đề nổi bật hàng đầu ở mọi thời đại, mọi quốc gia, lãnh thổ đó chính là
ý thức dân tộc nảy sinh trong những thời điểm đặc biệt, mà ta có thể gọi là tinh
thần dân tộc trong trạng thái sử thi. Hêghen đã phân tích rằng: “Khi một thể chất
xã hội đạt tới một hình thái độc đáo, trong đó nền tảng của sự phục tùng không
phải do một uy quyền thuần túy mà là một tinh thần danh dự, sự tôn trọng, thái
độ xấu hổ trước người có quyền lực đặc biệt hơn thì mới xuất hiện sử thi” [17;
583]. Mọi tác phẩm sử thi đều nảy sinh và hình thành khi ý chí của cộng đồng và
mục đích lớn lao mang tính lý tưởng của mọi con người trong cộng đồng đó



- 24 được đặt lên hàng đầu. Trong những thời điểm then chốt, vấn đề lịch sử - dân tộc
được đưa lên hàng đầu, vận mệnh dân tộc, danh dự quốc thể được quan tâm hơn
là vấn đề thuộc về quan hệ và số phận cá nhân. Dân tộc là một trong những vấn
đề mấu chốt thúc đẩy ý thức cộng đồng trỗi dậy trong những hoàn cảnh đặc biệt
của dân tộc và đây cũng là cơ sở tạo nên tính sử thi của tác phẩm văn học.
1.1.2.2. Tập trung thể hiện xung đột cộng đồng
Mỗi loại hình văn học có một loại xung đột và việc tái hiện những xung đột
trở thành đặc trưng của văn học. Chẳng hạn để phân biệt thần thoại, ta căn cứ
vào xung đột giữa con người với thiên nhiên. Còn cổ tích có yếu tố hoang
đường, lại có thêm yếu tố thiên nhiên, nhưng thiên nhiên không phải là đối tượng
để phản ánh mối quan hệ con người với thiên nhiên. Xung đột chính của cổ tích
là giữa con người với con người, giữa con người với các thế lực mang yếu tố
hoang đường. Với sử thi, xung đột cộng đồng được xác định là xung đột cơ bản
của một dân tộc, một tập thể người. Sử thi Ấn Độ đã tái hiện xung đột giữa
người Hi Lạp và người Tơroa, loại xung đột như vậy được gọi là xung đột sử thi.
Như vậy, “xung đột cộng đồng chính là nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ
tương tác giữa hình tượng trong tác phẩm sử thi” [13;299]. Chúng ta có thể thấy
những biểu hiện của xung đột cộng đồng như sau:
Thứ nhất, xung đột cộng đồng tiêu biểu nhất là xung đột giữa các cộng
đồng dân tộc” [13;299]. Hêghen đã có một sự phân biệt rất sâu sắc ở chỗ cho
rằng những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc xa lạ thì mới có tính sử thi “Thực
vậy, trong chiến tranh chính là toàn bộ dân tộc đang vận động. Nó bị kích thích
phải hành động bởi vì nó phải bảo vệ toàn bộ dân tộc mình” [17;594]. Cuộc
chiến giữa một bên xâm lược với một bên bảo vệ độc lập chủ quyền mang tính
sử thi, còn cuộc chiến tranh mang tính chất nội chiến không mang tính sử thi, bởi
nó là sự tranh giành quyền lực trong nội bộ, chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống một


- 25 dân tộc với mục đích củng cố quyền lực thống trị, trong đó, dân tộc không hưởng

được quyền lợi gì.
Thứ hai, xung đột cộng đồng được biểu hiện qua xung đột giữa con người
trong cộng đồng đối với thế giới tự nhiên. Sử thi Đam San là một biểu hiện, nó
phản ánh mơ ước và sự nghiệp chinh phục tự nhiên của con người Tây Nguyên.
Xét rộng ra, tự nhiên luôn luôn là đối tượng để con người luôn mơ ước khám phá
và trong chừng mực nào đó, họ muốn chinh phục, chế ngự tự nhiên và xung đột
vì vậy mang tầm vóc của sử thi.
Thứ ba, xung đột sử thi cũng được xếp vào dạng mang tính chất thời đại.
Nói như Hêghen, xung đột dân tộc không chỉ nhân danh dân tộc, mà nó còn diễn
ra “nhân danh một đòi hỏi có tính toàn nhân loại và có tính chất lịch sử mà mọi
dân tộc đưa ra với một dân tộc khác” [17;595]. Đó là xung đột giữa tiến bộ và
lạc hậu trong xã hội.
Tóm lại, xung đột sử thi tồn tại nhiều dạng phong phú, nhưng tất cả đều là
xung đột trên những vấn đề thuộc về quyền lợi của cả cộng đồng dân tộc to lớn;
được toàn thể cộng đồng quan tâm và kết quả của việc giải quyết xung đột đó
ảnh hưởng to lớn đến quyền lợi, danh dự và vị thế của cả cộng đồng. Yếu tố
cộng đồng ảnh hưởng và chi phối nội dung được phản ánh trong sử thi; và có thể
thấy rằng, xã hội càng phát triển thì nội dung của xung đột sử thi càng được mở
rộng về bình diện và chất lượng phản ánh.
1.1.2.3. Tập trung xây dựng nhân vật cá nhân anh hùng và nhân vật nhân
dân anh hùng
Sử thi tập trung phản ánh những vấn đề nóng bỏng của thời đại, nên kiểu
nhân vật được đưa lên bình diện hàng đầu trong sử thi là nhân vật cá nhân anh
hùng và nhân vật tập thể nhân dân anh hùng. Bởi “đây là hai kiểu nhân vật có ý
nghĩa loại hình tiêu biểu của thế giới nghệ thuật sử thi” [13;300].


×