PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU
Thực tiễn những năm đổi mới kinh tế ở nước ta cho thấy, việc chuyển sang
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cớ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước là một chủ trương vô cùng đúng đắn, nhờ đó mà khai thác được
tiềm năng kinh tế trong nước, đi đôi với thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ nước ngoài,
giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất xã hội, góp phần quyết định bảo đảm tăng
trưởng của nền kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.
Đối với đất nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa trong điều kiện lực lượng sản xuất, phục vụ và nâng cao đời sống nhân
dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường, vận dụng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương
pháp quản lý kinh tế của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh
thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh.
Trong thời đại ngày nay kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều
cần sự quản lý của nhà nước không để bàn tay vô hình của cơ chế thị trường chi phối,
bởi ở nước ta: Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân, do Đảng
lãnh đạo bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Ở nước ta nhà nước quản lý nền kinh
tế thị trường theo nguyên tắc kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với
tính năng động và nhạy cảm của thị trường và cơ chế thị trường. Bởi vì kế hoạch và
thị trường đều là công cụ phương tiện để phát triển kinh tế, quản lý của nhà nước là
để phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường.
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng trong tình hình và bối cảnh trên
thế giới, khu vực và của đất nước ta những năm qua và trong những năm tới có rất
nhiều thuận lợi cũng như khó khăn thách thức của cơ chế thị trường khi đất nước ta
mở cửa hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến và hiện đại, trong khi chúng ta mới
đang trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, khoa học kỹ thuật chưa
phát triển,những yếu tố đó ít nhiều tác động ảnh hưởng đến cơ sở địa phương trong
cơ chế nền kinh tế thị trường hiện nay.
1
Để đạt được mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển đưa đời sống nhân dân
đến ấm no hạnh phúc thì mỗi địa phương cơ sở phải thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông thôn, vận dụng tốt cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước. Từ đó thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với chức năng nhiệm vụ phân công là là một cán bộ cơ sở trực thuộc xã quản
lý, trong công tác luôn gắn liền với địa phương, qua nghiên cứu công tác quản lý nhà
nước về kinh tế tôi nhận thấy: Cần phải vận dụng tốt các quan điểm đường lối của
Đảng về quản lý nhà nước về kinh tế từ đó vận dụng thực tế vào địa phương, cùng
với các cán bộ công chức, các ngành, các Hợp tác xã thực hiện tốt các chỉ tiêu phát
triển kinh tế của xã đi đúng định hướng của Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt chức năng
quản lý điều hành để phát triển nền kinh tế của dịa phương.
Sau khi được học tập nghiên cứu tôi đã nhận đề tài
( Quản lý nhà
nước về kinh tế của chính quyền xã ).
Từ đề tài này tôi sẽ vận dụng quan điểm đường lối của Đảng trong việc tham
mưu với các cấp lãnh đạo xây dựng nền kinh tế của nước ta vào thực tiễn của xã Lê
Ninh, đánh giá được những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được, những thiếu
sót khuyết điểm và phương hướng giải pháp cho nhiệm vụ phát triển kinh tế của xã
trong những năm tiếp theo.
phần thứ II : nội dung
I- một số vấn đề chung quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1- Khái niệm: Quản lý nhà nước là sự tác động của các cơ quan nhà nước có
chức năng, thẩm quyền tới các quá trình kinh tế - xã hội, bằng hệ thống công cụ có
tính chất nhà nước, nhằm đạt mục tiêu đã định.
Từ khái niệm trên thì chủ thể quản lý là các cơ quan nhà nước có chức năng
thẩm quyền nhất định, được luật pháp qui định, điều này đòi hỏi cơ quan quản lý phải
hoạt động đúng chức năng, thẩm quyền không được vượt quá thẩm quyền, không sai
2
chức năng, nhờ đó các văn bản ban hành mới có hiệu lực pháp lý, ngược lại sẽ vô
hiệu và gây ra sự rối loạn trong quản lý.
Cũng như các lĩnh vực khác, quản lý nhà nước nói chung, quản lý vĩ mô của
nhà nước nói riêng bao gồm các hệ thống, các cơ quan quản lý của nhà nước, có chức
năng thẩm quyền nhất định được phân chia thành các khẩu, các cấp, đối tượng quản
lý là các quá trình kinh tế - xã hội với sự vận động phát triển không ngừng.
Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách, biện pháp để tác động điều chỉnh,
dẫn dắt định hướng các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt mục tiêu nhà nước đề ra.
Hệ thống công cụ tác động mang tính nhà nước, nghĩa là có tính pháp luật bằng
luật pháp, bằng văn bản dưới luật, bằng các chính sách có hiệu lực pháp lý nhất định.
Do đó trong quản lý nhà nước ngoài tác động giáo dục, thuyết phục, động viên, việc
bắt buộc tuân thủ luật pháp là một tất yếu.
Quản lý vĩ mô của nhà nước: Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước được chia
thành các cấp khác nhau từ Trung ương đến cơ sở (xã, phường), các cơ quan này đều
có chức năng quản lý nhà nước, song khác nhau ở thẩm quyền và phạm vi địa giới
hành chính.
ở cấp Trung ương nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, đó là hoạt động điều hành
của các cơ quan nhà nước Trung ương đối với các quá trình kinh tế - xã hội thuộc
phạm vi cả nước, nhằm đạt mục tiêu chung của cả nước, quản lý vĩ mô của nhà nước
có đặc điểm tác động của nhà nước vừa rộng khắp cả nước, vừa có tính tổng hợp liên
quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống như kinh tế - xã hội, tâm lý, an ninh... vừa có
tính tác động dài hạn.
Quản lý nhà nước ở cấp cơ sở một mặt không trái pháp luật và quy định của cơ
quan nhà nước cấp trên, mặt khác chỉ tác động trong phạm vi địa giới hành chính của
cơ sở và mang tính tác nghiệp.
2- Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quản lý nhà nước nói chung, đặc biệt quản lý vĩ mô của nhà nước ta trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, vì nhà
nước ta là đại diện cho sở hữu công cộng và nắm giữ tài sản cho toàn dân là chủ thể
quản lý cao nhất đối với các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.
3
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại làm nảy sinh nhiều
vấn đề đòi hỏi nhà nước và chỉ nhà nước mới có chức năng thẩm quyền thực hiện giải
quyết.
Sự đa dạng về sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi nhà nước
phải tăng cường vai trò quản lý.
Toàn cầu hoá, Quốc tế hoá nhiều lĩnh vực đòi hỏi nhà nước phải tăng cường
vai trò quản lý của mình.
Những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường như : Độc quyền, phân hoá giàu
nghèo, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, tệ nạn xã hội nảy sinh... đòi hỏi
phải tăng cường vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi nhà
nước ta phải tăng cường quản lý vĩ mô, nhằm đảm bảo sự vận động, phát triển kinh tế
- xã hội cho phù hợp với bản chất và theo quỹ đạo đã được Đảng ta, Nhà nước ta lựa
chọn, đó là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phù hợp với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá có tính hiện vật, bao
cấp khép kín sang kinh tế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá mở cửa và hội
nhập, từ cơ chế kế hoạch hoá bằng mệnh lệnh hành chính tập trung cao độ sang vận
hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực tế cũng đã
cho thấy kinh tế thị trường đã và đang thâm nhập vào mọi khía cạnh, mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội.
3- Chức năng quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế được quy định bởi yêu cầu khách quan
của nền kinh tế, việc thực hiện và phát huy các chức năng đó đến đâu là do bản chất
của nhà nước, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và do tình hình kinh
tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử quy định, nhận rõ chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế, từ chức năng và sắp xếp bộ máy, bố trí nhân sự trước đây trong cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp. Nhà nước nắm toàn bộ nền kinh tế và không chỉ thực hiện
toàn bộ các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế mà còn làm cả chức năng trực tiếp
quản lý sản xuất, can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nay
4
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rất nhiều công việc
hoạt động kinh tế do thị trường và xã hội đảm nhiệm, nhà nước chỉ tập trung thực
hiện những chức năng quản lý chủ yếu nhất mà thị trường và xã hội không làm được,
không được làm và không làm tốt. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế cũng
không cố định mà có sự phát triển, tuy nhiên các chức năng cơ bản vẫn ít thay đổi
trong điều kiện cụ thể, do mục tiêu và những điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì vai
trò và thứ tự ưu tiên của các chức năng cũng có sự thay đổi nhất định.
Đại hội IX của đảng đã nhấn mạnh các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
"Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh
tranh và hợp tác để phát triển, bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách,
kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế
- xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền
kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh
theo quy định của pháp luật".
Như vậy, nhà nước có các chức năng quản lý cơ bản, tạo môi trường định
hướng, tổ chức, điều tiết kiểm tra, tuỳ theo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị và
kinh tế - xã hội của từng giai đoạn mà việc sắp xếp thứ tự ưu tiên và nội dung các
chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước về kinh tế bao gồm.
Một là: Chức năng tạo lập môi trường.
Với chức năng này, bằng quyền lực và sức mạnh tổ chức của mình nhà nước
bảo đảm một môi trường thuận lợi, bình đẳng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bao
gồm các môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, tâm lý, xã hội, kết cấu hạ tầng... là
những điều kiện cần thiết để các giới kinh doanh yên tâm bỏ vốn kinh doanh và kinh
doanh thuận lợi ổn định phát đạt, góp phần phát triển có hiệu quả kinh tế đất nước với
chức năng này nhà nước có vai trò như một là "Đỡ" giúp cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do, bình đẳng trong kinh doanh.
Nói cách khác, nhà nước có chức năng tạo ra các dịch vụ công về môi trường chính
trị, pháp lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều kiện kinh doanh, thông tin an toàn xã hội
5
phục vụ cho xã hội, trong cơ chế thị trường, muốn có thị trường sản xuất - kinh doanh
ổn định tiến bộ, cần phải có bàn tay của nhà nước từ việc ban hành và bảo đảm thi
hành pháp luật đến bảo đảm các điều kiện và nguyên tắc cơ bản như quyền sở hữu, tự
do kinh doanh, xử lý tranh chấp theo pháp luật, đảm bảo một xã hội lành mạnh có
văn hoá.
Hai là: Chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế.
Đây là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta,
điều này bắt nguồn từ hai lý do.
Trước hết, trong qúa trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần định hướng cho các lực lượng kinh tế vận động theo
quỹ đạo của nhà nước ta, theo con đường xã hội chủ nghĩa, mặt khác kinh tế thị
trường có đặc điểm là tự do phát triển sản xuất kinh doanh, nếu không định hướng,
hướng dẫn, đặc biệt trong quá trình chuyển đổi sẽ để tự phát vô tổ chức, nổi loạn, hơn
nữa nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh, nhưng không thể
nắm được hết tình hình và xu hướng vận động của thị trường. Do đó thường chạy
theo thị trường một cách thụ động, dễ gây ra thua lỗ thất bại và đổ vỡ , gây thiệt hại
chung cho nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo
quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước có
chức năng định hướng phát triển kinh tế, hoạt động hướng đích theo các mục tiêu
chung của đất nước, thông qua các công cụ như: chiến lược, quy hoạch, chính sách,
kế hoạch, thông tư và nguồn lực của Nhà nước. Điều cần chú ý là trong điều kiện
chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta, để thực hiện chức năng định hướng,
hướng dẫn Nhà nước chủ yếu sử dụng cách thức và phương pháp tác động gián tiếp
mang tính chất mềm dẻo, uyển chuyển vừa đảm bảo tính tự chủ của các cơ sở kinh tế,
vừa đảm bảo mục tiêu chung. Cách thức tác động gián tiếp, một mặt cho phép tôn
trọng các quy luật của thị trường, mặt khác tạo ra cơ chế cho phép đối tượng quản lý
gồm các cấp dưới và các doanh nghiệp tự lựa chọn giải pháp tối ưu nhất, hiệu quả
nhất.
Ba là: chức năng tổ chức
Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý Nhà nước nền kinh tế, đặc
biệt trong thời kỳ quản lý kinh tế. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường như
6
hiện nay của nước ta, Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp tổ chức lại các đơn vị kinh tế.
Trong đó quan trọng nhất và cấp thiết nhất là sắp xếp củng cố lại các doanh nghiệp
Nhà nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đây là
những công việc tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức
lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế từ TW đến
cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp các cán
bộ công chức quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập quan hệ kinh tế
với các nước và các tổ chức quốc tế.
Bốn là: Chức năng điều tiết
Trong quá trình điều hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước
vừa tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phát huy
mặt tích cực của cơ chế thị trường vừa điều tiết chi phối thị trường hoạt động theo
định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có
hiệu quả. Để điều tiết, Nhà nước sử dụng hàng loạt biện pháp bao gồm: các chính
sách, các đòn bẩy kinh tế, các công cụ tài chính, thuế, tín dụng.
Năm là: Chức năng kiểm tra
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự, kỷ
cương trong hoạt động kinh tế, phát triển và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp
luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần
tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội. ở nước ta, trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường còn sơ khai, tình trạng rối loạn tự phát, vô tổ
chức và các hiện tượng tiêu cực còn khá phổ biến có lúc rất trầm trọng nên càng cần
phải đề cao chức năng kiểm tra kiểm soát của Nhà nước.
4- Nội dung quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN: (gồm các nội dung sau)
- Xây, tạo lập môi trường vĩ mô như luật pháp, thể chế, chính sách quốc gia về
kinh tế (tài chính, ngân hàng, thuế, tiền tệ) xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội; quy hoạch kế hoạch dài hạn các chương trình phát triển cấp quốc gia ... theo định
hướng của Nhà nước.
7
- Xác định nguyên tắc, tiêu chuẩn, mô hình tổ chức và chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế. Xây dựng chiến lược đào tạo,
sử dụng đội ngũ công chức quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế.
- Bảo đảm các thông tin cơ bản về kinh tế quốc gia, thông tin quốc tế liên quan
đến các hoạt động kinh tế - xã hội cả nước.
- Kiểm soát, giám sát, thanh tra và xử lý các vi phạm theo chức năng thẩm
quyền được pháp luật quy định.
Như vậy, quản lý vĩ mô của Nhà nước tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, tạo
điều kiện, môi trường cho tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội ở phạm vi quốc gia.
Nhà nước, TW không can thiệp trực tiếp, không can thiệp sâu vào quản lý Nhà nước
cấp cơ sở và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
5- Các chính sách và công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước:
- Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi kinh tế thuận lợi trong nền kinh tế
thị trường, các chủ thể kinh tế thị trường nhưng quyền chủ thể được thể chế hoá thành
pháp luật và mọi hành vi đều được theo đúng pháp luật. Do đó nhà nước ban hành hệ
thống pháp luật kinh tế đồng bộ, bảo toàn mọi hoạt động kinh tế.
- Nhà nước tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu
hạ tầng sản xuất (Mà quan trọng nhất là giao thông vận tải, thông tin liên lạc), kết cấu
hạ tầng xã hội (Trong đó quan trọng hàng đầu là giáo dục đào tạo) và các dịch vụ
công cộng khác như đảm bảo an ninh, tài chính tín dụng.
- Nhà nước soạn thảo kế hoạch quy hoạch các chương trình phát triển kinh tế
xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể kinh tế thực hiện, các kế
hoạch quy hoạch và các chương trình bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế như ưu
đãi về thuế, về lãi xuất cho vay cho những ai đầu tư vào các ngành, những vùng mà
nhà nước cần ưu tiên phát triển.
- Nhà nước thực hiện các chính sách,biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh
tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội, thực hiện các chính sách xã hội hướng vào
phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối tạo động lực
mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng
trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp và đi đôi với
chương trình xoá đói giảm nghèo.
8
- Hệ thống công cụ tác động mang tính nhà nước.
Có tính pháp luật bằng luật pháp, bằng văn bản dưới luật, bằng các chính sách
có hiệu lực pháp lý nhất định. Do đó trong quản lý nhà nước ngoài tác động giáo dục,
thuyết phục động viên việc bắt buộc tuân thủ pháp luật là tất yếu ở cấp cơ sở, việc
ban hành quy chế nội quy quy định trong quản lý, điều hành hoạt động kinh tế chính
trị trên địa bàn.
6- Quản lý về kinh tế ở cấp cơ sở (xã - phường).
Quản lý Nhà nước ở cơ sở có các nội dung sau:
- Xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thuộc chức
năng thẩm quyền của xã, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển của quốc gia,
chiến lược phát triển của Nhà nứơc cấp trên (Huyện - Tỉnh) và phù hợp với điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống tiềm năng mọi mặt của cơ sở.
- Xây dựng nội quy, quy chế cho địa bàn phù hợp với luật pháp Nhà nước TW
và các quy định chính sách nhà nước cấp trên.
Giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, xây dựng phúc lợi công cộng xã,
phường.... phù hợp với pháp luật nhà nước.
Quản lý các hoạt động kinh tế, các công trình công cộng được giao thu thuế
(được giao, được uỷ quyền) quản lý chợ, quản lý các hoạt động văn hoá xã hội trên
địa bàn.
Như vậy: Quản lý nhà nước nói chung, về kinh tế nói riêng từ cấp vĩ mô đến cơ
sở đều có chung chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, song khác nhau ở thẩm
quyền, nhà nước Trung ương tập trung xác định, xây dựng thể chế luật pháp, chính
sách Quốc gia, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tạo dựng môi trường và hướng
vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô cần đạt. Quản lý nhà nước cấp cơ sở tập trung vào xây
dựng các quy chế, nội quy và thực hiện các thể chế chính sách Quốc gia nhằm phát
triển kinh tế - xã hội phục vụ đời sống dân sinh tren địa bàn thuộc thẩm quyền xã và
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước cấp trên giao hoặc uỷ quyền.
Nói chung: Nhà nước từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở hướng vào thực hiện
chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế với thảm quyền và mục tiêu cần
đạt ở mỗi cấp khác nhau, Nhà nước không trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, cơ
9
quan quản lý Nhà nước về kinh tế không được "vừa là trọng tài, vừa là cầu thủ" trên
sân chơi thị trường.
6- Nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế của UBND xã.
Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình HĐND cùng cấp
thông qua để trình UBND huyện phê duyệt tổ chức thực hiện kế hoạch đó.
Lập dự toán thu chi ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, dự toán điều
chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết toán ngân sách
địa phương trình HĐND cùng cấp quyết định và báo cáo UBND, cơ quan tài chính
cấp trên trực tiếp.
Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước
cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã và báo cáo về ngân
sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu
cầu công ích ở địa phương, xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường
giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện nước theo quy định của pháp
luật.
Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng của xã trên nguyên tắc dân chủ tự nguyện, việc quản lý các
khoản đóng góp này phải công khai có kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng
mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật.
Tổ chức việc hướng dẫn và thực hiện các chương trình kế hoạch đề án khuyến
khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ để phát triển sản
xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, trong sản xuất
theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối với cây trồng và vật
nuôi.
Tổ chức xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ, thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê
điều, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, ngăn chặn kịp thời những
hành vi, vi phạm pháp luật, bảo vệ đê điều.
10
Tổ chức hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành nghề truyền thống ở
địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ để phát triển
các ngành nghề mới.
II- thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế ở xã Lê Ninh - huyện kinh môn tỉnh hải dương hiện nay.
1- Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội của xã.
Xã Lê Ninh nằm ở phía bắc huyện Kinh Môn, phía bắc giáp xã huyện Chí Linh
, phía đông giáp xã Bạch Đằng, phía tây ,nam giáp xã Phúc Thành sông kinh Thầy,
đường tỉnh lộ 186 đi qua nối liền giữa Hải Dương và Quảng Ninh nằm trong vị trí địa
lý thuận lợi hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện cho việc giao lưu các hoạt động
thương mại do vậy đã tạo đièu kiện thuận lợi cho phát triển văn hoá - xã hội của địa
phương.
Xã Lê Ninh với diện tích tự nhiên là 1212,11 ha, diện tích canh tác là 488,65
ha, xã có 5 thôn,2141 hộ,7585 nhân khẩu , có 10 chi bộ Đảng với tổng số Đảng viên
là 182 đ/c.
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của BCH Đảng bộ - HĐND UBND huyện Kinh Môn, với tinh thần đoàn kết nhất trí cao trong lãnh đạo và điều
hành của Đảng bộ và chính quyền xã đã nỗ lực phấn đấu phát huy những thuận lợi,
khắc phục mọi khó khăn thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
mà nghị quyết đại hội Đảng bộ đã đề ra, đã đưa đời sống nhân dân xã Lê Ninh không
ngừng được cải thiện và nâng lên đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
*- Những kết quả đạt được:
Quán triệt quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm trong những năm
qua xã Lê Ninh đã tập trung quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư đúng mức cho phát
triển kinh tế tạo ra phát triển nhanh và mạnh trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ, tốc độ giá trị sản xuất tăng bình quân 10,2%/năm. Trong
đó giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 10,1%/năm, Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
tăng 12,2%/năm, dịch vụ tăng 14,3%/năm.
11
Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng trong
nông nghiệp từ 72,4% xuống còn 70,2%, tiểu thủ công nghiệp 9,2% tăng lên 9,4%,
dịch vụ từ 16,2% tăng lên 20,4% trong nông nghiệp trồng trọt giảm từ 76,5% xuống
còn 62,9%, chăn nuôi từ 23,5% lên 37,1% , giá trị sản xuất bình quân đầu người tăng
từ 2,58 triệu đồng lên 4.2 triệu đồng /người/năm.
* Sản xuất nông nghiệp:
Là một xã thuần nông có trình độ thâm canh ở mức trung bình, có điều kiện địa
lý thuận lợi, mặc dù có những khó khăn thiên nhiên thời tiết, Đảng uỷ, chính quyền
cùng các cơ sở luôn coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hoá, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân 10,1%/năm, trong đó trồng trọt tăng bình quân 6,5%/năm, chăn nuôi tăng
19,2%/năm .
Về trồng trọt: Tuy diện tích canh tác giảm do xây dựng một số công trình của
địa phương song vẫn đảm bảo cấy hết diện tích gieo trồng là 488,65 ha, năng suất lúa
tăng 100 tạ/ha năm 2000 lên 118 tạ/ha năm 2005, lương thực bình quân đầu người
tăng từ 350 kg năm 2000 lên 420 kg năm 2005, tích cực đẩy mạnh phát triển trồng
cây ăn quả và cây có gía trị kinh tế cao.
Chăn nuôi phát triển ổn định, đàn lợn tăng từ 2961 con năm 2000 lên 5560 con
năm 2005, đàn trâu giảm, đàn bò tăng từ 129 con năm 2000 lên 449 con năm 2005,
đàn gia cầm tăng nhanh đạt từ 41553 con lên 52044 con , sản lượng cá và con đặc sản
tăng từ 50 - 55 tấn/năm đưa giá trị thu nhập từ chăn nuôi thuỷ sản tăng bình quân 5%
năm.
Công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn từng bước được đẩy mạnh các ngành
nghề và dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ đa dạng, lao động thủ công giảm đi và
được thay thế bằng các thiết bị máy móc hiện đại góp phần nâng cao năng xuất lao
động và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm, diện tích cây
vụ đông phát triển mạnh song chất lượng giá trị chưa cao, kết cấu hạ tầng khu vực
nông thôn còn chưa đồng bộ do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế
nông nhiệp nông thôn theo hướng CNH - HĐH.
* Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xây dựng:
12
Tiếp tục phát huy được tiềm năng thế mạnh của địa phương và một số ngành
nghề truyền thống như sản xuất gạch đất nung và các nghề cơ khí sửa chữa, mộc dân
dụng, HTX làng nghề, tiểu thủ công nghiệp ươm tơ Ninh Xá, khai thác cát sỏi, đóng
gạch ba banh ..., đại bộ phận là tư nhân trên địa bàn đã không ngừng mở rộng quy mô
hiện đại hoá các dây truyền và công nghệ sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và
hiệu quả lao động hàng năm thu hút nhiều lao động về địa phương vào làm việc có
thu nhập ổn định.
Trong xây dựng luôn được địa phương quan tâm trú trọng từ năm 2000 đến
nay xã Lê Ninh đã đầu tư nguồn vốn cho xây dựng cơ bản với số tiền lên tới 5 tỷ
đồng, trong đó gồm các công trình chính như Trường mầm non bán công, Trường
THCS, ngoài ra còn mở rộng các khuôn viên của các trường, sân vận động ở các thôn
và trung tâm, cùng các công trình xây dựng trong dân cũng được phát triển tương đối
mạnh góp phần làm cho bộ mặt nông thôn và xã Lê Ninh ngày một khang trang đổi
mới.
Tuy nhiên trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp vẫn chưa phát triển được những
ngành nghề mới, sản xuất gạch đất nung còn thủ công theo công nghệ cũ, chưa đảm
bảo vệ sinh môi trường và đảm bảo an toàn cho sản xuất , các nghề cơ khí, mộc,
nhôm kính, may mặc, ươm tơ...v.v vẫn chỉ dừng lại ở quy mô hộ gia đình là chính,
chưa liên doanh liên kết để sản xuất, tiến độ xây dựng ở một số dự án công trình còn
hậm chưa thiếu vốn.
* Dịch vụ: Giá trị sản xuất dịch vụ tăng bình quân 14,3% năm. Trong đó tập
trung chủ yếu vào các dịch vụ vận tải như tàu thuyền công nông, máy làm đất, say xát
và tuốt lúa .., ngoài ra địa phương còn tạo điều kiện khuyến khích cho các dịch vụ
buôn bán kinh doanh vừa và nhỏ phát triển mạnh, như các dịch vụ nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp sinh hoạt đời sống, chợ nông thôn, đò bến bãi v.v, đáp ứng được nhu
cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tuy vậy các dịch vụ buôn bán kinh doanh vốn đầu tư còn thấp, hàng hoá chưa
phong phú và đa dạng do vậy chưa tạo ra được sức cạnh tranh trong thị trường cũng
như chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất của nhân dân.
* Giao thông thuỷ lợi:
13
+ Giao thông: Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, Đảng uỷ,
chính quyền đã phát động phong trào làm đường giao thông nông thôn bằng bê tông
hoá, trong toàn xã đã hoàn thành được 8,5 km, mở rộng và áp trúc các tuyến đường
liên thôn đảm bảo thuận tiện cho việc đi lại trong sinh hoạt và giao lưu hàng hoá.
+ Thuỷ lợi: Tu bổ kênh mương, đê điều, xây dựng kiên cố hoá kênh mương
cấp III được 3,5 km, nạo vét hàng trăm mét khối mương máng phục vụ tốt cho việc
tưới tiêu đảm bảo sản xuất.
* Về quản lý đất đai môi trường:
Quản lý đất đai theo đúng luật, sử dụng đúng mục đích, đề nghị trên cấp sổ đỏ
sử dụng đất, thực hiện tốt việc dồn ô đổi thửa, bổ sung quy hoạch sử dụng đất đai đến
năm 2010 đồng thời giải quyết xử lý vi phạm luật đất đai theo thẩm quyền.
* Về quản lý thu chi ngân sách: Hàng năm đều hoàn thành 100% chỉ tiêu
giao nộp các loại quỹ và thuế với nhà nước, tăng cường chỉ đạo khai thác các nguồn
thu, đảm bảo thu đúng, thu đủ, tổng thu ngân sách hàng năm tăng bình quân từ 10 15%/năm, công tác chi ngân sách luôn được thực hiện, tiết kiệm đúng mục đích, hàng
năm đều xây dựng dự toán cân đối ngân sách đảm bảo kịp thời cho các hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương, ước tính 5 năm tổng thu Ngân sách
của xã đạt 6,111 tỷ.
3- Những tồn tại yếu kém và nguyên nhân.
Nguyên nhân khách quan nền kinh tế của xã xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng
chưa đáp ứng, diện tích canh tác chưa đồng đều, áp dụng khoa học kỹ thuật còn thấp,
chưa mạnh dạn đưa các loại cây con mới vào sản xuất đại trà, nên giá trị sản xuất
nông nghiệp không cao, trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ vốn đầu tư
thấp, máy móc thiết bị lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân chủ quan: Công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của
chính quyền ở một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế, chưa thật tích cực chủ động để khai
thác hết tiềm năng thế mạnh của địa phương trong việc phát triển kinh tế.
Trình độ nhận thức và chuyên môn của cán bộ chuyên trách và công chức còn
yếu, chưa đáp ứng nhu cầu đổi mới hiện nay, chưa tích cực sáng tạo trong công việc,
thiếu tham mưu đề xuất giải pháp đã ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của địa
phương.
14
Từ đặc điểm tình hình trên rút ra một số thuận lợi, khó khăn trong phát triển
kinh tế - xã hội của xã như sau:
a- Thuận lợi: Do có chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng, các chỉ thị, nghị
quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành kịp thời hợp lòng dân, có sự
lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ, sự quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện về mọi mặt của
HĐND - UBND huyện.
Là một xã xa trung tâm huyện, có đường giao thông thuỷ bộ, có truyền thống
thâm canh tăng năng suất cây trồng vật nuôi nhiều năm. Do vậy việc giao lưu các
hoạt động kinh tế được mở rộng tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ của địa phương phát triển.
Đảng bộ và chính quyền xã Lê Ninh đã cụ thể hoá được các chỉ thị, nghị quyết
của trên bằng các chương trình hành động cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế của
địa phương, có sự phấn đấu lỗ lực của cán bộ đảng viên và các ban ngành đoàn thể
nhân dân trong xã, nội bộ luôn đoàn kết thống nhất cao, nâng cao được vai trò lãnh
đạo và quản lý điều hành của chính quyền trong việc thực hiện các nhiệm vụ xây
dựng phát triển kinh tế ở địa phương.
b- Những khó khăn:
Điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng còn thấp và chưa đồng bộ, diện tích canh tác
chưa đồng đều, chưa giám mạnh dạn đi sâu, chế biến tiêu thụ nông sản thực phẩm,
nên giá trị nông nghiệp thu nhập không cao, trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ vốn đầu tư thấp, máy móc thiết bị không đáp ứng cho yêu cầu sản xuất kinh
doanh.
Trình độ năng lực điều hành còn thấp, cán bộ công chức chuyên môn còn hạn
chế chưa theo kịp với nhu cầu phát triển quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay.
4- Thực trạng quản lý nhà nước về kinh tế của chính quyền xã Lê Ninh
trong nhưng năm vừa qua.
a- Kết quả đạt được:
+ Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã.
* Về kinh tế:
- Về phát triển nông nghiệp : Đã gieo trồng các loại cây mầu là 488,65 ha,
trong đó có 10,0 ha chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản với năng xuất đạt 120,5 tạ/ha,
15
gieo trồng tích cực chuyển đổi cây trồng quan tâm phát triển cây mầu vụ đông, tập
trung vào các loại cây hành tỏi và rau mầu khác, phát huy tốt trồng dâu nuôi tằm,
chăn nuôi bò lai, gia súc, gia cầm với quy mô lớn, cơ cấu nông nghiệp là 70,2%.
- Về tiểu thủ công nghiệp: Tiếp tục xây dựng các ngành nghề truyền thống như
ươm tơ, gạch đất nung, khai thác cát sỏi, vận chuyển với cơ cấu là 9,2%.
- Về dịch vụ: Trong đó tập trung chủ yếu các dịch vụ vận tải như tầu thuyền, xe
công nông, máy làm đất, say xát và tuốt lúa, ngoài ra khuyến khích các dịch vụ kinh
doanh khác như các hàng quán, bến đò, chợ v.v..., với cơ cấu là 14,3%.
- Về giao thông thuỷ lợi: Thực hiện kiên cố hoá các tuyến đường giao thông
liên thôn và các thôn xóm bằng bê tông đạt 72,0%.
- Về thuỷ lợi: Từng bước kiên cố hoá kênh mương và nạo vét kênh mương đảm
bảo tưới tiêu.
- Về đất đai: Quy hoạch sử dụng đất để sử dụng đất có hiệu quả.
- Về ngân sách: Hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu thu, chi tài chính đúng
nguyên tắc, hàng năm đã tăng thu từ 10% - 12%
* Về xã hội: Hàng năm luôn quan tâm thúc đẩy làm tốt công tác giáo dục, số
trẻ đến trường cao, cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo việc học tập của HS .
- Về y tế làm tốt công tác khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.
- Về văn hoá truyền thanh cơ sở vật chất đảm bảo công tác tuyên truyền được
thường xuyên đảm bảo chất lợng tin bài, phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị địa
phương.
- Thực hiện chính sách xã hội trong những năm qua quan tâm thường xuyên và
làm tốt công tác chính sách xã hội đối với các đối tượng thương binh, liệt sỹ, các gia
đình có công với cách mạng, các đối tượng cứu trợ xã hội.
+ Xây dựng và quản lý ngân sách xã:
- Lập dự toán ngân sách xã hàng năm chuẩn bị cho kỳ họp HĐND xã, UBND
xã đều lập dự toán thu, chi ngân sách cho năm tiếp theo của kế hoạch theo quy định
của cấp trên và địa phương.
Cụ thể: Như phần dự toán thu, chi ngân sách của xã 6 tháng cuối năm 2008
như sau:
4.1: Dự toán thu ngân sách xã cuối năm 2008.
16
- Tổng thu ngân sách xã
1.164.384.200 đ
+ Các khoản thu 100%:
182.934.000 đ
+ Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ %:
652.555.200 đ
+ Thu từ bổ xung ngân sách cấp trên:
328.895.000 đ
4.2: Dự toán chi ngân sách xã cuối năm 2008:
- Tổng chi ngân sách xã:
1.164.384.200 đ
+ Chi đầu tư XDCB:
634.251.000 đ
+ Chi thường xuyên:
530.133.200 đ
4.3: Dự toán thu và sử dụng các quỹ 6 tháng cuối năm 2008.
- Quỹ NVLĐ công ích:
76.875.000 đ
dự kiến chi:
76.875.000 đ
- Quỹ PCLB:
10.750.000 đ
dự kiến chi:
10.750.000 đ
- Quỹ KTM:
10.478.000 đ
dự kiến chi:
10.478.000 đ
4.4: Dự toán thu chi hoạt động tài chính khác:
- Các quỹ chuyên dùng
280.200.000 đ
Dự kiến chi:
280.200.000 đ
- Các hoạt động sự nghiệp:
277.700.000 đ
Dự kiến chi:
277.700.000 đ
* Sự nghiệp văn hoá
277.700.000 đ
Dự kiến chi:
277.700.000 đ
- Sự nghiệp y tế
90.000.000 đ
Dự kiến chi
90.000.000 đ
Giáo dục mầm non:
187.700.000 đ
Dự kiến chi
187.700.000 đ
+ Thực hiện dự toán ngân sách xã 6 tháng đầu năn 2008.
Phần thu:
biểu tổng hợp
stt
chỉ tiêu
dự toán (đ)
thu (đ)
tỷ lệ
đạt %
17
A
I
II
III
IV
Tổng thu ngân sách
1.427.406.000
Các khoản thu 100%
165.399.000
Các khoản thu phân chia theo %
666.267.000
Thu từ bổ sung ngân sách cấp trên
506.480.000
Thu chuyển nguồn ngân sách
89.260.000
598.844.300
72.892.500
13.711.800
422.980.000
89.260.000
42
44
2
84
100
chuyển sang
Phần chi:
biểu tổng hợp
stt
chỉ tiêu
dự toán (đ)
thu (đ)
tỷ lệ đạt
%
A
I
II
Tổng chi ngân sách
Chi đầu tư XDCB
Chi thường xuyên
1.427.406.000
733.841.000
693.565.000
506.175.830
99.590.700
406.585.130
35
14
59
quyết toán
ghi chú
- Quyết toán ngân sách xã 2007
biểu tổng hợp
stt
I
1
2
3
4
II
1
2
3
chỉ tiêu
Tổng thu ngân sách
Các khoản thu xã hưởng 100%
Các khoản phân chia theo tỷ lệ %
Thu bổ sung từ ngân sách cấp huyện
Thu chuyển nguồn từ năm trước sang
Tổng chi ngân sách
Chi đầu tư
Chi thường xuyên
Chi chuyển nguồn ngân sách sang năm sau
kết dư ngân sách
Qua công tác quản lý ngân sách xã thấy.
2.066.263.310
566.639.540
46.215.770
1.333.408.000
120.000.000
2.065.878.286
1.377.079.100
599.539.186
89.260.000
285.026
Phần thu: Nhìn chung các khoản thu dược phân bổ và thu bổ sung từ ngân sách
cấp trên đạt tỷ lệ 84%, đã cơ bản cho việc chi thiết yếu cho con người, các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ ở mức thấp không đạt so với dự toán, mới đạt 2%, nguyên nhân
do việc đấu giá đất chuyển quyền sử dụng đất lệ phí trước bạ chưa làm tốt làm ảnh
hưởng đến việc cân đối ngân sách những vấn đề trên về quản lý nhà nước kiến nghị
với huyện và cấp trên tạo điều kiện cho việc đấu giá đất đồng thời tuyên truuyền vận
động nhân dân thực hiện các chính sách của nhà nước.
Phần chi: Do địa phương thực hiện thu theo mùa vụ nên đầu năm chỉ thực hiện
chi lương, phụ cấp và BHXH - y tế.
18
Các khoản chi hoạt động sự nghiệp và quản lý hầu như còn tồn đọng chính vì
vậy về việc quản lý nhà nước cần tích cực chủ động các nguồn thu và tiết kiệm để
đảm bảo yêu cầu chi.
+ Quản lý và sử dụng quỹ đất 6 tháng đầu năm 2008.
* Hiện trạng sử dụng đất:
- Đất nông nghiệp: 488,65 ha.
Tổng số hộ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong toàn xã là 177 hộ với tổng diện
tích là 27,52 ha, số hộ này sử dụng đất cơ bản có hiệu quả cao hơn so với cấy lúa, ong
cũng có bất cập trong quản lý như một số hộ tự ý xây dựng các công trình nhà bảo vệ
vượt quá mức quy định là 10 m2, san lấp làm ảnh hưởng đến dòng chảy.
Đất công điền, công sản đã được dồn vào từng khu để quản lý.
Đất ở khu dân cư đất ở trong khu dân cư của 5 thôn cơ bản ổn định, các vấn đề
tranh chấp mốc giới đã cơ bản giảm, việc cấp giấy CNQSD đất ở dân cư toàn xã đã
hoàn thành, cấp được 1.097 sổ.
Công tác địa chính thực hiện luật đất đai trên địa bàn xã đã dần di vào nề nếp,
việc sử dụng đất đúng mục đích đã đem lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Để làm tốt công tác quản lý khai thác sử dụng có hiệu quả không để tình trạng
nong dân bỏ đất UBND xã đã chỉ đạo quy hoạch bổ sung kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2010, định hướng chuyển đổi sử dụng đất đúng mục đích ở những khu vực bãi
chũng, những khu vực cấy lúa đạt hiệu quả kinh tế thấp sang lập vườn đào ao, thả cá,
tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ, đồng thời năm 2006 UBND xã cùng với đoàn đo
đạc của sở tài nguyên môi trường đo đạc lại toàn bộ diện tích lập bản đồ hiện trạng
canh tác để hoàn chỉnh hồ sơ cấp giấy CNQSD đất canh tác của hộ nông dân.
Trong các năm đặc biệt năm 2006 UBND đã kiên quyết xử lý các vi phạm luật
đất đai như xây dựng các công trình và lấn chiếm đất đai, giải quyết tốt các đơn thư
tranh chấp của công dân.
19
+ Huy động và quản lý quỹ đóng góp của nhân dân trong năm vừa qua nhân
dân đã tham gia đóng góp xây dựng trường tiểu học trên 100.000.000 đ, đều được
thực hiện theo quy chế dân chủ, thu, chi theo đúng quy định của tài chính còn ở các
thôn nhân dân đóng góp xây dựng đường giao thông thôn xóm, UBND xã đã chỉ đạo
chặt chẽ thực hiện quy chế dân chủ, đồng thời kiểm tra thu, chi đúng mục đích.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
- Xây dựng đường giao thông những năm vừa qua UBND xã chỉ đạo tập trung
xây dựng đường bê tông thôn xóm bằng nguồn vốn hỗ trợ của tỉnh là 20%, xã đầu tư
10% còn lại nhân dân đóng góp bằng ngày công và tiền, đến năm 2008 đã làm được
14 Km, với tổng kinh phí gần 5 tỷ đồng.
Đến nay UBND xã tiếp tục chỉ đạo tuyên truyền vận động nhân dân ở một số
cơ sở thôn chưa hoàn thành kế hoạch tiếp tục đăng ký hoàn thành vào năm 2009.
- Xây dựng kênh mương thuỷ lợi và các phương tiện phòng chống lụt bão.
là một xã nằm cạnh thượng lưu sông Kinh Môn hàng năm bị thiên nhiên, lũ lụt
đe doạ, xã có tuyến đê dài 5,750 Km, công tác quản lý của UBND xã khi mùa mưa lũ
thường xuyên kiểm tra đôn đốc các điếm canh thành lập các ban chỉ huy phòng chống
lụt bão, củng cố đê kè vật tư đảm bảo khi có tình huông xảy ra.
Kênh mương phục vụ tưới tiêu đã xây dựng được trên 3 Km kênh cấp III, kinh
phí hỗ trợ của trên là 50% còn lại nhân dân đóng góp.
- Quản lý và xây dựng cơ sở vật chất trường học từ năm 2000 đến nay đã xây
dựng được 12 phòng học cho trường THCS 12 với kinh phí hỗ trợ của trên, ngân sách
xã và nhân dân đóng góp, ngoài ra còn tu sửa trụ sở UBND, trạm y tế xã, sân vận
động với kinh phí ngân sách xã hàng trăm triệu đồng từ nguồn đấu giá đất, các công
trình xây dựng đều đảm bảo nguyên tắc và sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích góp
phần thực hiện tốt các chương trình kinh tế xã hội của xã.
+ Tổ chức thực hiện dự án công trình áp dụng công nghệ, khuyến nông.
UBND xã trong những năm vừa qua đã tham gia thực hiện tốt một số dự án
của nhà nước và địa phương như điện nông thôn 2, chương trình nước sạch với vốn
vay dài hạn của WB đang tổ chức tuyên truyền và thực hiện giải toả hành nang đền
bù đất đai để thực hiện dự án vào năm 2007, đã hoàn thành dự án vào dồn điền đổi
thửa vào năm 2004.
20
Dự án xây dựng đường giao thông và kiên cố hoá kênh mương hoàn thành vào
năm 2010.
Dự án vùng lúa nhân dân khoảng 10 ha.
Việc áp dụng khoa học công nghệ, khuyến nông được UBND xã coi trọng giao
cho HTX dịch vụ và các ngành đoàn thể, mời các nhà khoa học các công ty giống,
các trường, trạm BVTV, chăn nuôi thú y, khuyến nông về truyền đạt nhiều nội dung
kiến thức cho nông dân đề nghị trên hỗ trợ giống cây con để khuyến khích nông dân
sản xuất.
+ Bảo vệ môi trường UBND xã luôn quan tâm bảo vệ môi trường bởi sản xuất
càng ơphát triển thì ô nhiễm môi trường càng lớn như chất thải chăn nuôi, rác thải
sing hoạt, phân bón thuốc trừ sâu v.v... nên việc quản lý của UBND xã đã có kế
hoạch triển khai công tác vệ sinh môi trường, quy hoạch bãi làm bãi giác thải, quy
hoạch cac khu chăn nuôi tập trung cách xa trung tâm dân cư thành các trang trại tập
trung khơi thông cống rãnh thành lập các tổ vệ sinh môi trường ở các thôn xóm có
ban chỉ đạo vệ sinh môi trường do trạm y tế làm thường trực.
+ Phát triển ngành nghề truyền thống hiện nay xã có một làng nghề ươm tơ tằm
, UBND xã luôn quan tam đến việc xây dựng thương hiệu và phát huy của làng nghề.
Đối với vấn đề vốn, môi trường UBND xã đề nghị trên quan tâm để làng nghề được
phát huy.
+ UBND xã thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm soát ngoài việc kiểm tra giám sát
của Đảng uỷ - HĐND, UBND xã hàng năm luôn duy trì chế độ kiểm tra, kiểm soát
tới các công việc mà UBND xã tổ chức thực hiện như thực hiện kế hoạch thu chi tài
chính đôn đốc thu hồi nợ đọng hoàn thiện cho các dự toán kế hoạch năm sau, kiểm
tra sử dụng đất đai, xử lý vi phạm luật đất đai và sử dụng kế hoạch sử dụng đất, kiểm
tra tình hình phát triển nông nghiệp các dự án đầu tư cho nông nghiệp, kiểm tra việc
thực hiện cơ sở hạ tầng, kiểm tra việc công tác thuỷ lợi đe điều, tưới tiêu vệ sinh môi
trường sau kiểm tra đều có đánh giá rút kinh nghiệm và có kế hoạch chỉ đạo thực hiện
tiếp theo.
III. Phương hướng và giải pháp quản lý nhà nước về kinh tế của UBND xã Lê
Ninh trong thời gian tới.
1- Phương hướng.
21
a, Mục tiêu:
- Mục tiêu tổng quát: Tập trung khai thác mọi tiềm lực, tiềm năng thế mạnh
của địa phương, khắc phục mọi khó khăn đẩy mạnh kinh tế phát triển đa dạng, vững
chắc, tốc độ phát triển kinh tế cao, cơ cấu kinh tế phát triển theo mô hình nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, quyết tâm phấn
đấu xây dựng Đảng bộ chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong sạch
vững mạnh, xây dựng xã Lê Ninh vì mục tiêu dân giàu, xã mạnh, công bằng dân chủ
và văn minh.
- Mục tiêu cụ thể: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã đạt bình quân
12%/ năm, trong đó nông nghiệp tăng 8,3%, tiểu thủ công nghiẹp và xây dựng tăng
12,9%/năm, dịch vụ tăng 18,6%/năm, thu nhập bình quan đầu người đến năm 2010
đạt 6,3 triệu đồng/người/năm.
Cơ cấu giá trị sản xuất đến năm 2010 nông nghiệp 64,3%, tiểu thủ công nghiệp
xây dựng 10,2%, dịch vụ 25,5% .
Thu ngân sách hàng năm vượt kế hoạch từ 10 - 12%.
Phấn đấu từ 90-95% lao động trong độ tuổi có việc làm và có thu nhập ổn định.
Phấn đấu giảm hộ nghèo xuống 12%, tăng dần hộ khá và giàu.
Thực hiện tốt các chương trình phát triển văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế ...
Giữ vững ổ định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng Đảng bộ chính quyền, MTTQ và các Đoàn thể nhân dân trong sạch
vững mạnh.
b- Phương hướng nhiệm vụ cụ thể và giải pháp thực hiện:
* Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp:
Là một xã thuần nông, nhiệm vụ xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
tập trung quan tâm đầu tư đúng mức cho sản xuất nông nghiệp, phát triển theo hướng
22
sản xuất hàng hoá, giá trị sản xuất tăng bình quân từ 4% - 4,5%, trong đó trồng trọt
tăng từ 2 - 2,5%, chăn nuôi tăng từ 5% - 6%, dịch vụ tăng 15% - 17%, tổng sản lượng
quy thóc đạt 3880 tấn trở lên, bình quân lương thực đầu người đạt 540 kg/người/năm.
Đẩy mạnh các biện pháp thâm canh, áo dụng các loại giống mới phù hợp với các loại
đồng đất, phấn đấu năng suất đạt 14 - 14,5 tấn/ha, mở rộng diện tích cây vụ đông từ
90 - 95%, diện tích canh tác với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, phù hợp với
nhu cầu thị trường, đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tích cực chuỷên đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đáp ứng với nhu cầu của thị
trường.
Khuyến khích các hộ gia đình có địa hình thuận lợi đầu tư chăn nuôi đàn bò
sinh sản, định hướng phát triển quy mô trang trại, chăn nuôi gia súc gia cầm theo
phương thức công nghiệp, tận dụng ao hồ để nuôi trồng thuỷ sản, nuôi con đặc sản,
tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, pháp lệnh về đất đai, chăn nuôi
thú y để có phát triển sản xuất và phòng trừ dịch bệnh.
* Đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
+ Tiểu thủ công nghiệp: Tiếp tục duy trì và củng cố các cơ sở sản xuất đã có
khai thác mọi tiềm năng thế mạnh phát huy hiệu quả của làng nghề ươm tơ, tăng
cường mở rộng cac ngành nghề vận tải, bến bãi, khai thác cát sỏi và các ngành nghề
khác để thu hút lao động giải quyết việc làm tăng thu nhập.
Tích cực đẩy mạnh các dịch vụ vận tải như tàu, thuyền, ô tô, công nông, dịch
vụ làm đất, say xát, tuốt lúa, vật tư phục vụ sản xuất, củng cố duy trì quản lý kinh
doanh.
* Xây dựng kết cấu hạ tầng:
+ Giao thông: Tiếp tục phát động phong trào toàn dân làm đường giao thông
nông thôn bằng nguồn vốn của địa phương và đóng góp của nhân dân phấn đấu dến
năm 2010, 100% đường thôn xóm được bê tông hoá phục vụ tốt cho việc đi lại và sản
xuất, giao lưu hàng hoá.
+ Thuỷ lợi: Thường xuyên củng cố nâng cấp tốt các tuyến đê, có phương án
phòng chống lụt bão, hàng năm tổ chức củng cố nạo vét kênh mương đảm bảo phục
vụ tốt cho sản xuất.
23
* Công tác quản lý đất đai: Tăng cường quản lý đất đai theo luật, giải quyết
các tồn đọng trong quản lý đất đai.
* Công tác quản lý tài chính, tín dụng:
Hàng năm hoàn thành tốt cac chỉ tiêu giao nộp, thu tốt các nguồn thu tại địa
bàn, thực hiện xử lý tốt các vi phạm trong quản lý tài chính và chấp hành chính sách
thu nộp trong nhân dân.
Tạo điều kiện cho nhân dân được vay các nguồn vốn của ngân hàng để phát
triển sản xuất.
Thực hiện tốt các chính sách kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện cho các hợp tác xã, các công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân vào địa bàn, đồng thời
khuyến khích các lao động, các hộ gia đình mở rộng quy mô sản xuất, góp vốn liên
doanh, liên kết với nhau, thành lập các tổ hợp, các HTX để phát triển sản xuất, tạo
thêm việc làm cho người lao động có thu nhập, tăng cường công tác quản lý của
chính quyền đối với các thành phần kinh tế, các hộ buôn bán kinh doanh, chống buôn
gian, bán lậu làm hàng giả gây rối loạn thị trường đảm bảo cho các thành phần kinh
tế cạnh tranh bình đẳng đúng pháp luật của nhà nước.
Đối với địa phương phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm
chất và năng lực để quản lý điều hành về kinh tế của địa phương, mở nhiều lớp
chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân về sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thú
y. Đồng thời phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về kinh tế của UBND xã.
Đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo của cấp uỷ đảng và vai trò của các tổ
chức quần chúng nhân dân để thúc đẩy hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế xã hội của xã.
2- Giải pháp nâng cao, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách
thức lớn, chúng ta đã có kinh nghiệm và kết quả của hơn 20 năm đổi mới và đang
đứng trước su thế mở cửa, hội nhập và hợp tác Quốc tế, với những diễn biến phức tạp
đòi hỏi quản lý nhà nước về kinh tế phải tiếp tục đổi mới một cách toàn diện. Yêu cầu
đặt ra là phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước để Nhà nước thực sự là của dân, do
dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng, bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh,
24
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cán bộ công chức nhà nước thực sự là cán bộ của
dân, làm tốt công tác quản lý kinh tế - xã hội đáp ứng và phù hợp với nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động,
quản lý nhà nước về kinh tế của nước ta hiện nay cần thực hiện một số giải pháp sau.
Một là: Nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, giữa
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước về kinh tế, giữa quản lý nhà nước và
quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đại hội IX của Đảng đã
chỉ rõ "Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở" tạo đièu
kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đê quan
trọng, điều đó cũng đặc biệt quan trọng đối với quản lý nhà nước ở cấp cơ sở xã,
phường.
Cần nhận thức và phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng
quản lý của nhà nước Đảng lãnh đạo kinh tế bằng đường lối và chính sách, còn nhà
nước thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân, thông qua nhà nước, Đảng đưa đường lối, chính sách của Đảng
vào cuộc sống. Như vậy Đảng phải tăng cường lãnh đạo nhà nước nhưng không phải
làm thay nhà nước mà tạo điều kiện để phát huy tính chủ động và hiệu quả quản lý
điều hành của nhà nước ở cấp cơ sở, các cơ quan quản lý của nhà nước chịu sự lãnh
đạo toàn diện của đảng uỷ xã, phường.
Hai là: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế, nó có ý nghĩa quan
trọng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, yêu cầu
của nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện qua 2 nội dung chủ yếu sau:
- Nâng cao hiệu lực quản lý thống nhất của nhà nước Trung ương đi đôi với
phân cấp quản lý cho địa phương. Để thực hiện nguyên tắc này nhà nước Trung ương
chỉ tập trung quản lý ở tầm chiến lược, tầm vĩ mô bao gồm việc hoạch định chiến
lược, chính sách Quốc gia chương trình, quy hoạch, kế hoạch, chính sách kinh tế lớn
có tác dụng cho toàn bộ nền kinh tế. Còn chính sách địa phương có trách nhiệm có
thẩm quyền quyết định những vấn đề của địa phương.
25